HỒI THỨ CHÍN MƯƠI LĂM
Cốt nhục trùng phùng,
Thấy hai trẻ quay
trở lại, Cẩm Nhãn hỏi:
– Các em chưa đi ư?
Quốc Kiện thuật lại
vụ Trần Di Ái. Cẩm Nhãn lấy ra hai bộ quần áo dân dã:
– Trang trại nghỉ
của Văn Chiêu hầu thường hội họp ăn uống đông người. Mỗi lần hội, họ đến chợ
trong ấp này mua thực phẩm. Hôm qua họ đặt mua của trại gà Đào Hiệp ba con lợn,
mười lăm con gà, mười con vịt. Trưa nay giao hàng. Để chị gọi Đào Hiệp cho hai
em theo xe giao hàng thì sẽ lọt vào trong dinh đễ đàng.
Quốc Toản cẩn thận:
– Em từng học võ với
ông Di Ái. Liệu ông có nhận ra em không?
– Em nghĩ là không.
Vì em xa ông ấy đến 8 năm rồi. Ông không nhận ra em đâu. Kể cả chú Trần Văn
Lộng.
Cẩm Nhãn sai thị nữ đi
gọi Đào Hiệp. Đó là một đồ tể khá già. Phu nhân nói:
– Này ông Hiệp. Hôm
qua ông có ý tìm người khuân vác lợn, gà để trưa nay giao hàng. Tôi có hai cậu
em này rất khỏe mạnh. Nếu ông muốn mượn thì phải trả mỗi người mười đồng đấy
nhé!
– Có mười đồng thôi
ạ! Tiểu nhân xin trả 20 đồng cho một em. Hôm
nay phải giao hàng trước giờ dậu.
Quốc Kiện, Quốc Toản
đến lò sát sinh của Đào Hiệp. Lợn, gà, vịt đã làm xong. Theo lời chỉ của Đào
Hiệp, hai trẻ vác lợn lên xe, lại bưng mấy cái thúng đựng gà vịt chất lên xe,
rồi ngồi phía sau. Đó là chiếc xe do 2 con bò kéo. Quốc Kiện đề nghị:
– Này bác Hiệp, bác để
tôi đánh xe cho.
Đào
Hiệp trao xe cho Kiện. Chiếc xe lăn bánh về phía núi Cánh diều. Xa xa, trên sườn
núi hiện ra một dinh thự. Dưới chân núi là một trang trại, xung quanh có lũy
tre bao bọc. Cổng trang xây bằng những phiến đá chồng lên nhau.
Trước
cổng có một giáp sĩ, cầm đoản đao đứng gác. Xe tới cổng, tên giáp sĩ nhận ra Đào
Hiệp, y hỏi:
– Hôm
nay ông giao thịt sớm nhỉ? Thịt có tươi không?
– Lò
thịt của lão nổi tiếng ở vùng này, nên bao giờ cũng bán thịt thuộc loại thượng
phẩm đấy anh ạ.
Viên
giáp sĩ cầm dùi đánh ba tiếng mõ. Có một người từ trong dinh đi ra. Gã này còn
trẻ, thân thể lực lưỡng, cao như ông Hộ Pháp ở các chùa. Y quan sát xe sơ sài
rồi chỉ tay vào một khu nhà phía sau dinh:
– Cậu đánh
xe vào kia.
Kiện
biết đó là nhà bếp. Đào Hiệp giới thiệu:
– Đây
là quản gia dinh Văn Chiêu hầu. Anh ta
tên là Vũ Đạt, người bặt thiệp, rất tử tế.
Vũ Đạt
nói với Đào Hiệp:
– Hôm
nay tôi phải nấu ăn cho nhiều khách. Mà nhà bếp thiếu người. Ông Hiệp ơi! Ông
cho tôi mượn hai cậu này được không?
Y chỉ
vào đống củi:
– Hai
cậu này khỏe mạnh quá. Tôi cần hai cậu bổ đống củi này. Tôi sẽ trả cho mỗi cậu
50 đồng.
Đào
Hiệp đưa mắt hỏi Quốc Kiện. Quốc Kiện vui vẻ:
– Anh
em chúng tôi đang cần tiền, mà ông mượn làm việc thì thực là may quá.
Trong
bếp có tới mười mấy người phục dịch, vừa nam, vừa nữ. Quốc Kiện, Quốc Toản vác
thịt vào bếp, để lên cái bàn lớn. Quốc Toản được trao giúp cho một thiếu phụ tên Hạnh, bà là vợ Vũ Đạt. Bà
chỉ cho Quốc Toản hai cái búa bên cạnh đống củi:
– Hai
cậu bổ củi đi. Cậu khôi ngô, khỏe mạnh, lát nữa nhờ cậu bưng thức ăn lên đại
sảnh. Còn việc bầy mâm tiệc sẽ có người lo.
Quốc
Toản phóng mắt nhìn ra sân: ngoài sân
Trần Di Ái, Trần Văn Lộng đang hướng dẫn khách xem hoa. Khách là 4 trung
niên nam tử . Cả bốn người chỉ có một người giống người Việt, người Hán. Còn ba
người râu, tóc vàng hoe, rõ ràng là người Tây vực. Ngực chúng đeo hổ phù. Quốc
Toản nghĩ thầm:
– Ba
tên râu tóc vàng kia nhất định là người Tây vực làm quan với Nguyên. Còn tên người
Hán kia thì là bọn Hán gian.
Hầu
nói sẽ vào tai Quốc Kiện:
– Bọn
này là bọn quan Mông cổ, vì chúng là người Tây vực.
Giữa
lúc đó có hai người mới tới, họ gồm một nam tuổi khoảng 35-36, một nữ tuổi
khoảng 30. Nam thì
hùng vĩ. Nữ thì yểu điệu. Bà ta mặc chiếc váy lụa đen, áo cánh mầu xanh óng ánh
như lông chim chả.
Bà
Hạnh liếc nhìn hai người mới tới, rồi nói với Quốc Toản:
– Ông
này tên Đinh Thành Trân là đại
tư xã này. Vợ ông tên
Thúy Vi. Bà nổi tiếng hoa khôi đất Trường yên. Ông ta thường
lui tới cầu cạnh với Chiêu Hòa vương, để
vương giúp cho ông ta lên chức An phủ sứ Nho quan đấy. Hôm qua ông ta cho con
gái đến để hầu hạ phu nhân của Văn Chiêu hầu (Trần Văn Lộng).
Vợ
chồng Thành Trân hành lễ với Di Ái, Văn Lộng. Bốn người khách dán mắt vào Thúy
Vi. Quang Lộng vẫy tay cho vợ chồng Thành Trân lên dốc, rồi vào trong ngôi nhà
chính tòa.
Người
Hán nhìn Thúy Vi, miệng nuốt nước miếng ừng ực, y nói tiếng Mông cổ:
– Người
đàn bà này đẹp thực. Chỉ tiếc hơi lớn tuổi.
Văn
Lộng mỉm cười:
– Thị
là người đẹp nhất trấn này đấy. Nếu đại nhân muốn, thì tôi sẽ bảo chồng chị
dâng hiến cho đại nhân.
Quốc
Kiện nói nhỏ vào tai Quốc Toản:
– Anh
phải cẩn thận . Đây là bọn An nam tuyên úy ty của Nguyên sai sang ta đấy! Em
biết tên chúng.
–
!?!?!?
– Bọn
Nguyên bắt nước mình chịu sáu điều. Triều đình chối tuốt luốt. Tuy nhiên cũng
phải nhận Đạt lỗ hoa xích. Gần đây Nguyên gọi Đạt lỗ hoa xích về, rồi cho thành
lập An nam tuyên phủ ty, như một triều đình nhỏ của họ, sai sang ta, để không
chế triều đình mình. Trên cao nhất là chức An nam tuyên phủ sứ, tên Bốc Nhan
Thiết Mộc Nhi. Cái tên râu vàng đeo hổ phù hình mặt trời vàng chính là y. Y thu
dụng người Việt, rồi phong chức, tước như một triều đình. Bọn gian, bọn bán nước
cầu vinh theo chúng khá đông. Bọn Tuyên phủ ty tìm đủ cớ hoạnh họe triều đình.
Bọn Việt gian lộng hành khiếp lắm. Anh thấy không, địa vị cao như ông Trần Di Ái,
chú Trần Văn Lộng mà cũng gập người cung phụng chúng.
Quốc
Toản cười:
– Tên đó
gọi theo âm Hán, anh biết tiếng Mông cổ, Bốc Nhan Thiết Mộc Nhi gọi theo tiếng
Mông cổ là Buy-an Tê-mua (Buyan Tămua).
–
Ngoài ra còn hai tên phó là Sài Thung và
Hốt Kha Nhi.
– À
Hốt Kha Nhi tên Mông cổ là Khu-ghe (Qugă). Y đeo hổ phù hình mặt trời bạc. Gã
Hán đeo hổ phù mặt trời bạc tên Sài Thung. Còn tên Mông cổ đeo hổ phù con cọp
kia không biết là ai.
Vũ Đạt
bảo Quốc Toản:
– Các
thị nữ đều đang bận. Chú em bưng thức ăn lên đại sảnh giúp ta.
Quốc
Toản bưng cái mâm đồng, trên có hai đĩa lớn đựng thịt lợn quay. Hai đĩa thịt
vịt luộc. 6 cái bát ăn cơm, 6 đôi đũa, hai bình rượu, 6 cái chén tống bằng bạc.
Vượt qua hơn mười bậc thềm, vào trong chính tòa. Trong căn phòng trang trí cực
kỳ hoa lệ.Văn Lộng ngồi trên cái ghế bành bọc da hổ. Hai vợ chồng Đinh Thành Trân ngồi đối diện trên hai cái ghế nhỏ. Quốc Toản
với Vũ Đạt bầy món ăn, bát, đũa, rượu lên bàn.
Văn
Lộng hỏi:
– Này
anh Đạt! Thằng bé này anh mượn ở đâu vậy?
– Thưa
quân hầu, nó là người của tên đồ tể Đào Hiệp. Tiểu nhân thiếu người phụ bếp, mượn
nó bổ củi. Nó là trai quê, không biết tiếng Hoa đâu!
– Nhìn
nó khôi ngô đáo đáo để. Con bé Thúy Hòa đang
khóc lóc lôi thôi. Anh để thằng bé này phục dịch ở đây đi. Nó tên gì vậy?
Quốc
Toản nhanh miệng:
– Dạ
tiểu nhân họ Võ tên Kinh Hồ.
Vũ Đạt
huấn luyện Quốc Toản sơ sơ cách bưng nước, rót nước, rồi dặn:
– Chú
em ngồi ngoài cửa này. Khi quân hầu gọi mới được vào.
Văn
Lộng hỏi Đinh Thành Trân:
– Tôi đã
dặn anh trước, lần này tôi cần 4 thiếu nữ thực thanh lịch, còn trinh để chiêu đãi
bốn vị đại nhân. Anh chỉ mới tìm được hai người. Còn hai người nữa đâu?
– Thưa
quân hầu, trong xã tiểu nhân, con gái đều xinh đẹp, nhưng mười hai, mười ba thì
lấy chồng hết. Thần nhờ Dì Năm đi khắp trấn lùng tìm cũng không có. Ngay con bé
Thúy Hòa, thần đã hứa gả cho người ta rồi, mà thần cũng phải đem dâng cho Tuyên
úy sứ.
– Như
vậy còn thiếu một người.
– Tiểu
nhân xin cho Thúy Vi thay có được không?
– Vợ
anh thì đẹp thực, nhưng đã 30 tuổi, đã có hai con, thì các đại nhân đâu có thèm
ngó tới? Nhưng thôi, không có người thì Thúy Vi thay cũng tạm được. Cho anh
lui.
Thành
Trân bẽn lẽn nhìn vợ rồi lui khỏi phòng. Di Ái với bốn người khách vào. Phân
ngôi chủ khách xong. Di Ái cung tay nói bằng tiếng Hán:
– Vì
bốn vị đại nhân giá lâm quá khẩn cấp, nên tiểu vương không chuẩn bị những món
thời trân cung hiến. Tạm mời chư đại nhân dùng thử thịt vịt Trường yên với thịt
lợn sữa quay. Nhưng không thể thiếu tái dê. Đây là dê núi Côi sơn. Còn đây là rượu
tắc kè, bổ thận, tráng dương.
Ông ta
nói nhỏ:
–
Chúng tôi phải tiếp đại nhân ở đây, chứ tiếp ở Thăng long thì e tai mắt bọn Khu mật viện sẽ biết thì khó thay.
Thúy
Vi vào trong một lúc rồi dẫn hai thiếu nữ xinh đẹp ra. Một mặc áo xanh, một mặc
áo hồng. Ba người chia nhau, đứng thõng tay hầu.
Di Ái
ra lệnh cho Thúy Vi:
– Mời
rượu.
Thúy
Vi, với hai thiếu nữ vén tay, rót rượu mời tận tay bốn người khách với Di Ái, Văn
Lộng.
Quốc
Toản cười thầm:
– Bọn
bay tưởng nói với nhau bằng tiếng Hán thì ta không biết. Bọn bay lầm to rồi.
Di Ái
chỉ vào người đeo hổ phù hình chó sói hỏi Bốc Nhan Thiết Mộc Nhi:
– Thưa
ngài Tuyên úy sứ. Vị
này là thế nào?
– Vương gia không biết y cũng phải. Y mới
từ Chiêm thành âm thầm sang gặp tôi. Y tên là Đường Ngột Đải. Y lĩnh chức
Tả-thừa hành tỉnh Chiêm dưới quyền Toa Đô đánh Chiêm.
Quốc Toản nghĩ thầm:
– Đường Ngột Đải ư? Tên Mông cổ của y là
Tang-gu-tai (Tang’utai).
Đến đó Vũ Đạt lên, y dẫn theo hai người
Việt. Văn Lộng đứng dậy chào hỏi:
– Hai thầy là Lê Tuân, Lê Mục phải không? Hai
thầy chuẩn bị xong chưa? Ngày mai hai thầy tháp tùng phụ vương lên đường sớm.
– Thưa
quân hầu, khi nhận được chiếu chỉ đi sứ, anh em thần đã chuẩn bị ngay. Mọi việc
xong từ mấy hôm rồi.
Lê Tuân, Lê Mục gập người lại
hành lễ với bọn Tuyên phủ ty, nói những lời chúc mừng bằng tiếng Mông cổ.
Văn
Lộng chỉ vào hai vị trí thấp nhất:
– Hai
thầy an tọa. Mời hai thầy dự tiệc với các vị Tuyên úy ty của Thiên triều hầu
bàn chi tiết những gì cần làm khi đến Đại đô.
Nhân
Hòa vương đứng dậy cung cung kính kính nói với bọn Tuyên phủ ty:
– Vì ở
Thăng long tai mắt của Khu mật viện rất nhiều, nên tiểu vương phải âm thầm mời
các đại nhân vào đây để nghị sự. Vì ngày mai tiểu vương cầm đầu sứ đoàn sang Đại
đô rồi. Không biết chư vị có gì dạy bảo thêm không?
Sài
Thung nói tiếng Việt:
– Vương
gia phải cẩn thận lắm mới được. Vì hiện hoàng đế Chí Nguyên rất sủng ái một người
con gái Việt phong cho thị tước Nguyên phi; y thị tên Bạch Liên nhũ danh Đặng
Thị Anh. Đặng thị lập nhiều công với hoàng thượng. Trong việc tranh ngôi với A
Lý Bất Ca, hoàng thượng thắng được y,
hầu hết do Đặng thị. Thị kiến giải giúp hoàng thượng đoạt được vùng Tứ xuyên, Thảo
nguyên. Chính vì vậy, thị nói gì hoàng thượng cũng nghe. Y thị nguyên là ca kĩ
khét tiếng Thăng long. Từng là thứ thiếp của Phiêu kị thượng tướng quân, Nhân
huệ vương Trần
Khánh Dư. Triều Nguyên từ thân vương, hoàng tộc, dĩ chí văn võ quan đều nể vì y
thị.
Di Ái
cười nhạt :
– Ý
Tuyên úy phó sứ muốn nói : việc tiểu vương cầu hoàng thượng phong cho làm
An Nam quốc vương sẽ bị Đặng thị cản trở phải không ? Tôi biết gốc tích y
thị. Biết rõ cha mẹ thị là ai, ở đâu. Tôi có thể khống chế cha mẹ thị, bắt thị
phải làm theo ý ta.
Đường
Ngột Đải lắc đầu :
–
Không dễ đâu ! Nguyên phi bỏ tiền ra mua những thiếu nữ xinh đẹp, dạy ca
múa, rồi gả cho các thân vương
Mông cổ. Nếu như vương gia khống chế cha mẹ của phi, thì
phi có thể chặt đầu vương gia, dù vương gia là sứ thần, hay An Nam quốc vương. Đây
là người đàn bà có bản lĩnh, có thế lực lớn.
– Nếu
tiểu vương chứng minh rằng y thị làm Tế tác cho Đại việt thì hoàng thượng sẽ
giết y thị ngay !
Sài
Thung than :
– Khó lắm ! Chưa chắc hoàng thượng đã tin vương
gia. Trong triều thì thái tử phi Đặng Ngọc Kỳ là cháu Nguyên phi. Vương phi
Trấn nam vương Thoát Hoan tên
Ngọc Trí là em họ phi. Ngoài ra phu nhân của Lý Hằng là Ngọc Quốc do phi cưới cho.
Lý Hằng là một đại công thần, có đại công diệt Tống triều, hiện lĩnh Tham tri
chính sự Kinh hồ hành tỉnh.
Thung chỉ vào Đường Ngột Đải :
– Ngay Tuyên úy sứ Chiêm thành đây cũng được phi gả em
họ tên Ngọc Cách cho. Bốn giai nhân Ngọc Kỳ, Ngọc Trí, Ngọc Quốc, Ngọc Cách đều
là những người đẹp, lại nhu mì, ca múa, tề gia nội trợ rất giỏi, nên được lòng
chồng. Cả bốn đều có uy tín tại triều đình Chí Nguyên.
Đường
Ngột Đải lên mặt dậy dỗ cho Trần Di Ái:
– Muốn
được phong An Nam quốc vương thì khi vương gia tới Đại đô, nên dùng hậu lễ với
Nguyên phi, hơn là gây thù chuốc oán với phi.
Đến đó
Vũ Đạt xuất hiện, y nói với Quốc Toản:
– Thôi
cậu có thể về. Vợ tôi sẽ trả tiền cho cậu.
Quốc
Toản lui xuống bếp. Bà Hạnh trao cho hầu với Quốc Kiện mỗi người 50 đồng :
– Chị
trả tiền cho em dây. Thôi các
em về nhé.
Bà ta
dúi vào tay mỗi người một nắm xôi lớn, một cái đùi gà quay:
– Tối
rồi, các em ăn xôi với gà quay đi.
Quốc
Toản, Quốc Kiện cầm tiền, ra khỏi dinh khoảng hai dặm, Quốc Kiện kéo Quốc Toản
vào một ngõ nhỏ rồi hỏi :
– Anh
thấy thế nào ?
– Cái
việc ông Di Ái tiếp tụi Tuyên phủ ty nhất định ẩn dấu một âm mưu gì. Nếu ông được
triều đình trao cho chiêu đãi chúng thì sao ông phải dấu chúng trong xe kín,
rồi lại nói : tiếp ở Thăng long thì
e tai mắt bọn Khu mật viện sẽ biết thì khó thay.
Quốc
Kiện tiếp:
– Dù
sao chúng mình cũng là hai đứa trẻ ranh. Thân phận trong giòng họ Đông a quá
thấp. Chức vị còn thấp hơn nữa. Phải cẩn thận, bằng không ông Di Ái, chú Văn
Lộng có thể nhân danh này, nhân danh nọ kết tội rồi giết chúng mình.
Quốc
Toản thuật lại những gì Di Ái , Văn Lộng trao đổi với bọn Tuyên phủ ty, rồi
bàn:
– Bây
giờ chúng ta trở lại dinh, dò xét xem. Võ công của em không cao. Nếu em vào dễ
bị lộ. Vậy em về dinh của anh Đại Hành tại Côi sơn chờ anh. Mình anh thám thính
được rồi.
– Anh
phải cẩn thận nghe.
Quốc
Toản theo lũy tre vòng ra sau dinh Văn Chiêu. Hầu thấy một lỗ hổng của hàng
rào:
– Ta
theo lỗ hổng này vào dinh được rồi.
Hầu chui qua hàng rào tre vào trong. Một
mùi hôi nồng nặc xông lên. Có hai ngọn đèn xanh chiếu ra từ một bụi cây. Kinh nghiệm những ngày ở dưới giếng,
mùi hôi, ánh sáng xanh, Quốc Toản biết đó là con cọp. Hầu nhủ thầm :
– Văn Chiêu hầu dùng kọp canh gác sau
dinh đây! Mình cần khống chế nó.
Con cọp gầm gừ rồi nhảy tới vồ Quốc Toản.
Hầu xuống trung bình tấn, vận sức vào hai tay nắm lấy hai chân trước nó, ném nó
vào tảng đá, rồi phát chiêu Phản bản hoàn nguyên trong Tán lạc tiêu hồn chưởng. Đầu con cọp bị bẹp dí, nó dẫy mấy cái rồi
nằm im.
Dưới ánh trăng, hầu nhìn khu vườn phía
sau dinh : có hơn 20 cái chuồng thú , gồm khỉ, dười ươi, nai, hươu,
cầy, báo, hổ, trăn. Phía cuối vườn còn có hai thớt voi. Quốc Toản nghĩ
thầm :
– Chú Lộng quả thực là người biết thưởng
thức cảnh thiên nhiên, thích nuôi thú rừng. Dù nói cách nào ông cũng là con của
Nhân Hòa vương Trần Di Ái, ông ngang vai với bố
mình, thì ông là chú mình. Theo Quốc Kiện thì ông đang giữ chức Tổng trấn Trường
yên kiêm thống lĩnh hiệu binh Trung Thánh dực.
Hầu hướng mắt nhìn về phía dinh :
các phòng đều chiếu ánh sáng ra, thấp thoáng bên trong có người hoạt động. Đâu đó
có tiếng đàn bà nói. Hầu núp ngoài cửa sổ, ghé tai nghe, dùng tay vận âm kình chọc thủng giấy
dán cửa sổ nhìn vào. Bên trong, một trung niên thiếu phụ trang phục sang trọng,
thanh nhã đang ngồi trước ba thiếu nữ với Thúy Vi. Một thiếu nữ áo vàng cực kỳ
xinh đẹp, mặt hơi giống Thúy Vi. Một thiếu nữ áo xanh, một thiếu nữ áo hồng
nhan sắc tươi như hoa. Đó chính là hai thiếu nữ cùng Thúy Vi hầu rượu bọn Tuyên
phủ ty.
Thúy Vi nói với ba thiếu nữ :
– Đây là phu nhân của Văn Chiêu hầu.
Quốc Toản nhớ lời Quang Kiện nói :
bà vợ của chú Lộng có khuê danh Ngọc Từ. Bà là người có học, thường giúp chồng trong
việc quan.
Bà
Ngọc Từ nói với Thúy Vi và ba thiếu nữ :
– Các
người có biết tại sao ta may cho các người những bộ quần áo sang trọng, lại cho
các người đeo nhiều nữ trang không ? Trước hết Thúy Hòa, con trả lời cho
ta nghe nào ?
Thiếu
nữ áo vàng cung kính đáp :
– Thưa
phu nhân, hôm qua phu nhân dã nói rồi : hôm nay Nhân Hòa vương phải tiếp
khách Thiên triều. Phu nhân muốn các con hầu hạ các vị đại quan Thiên triều. Có
phải không ạ ?
Ngọc
Từ cười :
– Đúng
vậy ! Các con chỉ cần hầu các đại quan Nguyên ba đêm thôi, tất cả quần áo,
nữ trang trên người ta cho các con hết. Ta lại cho mỗi con mười nén bạc nữa.
Cô gái
áo xanh kinh ngạc :
– Thưa
phu nhân ! Dì Năm nói với mẹ con rằng phu nhân muốn mượn con hầu hạ cơm nước
cho quý khách mà thôi. Sao bây giờ phu nhân lại bảo con phải hầu các đại quan
ba đêm. Như thế là thế nào ?
Ngọc
Từ nói sẽ :
– Con
này đần quá đi. Các con phải biết đây là những đại quan của Thiên triều. Trong
thiên hạ có hàng vạn, hàng ức con gái chỉ muốn diện kiến các vị đại quan mà
không được. Đây các con được các vị ấy ôm ấp trong lòng, thực là vạn vạn hạnh,
nhớ đời đời. Rồi còn được ta cho quần áo đẹp, vàng ngọc.
Thúy
Hòa hỏi Thúy Vi :
– Mẹ ơi !
Bố mẹ đã gả con cho anh Linh rồi ! Đám hỏi đầy đủ lễ nghi. Đồ sính lễ rất
hậu. Bây giờ mẹ lại bắt con ngủ với người Thát đát. Như vậy con mất trinh thì
khi anh Linh cưới con, anh ấy biết thì sao ?
Thúy
Vi vuốt tóc con gái :
– Con ơi !
Đời con gái chỉ cần được một đêm nằm kề đấng anh hùng là mãn nguyện rồi. Vì vậy
mẹ mới cho con vào dinh này hưởng cái thanh phúc đó.
Ngọc
Từ tiếp lời Thúy Vi :
– Con ơi !
Mẹ con đã trên 30 tuổi, có hai con, thế mà còn cầu khẩn với ta để được hầu hạ
các vị đại quan đấy. Con phải hãnh diện chứ sao lại khóc lóc.
Thúy
Vi nói :
– Bố
con làm chức đại tư này 10 năm nay, cũng vẫn là đại tư. Nay chỉ cần mẹ con ta
hầu hạ các vị quan Thiên triều ba đêm là bố con sẽ được Nhân Hòa vương cất nhắc
lên làm an vũ sứ huyện Nho quan. Bấy giờ mẹ sẽ thênh thang ngôi mệnh phụ. Con sẽ
là đại tiểu thư. Vinh hiển biết bao !
–
Khiếp ! Con đã thấy mấy ông
quan Nguyên rồi ! Ông nào râu tóc cũng vàng hoe, lông lá như
thú rừng, người lại to lớn, hôi hám. Con thà chết chứ không ngủ với mấy con đười
ươi đó đâu.
– Chịu
khó đi! Chỉ ba đêm thôi, bố con được thăng
An phủ sứ Nho quan, con sẽ là một tiểu thư. Bấy giờ không thiếu gì người tới
cửa cầu hôn. Mẹ sẽ gả con cho một người tài trí, thì danh dự biết bao?
– Con
quyết không chịu!
Ngọc
Từ lạnh lùng :
–
Không chịu cũng phải chịu.
Bà ta nói vọng ra ngoài :
– Tụi bay đâu ?
Một mụ đàn bà gầy đét, mặt nhợt nhạt,
trông như cái thây ma, răng vổ ra trước với ba thị nữ xinh xinh bước vào
chờ lệnh.
– Đưa ba con bé này sang bên phòng ngủ
của quý khách.
Bà chỉ vào mụ gầy đét :
– Ta nói cho các người biết, đây là Dì Năm.
Dì Năm canh phòng trước cửa phòng các người. Các người đừng hy
vọng chạy trốn.
Thúy
Hòa với thiếu nữ áo xanh, áo hồng rời khỏi phòng. Ngọc Từ nói với Thúy
Vi :
– Em
tuy tuổi đã ba mươi, mà ban nãy ta thấy ngài phó sứ Sài Thung cứ dán mắt vào em. Lát nữa ngài vào
phòng, em phải trổ tài sao cho ngài say mê em, thì phụ vương ta mới nhờ vả ngài
được.
– Phu
nhân yên tâm. Ngài đã uống rượu say. Khi
say rồi thì dù em có hơi lớn tuổi, cũng thành gái 13-14!
Có
tiếng khóc thút thít ở phòng bên cạnh. Quốc Toản núp ngoài cửa sổ, dùng ngón
tay chọc thủng giấy nhìn vào : Thúy Hòa đang ngồi trên giường khóc, cạnh đó
một thị nữ đứng canh coi. Thị nữ nói với
Thúy Hòa :
– Tôi
tên Nhài. Phu nhân giao cho tôi canh chị, sợ chị trốn đi.
Thúy
Hòa hỏi :
– Chị
Nhài này ! Tại sao phu nhân lại bắt tôi phải dâng trinh tiết cho bọn Thát đát ?
– Cái
vụ dùng con gái đồng trinh hiến cho các ông An nam Tuyên phủ ty là Nhân Hòa vương
chứ không phải Văn Chiêu hầu đâu. Mỗi lần các quan Tuyên phủ sứ từ Thăng long vào đây nghỉ mát, thì vương lại
ban chỉ sai con trai tìm gái đồng trinh dâng cho bọn khốn nạn này. Hôm nay bọn
chúng tới 4 người, mà Dì Năm chỉ kiếm được em với Bích Phương, Hồng Phương, nên
phu nhân bắt mẹ em thay thế. Bố em không những không buồn, mà còn lấy làm hãnh
diện nữa.
– Tại
sao Nhân Hòa vương phải dâng gái cho bọn này, trong khi triều đình mình không
nhận chúng ?
– Em
không biết đâu. Hôm trước không có gái đẹp, vương bắt chị phải ngủ với tên Bốc
Nhan Thiết Mộc Nhi. Tên này là người Tây vực làm quan với Mông cổ. Người y to
lớn, lông tóc vàng hoe như thú vật. Y
hành hạ chị suốt đêm, đau đớn muốn xé ruột, đứt gan ra được. Đau quá chị khóc
lóc, thì trong lúc ôm chị trong lòng y tiết lộ :
« Đừng khóc ! Trần Di Ái bỏ tiền ra mua em
về đây. Y cho em hầu hạ ta. Em được ta sủng ái, đổi
lại y sẽ được ta tâu lên Thiên triều
phong cho y làm vua An Nam. Khi y lên ngôi vua, y sẽ gả em cho những văn quan,
võ tướng thì em sẽ sung sướng biết bao.
–
Thưa ngài em không hiểu !
–
Để ta nói cho em nghe : triều Nguyên muốn bắt An Nam chịu 6 điều. An nam
quốc vương chỉ chịu có hai điều. Một là nhận Đạt lỗ hoa xích, giám sát việc cai
trị. Bây giờ đổi là Tuyên phủ ty, như một triều đình nhỏ cai trị An Nam. Ta là
Tuyên úy sứ. Ta sẽ phế cái gã An nam quốc vương xuống, rồi xin Thiên triều phong
cho Di Ái thay thế. Điều thứ nhì là gửi con em sang làm con tin, thì An nam đã
gửi một người tài trí vô song là Vũ Uy vương Nhật
Duy sang. »
Quốc Toản đã biết việc này. Hầu
nghĩ :
– Không biết hai năm qua Hốt Tất Liệt đã
dùng cha mẹ ta vào việc gì ?
«
Nhưng Thiên triều muốn An nam quốc vương thân sang Đại đô chầu. Gã An nam quốc
vương viện hết lẽ này đến lẽ khác không chịu sang. Thiên triều đòi : không
sang được thì phải làm một tượng bằng vàng thay thế. Hai mắt là hai hạt kim cương.
Phải cống nho sĩ, thầy bói, thợ khéo, võ sĩ, mỹ nữ mỗi loại hai người. Gã vua
An nam không tuân. Y gửi chú là Trần Di Ái sang thay thế. Bấy lâu nay Di Ái
từng là tai mắt của Thiên triều. Nên trước khi đi, y dâng gái đẹp, vàng ngọc cho ta, để ta tâu về triều xin
hoàng đế Chí nguyên nhân dịp y đi sứ phong cho y làm An nam quốc vương. ».
Thúy Hòa hỏi :
– Hôm trước ông Di Ái đã dâng chị
cho tên Bốc Nhan Thiết Mộc Nhi. Hôm nay
ông lại bắt em ?
– Vì tên Bốc Nhan Thiết Mộc Nhi, muốn gái
còn trinh.
Có tiếng của Ngọc Từ gọi :
– Nhài đâu !
Con Nhài ra ngoài, không quên khóa cửa
lại.
Qua mấy câu trao đổi giữa Thúy Hòa với người
tỳ nữ, Quốc Toản ớn da gà :
– Thì ra ông Trần Di Ái chính là một tên
Vuông, hay Tròn đây. Ta phải phá cho vụ này nát bét ra, trước khi về Thăng
long.
Hầu dùng âm kình phóng vào cánh cửa sổ.
Bản lề bị vỡ, hầu đẩy mạnh, cánh cửa bật ra ngoài. Hầu tung mình vào trong. Thúy
Hòa kinh hoảng định la lên, thì hầu xẹt tới điểm huyệt hạ quan. Miệng Thúy Hòa
bị cứng đơ, không mở ra được nữa.
Hầu nói nhỏ vào tai nàng :
– Chị ơi ! Tôi cứu chị ra khỏi đây.
Chị đừng sợ.
Hầu cặp Thúy Hòa vào nách, nhảy qua cửa
sổ. Thuận tay hầu lắp cửa sổ như trước. Đem Thúy Hòa ra khỏi lũy tre. Hầu nói sẽ
vào tai nàng :
– Tôi
giải huyệt cho chị. Chị đừng nói lớn nghe.
Vừa được
giải huyệt, Thúy Hòa khẩn cầu :
– Anh
là ai mà lại ra tay tế độ cứu tôi ? Anh cứu tôi giống như anh đẻ ra tôi
một lần nữa. Nếu có thể, anh cứu cả hai người bạn tôi là Bích Phương, với Hồng
Phương thì phúc đức biết bao.
– Vậy
chị ngồi đây chờ nghe.
Hầu
chui vào trong vườn, nhìn thấy hai con đười ươi trong chuồng, hầu tiến tới
phóng hai chỉ điểm huyệt chúng, rồi mở cửa chuồng đem chúng ra. Hầu xách
cổ chúng đem một con vào phòng Thúy Hòa, đặt lên giường, rồi lấy chăn đắp kín đầu
nó lại. Vượt cửa sổ ra ngoài. Hầu chọc thủng giấy dán cửa sổ phòng thứ nhì,
nhìn vào : bên trong Bích Phương đang ngồi sụt sùi khóc. Hầu vận âm kình đánh
vào cửa sổ. Cánh cửa bật tung rơi xuống. Hầu nhảy vào phòng như chiếc lá rụng,
Bích Phương há miệng định kêu, thì hầu đã điểm huyệt, cặp nàng vào nách mang ra
ngoài. Hầu đem con vượn thứ nhì để lên giường, lấy chăn đắp lại. Hầu sang phòng
thứ ba, Hồng Phương mở cửa sổ đang leo ra ngoài, dường như định trốn. Dì Năm đuổi
theo túm cổ nàng nhắc bổng lên, miệng cười khành khạch :
– Con ơi !
Con định trốn đi đâu ?
Quốc
Toản xẹt tới điểm huyệt đại trùy mụ. Người
mụ cứng đơ. Hầu túm cổ mụ nhắc lên đem vào phòng Hồng Phương đặt lên giường,
lấy chăn đắp lại rồi khép cửa sổ như cũ.
Hầu
kẹp hai nàng vào nách, chui theo lỗ hổng hàng rào ra ngoài, đặt hai nàng cạnh
Thúy Hòa. Thúy Hòa lên tiếng :
– Hai
chị đừng sợ ! Tiểu anh hùng này cứu chúng mình đấy.
Quốc
Toản giải huyệt cho cả ba nàng. Hầu hỏi :
– Các
chị có biết bà Ngọc Từ định dâng các chị cho tên Thát đát nào không ?
Thúy
Hòa rùng mình :
– Theo
bà ta nói, bà ta dâng tôi cho tên Bốc Nhan Thiết Mộc Nhi. Dâng Bích Phương cho
tên Hốt Kha Nhi. Hồng Phương cho tên Đường Ngột Đải. Còn mẹ tôi thì dâng cho
tên Sài Thung.
Hầu
dẫn ba nàng rời con hẻm ra đường :
– Bây
giờ tôi dẫn các chị đi trốn. Tôi sẽ gửi ba chị ở dinh Tuyên uy đại tướng quân,
Trung hòa hầu tại ấp Côi sơn. Phu nhân của hầu sẽ chiếu cố cho các chị.
Hầu
hỏi:
–
Trong dinh còn có cái mụ già khú đế, mà bà Ngọc Từ gọi là Dì Năm. Con mụ Dì Năm
này là người thế nào?
Bích
Phương kể:
– Con
quái vật này thời thơ ấu cũng có chút nhan sắc. Thị cũng có chồng, có hai con
trai. Nhưng là người trắc nết, lăng loàn chồng chung vợ chạ nay người này, mai
người khác. Mụ cũng tập tành làm thơ, ai mụ cũng ngủ với được, mụ là thứ gái điếm
miễn phí. Nên những bọn tứ chiếng, bọn vô tư cách, được mụ cho ngủ không phải
trả tiền xúm vào nịnh mụ, sửa chữa thơ cho mụ. Mụ còn khoe được đóng tuồng hát
với những danh kỹ cố đô. Mụ trải tới 5 đời chồng. Vì vậy dân Trường yên mới
nhân đó đặt ra câu ca dao:
Chữ trinh đáng giá nghìn vàng,
Từ anh chồng cũ đến chàng là năm.
Còn như yêu vụng nhớ thầm,
Họp chợ trên bụng đến trăm con người.
Rồi gọi mụ là Dì Năm. Chứù không phải mụ đứng
thứ năm gì đâu.
Bích
Phương tiếp:
–
Trong khi làm gái giang hồ mụ gặp một gã khách trú tên Lâm Ri. Cả hai
làm nghề dắt mối gái nạ dòng, gái lộn sòng kiếm tiền. Để che mắt quan quân, thị
với tên Lâm Ry mở
cửa hàng bán bánh bèo mang tên bánh bèo Dì Năm. Thị làm bánh bèo, bỏ mối cho
các nhà hàng. Ai muốn ăn bánh bèo thì đặt hàng. Tên Lâm Ry sẽ giao tận nhà.
Căn nhà mà thị làm bánh bèo bẩn thỉu không tả siết, nào chuột, nào dán, nào dòi
bọ lổm ngổm. Thế nhưng thị làm chập tối, đổ vào khuôn, sáng đem giao. Đêm dán,
chuột bò ra ăn. Khuất mắt nào ai biết.
Gần đây tên Lâm Ry làm
chúa một bọn du thủ du thực, đâm thuê, chém mướn, nên bị người ta đánh chết. Y
thị tái giá với ông
Lê Trung Cương.
– Lê Trung Cương là người
thế nào?
– Ông
là người đạo đức, rất có uy tín trong vùng. Nhưng gần đây vợ ông qua đời. Mụ Dì
Năm tìm đủ cách chiêu mời. Ông Cương tục huyền với mụ. Ông già rồi, không còn
truyện vợ chồng nữa, nhưng ông lấy mụ, để có người hầu hạ. Còn mụ có chỗ ẩn
thân. Bà Ngọc Từ dùng mụ để chiêu mộ con gái nhà lành, dâng cho quan quân.
Có
tiếng xe ngựa lóc cóc từ xa lại. Dưới ánh trăng Quốc Toản nhận ra người đánh xe
là Quốc Kiện. Hầu đứng giữa đường vẫy tay. Quốc Kiện gò cương cho ngựa dừng
lại :
– Em
thuật chi tiết sự việc cho chị Cẩm Nhãn nghe. Chị khuyên em nên đem xe đi đón
anh. Ủa ! Ba chị này xinh đẹp quá. Anh gặp ở đâu vậy ? Mời ba chị lên
xe.
Quốc
Toản giải thích cho ba cô gái:
– Đây
là Hoài Nhân vương Trần
Quốc Kiện. Vương là em ruột của đương kim thiên tử. Còn tôi là Hoài Văn hầu
Trần Quốc Toản. Chúng tôi cứu các chị khỏi tay Văn Chiêu hầu Trần Văn Lộng. Các
chị đừng sợ.
Quốc
Kiện cho xe quay lại. Quốc Toản thuật
chi tiết việc cứu ba nàng Thúy Hòa, Bích Phương, Hồng Phương. Quốc Kiện đề
nghị :
– Sau
khi bốn tên khả ố ăn tiệc xong, chúng vào phòng tìm người đẹp, thì chỉ thấy mụ
già khú đế với hai con đười ươi, chúng sẽ mắng ông Di Ái. Chú Lộng sẽ xuất lĩnh
thiết kị chim ưng đi lùng sục
tìm ba chị. Đây thuộc tòa tổng trấn Trường yên, lĩnh địa của chú Trần Văn Lộng,
có hiệu binh Trung Thánh dực đồn
trú. Chúng ta cần đưa ba chị này ra khỏi vùng Trường yên, thì mới an toàn. Chứ không thể đưa về ấp của Đại Hành được. Chú
Trần Văn Lộng sẽ sai thị vệ tới đó tìm ra ngay. Từ đây về Cố trạch không xa,
khoảng hơn giờ sức ngựa. Cố trạch thuộc quản nhiệm của Vũ Minh vương Quang Húc Tổng
lĩnh Ngự lâm quân, Thị vệ. Ta không sợ ông Di Ái nữa. Chúng ta đem ba chị về Hành cung trao cho
Tuyên cao thái phi. Vả anh cần gặp Tuyên cao thái phi, thân phận anh được sáng
tỏ, thì mới không sợ bị vu cáo là Tế tác Nguyên.
Có
tiếng ngựa phi ngược chiều. Quốc Kiện cho xe lách vào bên đường. Ngựa phi khá
nhanh. Vèo một cái đã đi qua. Quốc Toản than :
– Em
có thấy gã kị mã không ?
–
Thấy ! Đó là thầy Lê Tắc.
Cũng may đêm tối thầy không thấy chúng mình. Vậy thế này ! Xe đi chậm.
Chúng ta về ấp Côi sơn trước báo cho chị
Cẩm Nhãn, lấy ngựa rồi đi Cố trạch.
–
Ừ !
Quốc
Toản nói với ba thiếu nữ :
– Các
chị yên tâm. Anh em tôi sẽ hộ tống các chị tới một nơi an toàn, không còn sợ
phải cống cho bọn Thát đát nữa.
Bích
Phương than :
–
Chúng tôi được quân hầu cứu ra thì yên tâm rồi. Nhưng còn cha mẹ tôi ? Ông bà Trần Văn Lộng sẽ
làm khổ bố mẹ tôi !
– Các
chị đừng sợ, bố mẹ các chị trao các chị cho vợ ông Lộng. Bây giờ các chị mất
tích, bố mẹ các chị sẽ bắt vạ ông bà ấy, chứ có đâu ông bà ấy hành hạ bố mẹ
chị ?
–
Không phải thế. Cái con điếm già Dì Năm đến gặp bố mẹ tôi, nói rằng bà Trần Văn
Lộng cần tuyển thị nữ, trả lương cao. Nên bố mẹ tôi mới cho chúng tôi tới dinh
của hầu. Ai ngờ !
Hồng
Phương than:
– Tôi
vẫn không yên !
Hầu
nói với Thúy Hòa :
– Còn
chị, mẹ chị tình nguyện hiến thân cho tên Sài Thung. Bây giờ chị mất tích, thì
mẹ chị sẽ buồn lắm. Buồn thì cứ buồn. Nếu ông Di Ái cho cha chị làm chức An phủ
sứ Nho quan thì bà ấy sẽ vui ngay. Mọi truyện êm thì chị trở về nhà cũng không
muộn.
Thúy
Hòa khóc :
– Tôi
không dám về nhà nữa đâu, vì tôi về nhà thì bố mẹ tôi sẽ tiếp tục cống tôi cho
bọn rợ Thát đát. Quân hầu ơi ! Quân hầu đã cứu chúng tôi thì cứu cho trọn.
Xin quân hầu thu nhận chúng tôi làm tỳ nữ thì cuộc đời mới được bảo đảm.
Quốc
Toản xua tay :
– Chú
em tôi tuy được phong vương, tôi được phong hầu. Nhưng tuổi chúng tôi còn nhỏ,
chưa có phủ đệ thì nhận các chị làm nô tỳ sao được ? Thôi, tôi sẽ tâu với
bà nội tôi, để người thu dụng các chị. Các chị xinh đẹp thế này, bà nội tôi sẽ
kén những văn quan, võ tướng có tài rồi gả các chị. Như vậy mới xứng với nhan
sắc trời ban cho các chị!
Bích
Phương hỏi:
– Bà
nội của hầu là ai ?
– Là
Tuyên phi của đức Thái tông, hiện là Tuyên cao thái phi.
– Tôi
có nghe nói. Ngài là người được đức Thái tông sủng ái cùng cực.
Cả ba
nàng lại cúi đầu hành lễ:
– Đa
tạ hầu đã thương xót, cứu giúp chúng tôi qua cơn hoạn nạn.
Tại dinh Quang Hòa.
Di Ái, Quang Lộng với bọn Tuyên phủ ty vẫn còn ăn uống. Gã Vũ Đạt bước vào cung
tay :
– Khải vương gia, trưởng
sử Lê Tắc xin cầu kiến có việc cơ mật.
Di Ái ban chỉ :
– Bảo hắn ngồi chờ. Đêm
khuya thế này, cơ mật gì thì cũng để đó. Sáng mai ta lên đường đi Thiên triều
rồi, sao còn rắc rối !
Cả bọn tiếp tục ăn
uống. Tiệc tàn, Di Ái đứng lên cung tay :
– Bây giờ kính
mời bốn vị vào hậu đường, có bốn bông hoa
quý nhất trấn Trường yên kính thỉnh bốn vị thưởng lãm. Nếu các vị thấy hoa thơm,
tiểu vương xin dâng luôn, các vị có thể đem theo.
Trần Văn Lộng cung
cung kính kính đi trước, dẫn bốn tên Thát đát vào hậu đường. Bốn tên hân hoan
mở cửa bước vào phòng. Tất cả đều tưởng tượng trong phòng có thiếu nữ xinh tươi
đang chờ đón. Bốc Nhan Thiết Mộc Nhi đóng cửa, rồi tiến tới cái giường, trên giường
có người trùm chăn. Như mọi lần, y nói tiếng Việt gi?ng lơ lớ:
– Tiên nữ ơi !
Ta mải uống rượu để tiên nữ phải chờ lâu, ta thực có lỗi.
Tay y kéo cái chăn.
Trên giường không phải là người đẹp mà là một con đười ươi. Y hét lên một tiếng
kinh hoàng rồi lui lại. Dường như huyệt đạo được giải, con đười ươi nhảy chồm
lên vồ Bốc Nhan Thiết Mộc Nhi. Y lại hét lên một tiếng kinh hoàng, rồi tông cửa
ra ngoài. Y cũng nghe thấy tiếng hét của Hốt Kha Nhi, và Đường Ngột Đải. Cả Di Ái,
Văn Lộng cùng trở lại, thấy nét mặt của ba tên Thát đát, Di Ái hỏi :
– Cái gì ? Cái
gì đã xẩy ra ?
Cả ba gã Thát đát đều
run lật bật chỉ vào phòng. Di Ái bước vào phòng của Thúy Hòa. Con đười ươi vồ y. Y tung một quyền vào ngực nó.
Người nó va vào tường đá đến binh một tiếng, nó dẫy mấy cái rồi nằm im. Bên
kia, Văn Lộng cũng đánh gẫy lưng con đười ươi. Đèn đuốc đốt lên sáng rực. Thị
vệ gươm đao sáng choang. Di Ái vào phòng Hồng Phương, thấy gã Hốt Kha Nhi chỉ
lên giường : trên giường Dì Năm nằm chình ình. Rõ ràng mụ bị điểm huyệt. Di Ái giải huyệt cho
mụ rồi hỏi :
– Dì Năm ! Cái
gì đã xẩy ra ?
– Thần thấy Hồng Phương
leo qua cửa sổ trốn, thần đuổi theo bắt lại, thì bị một gã tiểu tử điểm huyệt,
rồi đem vào để lên giường.
Là người thông minh
tuyệt đỉnh, Di Ái đoán ngay ra :
– Có một đại hành
gia đã xuất hiện, cướp ba thiếu nữ đem đi, rồi điểm huyệt hai con vượn với Dì Năm
đem vào hý lộng quỷ thần.
Trần Văn Lộng
than :
– Trong trấn Trường
yên không có thiếu niên nào bản sự đến trình độ này. Có lẽ nó từ nơi khác tới.
Di Ái hỏi Dì Năm về
hình dạng thiếu niên. Nghe Dì Năm thuật, ông ta đoán ngay ra :
– Nhất định là cái
thằng Võ Kinh Hồ hồi chiều.
Văn Lộng gọi hai thị
vệ :
– Người đến ấp Côi sơn,
tìm gã đồ tể Đào Hiệp, hỏi cho ra lý lịch hai tên nhãi ranh, một đứa có tên Võ
Kinh Hồ. Phải cẩn thận, chớ có lôi thôi với người của dinh Tuyên uy đại tướng quân
Trung Hòa hầu Nguyễn Đại
Hành. Vì Đại Hành đang là sủng thần của hoàng đế Chí Nguyên.
Hai thị vệ lên đường
tức thì. Di Ái mời bọn Tuyên phủ ty ra đại sảnh uống trà, miệng luôn nói lời
xin lỗi. Y chỉ ba tỳ nữ :
– Bọn hoa khôi trốn
mất rồi. Xin các đại nhân dùng ba cô bé này thay thế.
Bốc Nhan Thiết Mộc
Nhi bế bổng con Nhài lên :
– Tháng trước chúng
ta đã có duyên với nhau đến 10 ngày, 10 đêm.
Hôm nay lại tái hồi.
Ba tên Thát đát đem
ba thiếu nữ khốn nạn vào phòng rồi. Di Ái thở phào.
Thấy Lê Tắc đứng trong đám thị vệ, Di Ái hỏi :
– Thầy Trưởng
sử ! Có việc gì khẩn cấp vậy ?
– Khải vương gia,
thằng bé Quốc Toản với con vượn bạch không biết ai cứu ra. Nó đã điểm huyệt bốn
võ sinh trường Lạn Kha rồi trốn đi. Chim ưng theo dõi báo cho biết nó đi Côi sơn,
rồi tới đây thì mất dấu vết.
– Bản sự nó làm bao
mà điểm huyệt các võ sinh cao đẳng?
Lê Tuân góp ý :
– Nếu đúng như vậy,
có thể chính nó đã cứu ba cô gái, rồi hý lộng
quỷ thần.
Trong khi màn thảm
kịch tại tại dinh Quang Hòa diễn ra thì trên đường về ấp Côi sơn, Quốc Toản hỏi
Quốc Kiện :
– Em liệu ông Di Ái
có đoán ra hành tung bọn mình không ?
– Em nghĩ ông sẽ tìm
ra được. Này nhé việc anh trốn khỏi giếng đá ; rồi hiển lộ võ công bắt bốn
người đi chặt củi. Sau bốn giờ, huyệt họ tự giải. Chú Trần Quang Kiện, bọn Lê Tắc thẩm vấn bốn người, thì nảy ra việc anh thoát khỏi
giếng. Rồi anh điểm huyệt con mụ có tên Dì Năm. Y thị tả hình dạng anh. Người thông
minh như ông Di Ái, chú Lộng sẽ đoán ra kẻ cứu ba chị này là Quốc Toản. Ông đoán
ra anh sẽ về Thăng long hay Cố trạch. Ông sẽ cho thiết kị đuổi theo bắt giết
anh để bịt miệng. Bằng không tất cả việc bán nước của ông sẽ bị vỡ lở. Ta phải đi
cho nhanh.
Hai trẻ trở lại ấp
Côi sơn, thuật sơ lược những gì xẩy ra với Cẩm Nhãn, lấy y phục, ngựa lên đường.
Quốc Kiện than:
– Có thể chú Lộng sẽ
sai thị vệ tìm Đào Hiệp điều tra về chúng mình. Liệu chúng có dám đến dây gây
hấn không?
Mắt phượng mở lớn,
Cẩm Nhãn nói lạnh như băng:
– Gan chúng bằng
trời cũng không dám tới đây. Tước của Lộng là hầu, tước của anh Đại Hành cũng
là hầu. Nhưng anh Đại Hành đang là sủng thần của Nguyên triều. Lộng không dám
làm ma làm quỷ đâu. Hai em yên tâm.
Có tiếng hú lanh
lảnh, rồi con vượn bạch tay cầm côn sắt từ trên cổng ấp nhảy xuống. Quốc Toản
vẫy tay. Con vượn nhảy lên xe. Nó ra hiệu tỏ ý muốn thay Quốc Kiện đánh xe.
Quốc Kiện trao cương ngựa cho nó.
Ba thiếu nữ thấy con
vượn thì rú lên kinh hãi. Quốc Toản giảng giải:
– Bạch Viên tuổi đã
trên 200, là đệ tử của Bồ tát Viên Chiếu, võ công cao thâm vô cùng, lòng dạ từ
bi. Ba chị đừng sợ.
Quốc Toản lấy bộ y
phục dân dã trao cho Bạch Viên :
– Người vào bụi rậm
mặc y phục cho thanh nhã mới được.
Con Bạch Viên cầm y
phục vào bụi cây ven đường mặc vào. Nhìn nó giống một nông dân.
Hai trẻ cỡi ngựa đi
hai bên xe. Bốn ngựa rong ruổi dưới ánh trăng.
Nghĩ đến lát nữa sẽ
gặp bà nội, lòng Quốc Toản rộn lên niềm hân hoan khó tả. Dưới ánh trăng 16, hai
ngựa hộ vệ một xe long cong lăn bánh. Xe đi hơn giờ thì Quốc Kiện chỉ vào ngọn tháp
xa xa :
– Kia là tháp Phổ
minh. Chúng ta sắp tới Cố trạch rồi.
– À tháp có cái vạc
do Bồ tát Minh Không đúc vào thời Anh vũ chiêu thắng đời Lý Nhân Tông phải
không ? Vạc là một trong An Nam tứ đại thần khí. Anh nghe bố mẹ nói hoài
nay mới được thấy !
– Anh
ở ngoại quốc, mà cũng thông quốc sử nhỉ. Tháp phổ minh nằm trong vùng Cố trạch.
Cung Trùng-quang của đức Thái Tông tại đó. Trong Cố trạch có phủ Vũ Uy của bác,
có cung của Tuyên cao thái phi nữa.
Hai
ngựa, một xe gồm ba ngựa đang gõ móng dưới ánh trăng thì có tiếng tù và thổi
tu... tu. Rồi đuốc đốt sáng sực. Hai bên đường giáp sĩ dương cung, đao kiếm
chĩa ra tua tủa. Một viên đô thống tay cầm đoản đao hô lớn :
– Tiểu
tặc Tế tác Thát đát ! Đừng chạy!
Quốc Kiện phi ngựa
lên trước :
– Ta
là Hoài Nhân vương Quốc
Kiện đây. Đô thống có lầm không ? Đô thống tuân lệnh ai mà ra đây bắt
chúng ta ?
Viên đô
thống hành lễ quân cách :
– Thần
đô thống Dư Anh, quản
lĩnh thị vệ Cố trạch tham kiến vương gia. Hồi chiều thần được chim ưng của phủ
tổng trấn Trường yên báo : bọn Nguyên gửi Tế tác sang ta. Hai năm trước chúng
đón đường bắt giết Hoài Văn hầu Quốc Toản, đoạt thanh kiếm Đông a. Chúng cho
một tên người Nguyên giả xưng Hoài Văn hầu. Tên Thát đát con này bị phủ tổng
trấn Trường yên giam tại trường Lạn kha. Mới đây y vượt ngục, xưng là Hoài Văn
hầu lừa dối Hoài Nhân vương. Y cùng Hoài Nhân vương bắt lương gia phụ nữ, đang
trên đường về Cố trạch lừa dối Tuyên Cao thái phi. Nhân Hòa vương ban
chỉ : thần phải phục binh chờ. Khi thấy y, không cần hỏi han, cứ cho tiễn
thủ giết y ngay đương trường.
Quốc
Toản lên tiếng :
– Đô
thống tên là Dư Anh thì
là con của Dư bà, như vậy đô thống là em sữa của phụ vương cháu. Cháu phải gọi đô
thống là chú. Cháu chính là Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản đây. Cháu đâu phải Tế
tác Nguyên! Chú có thấy cháu giống bố cháu không?
Dư Anh chưng hửng, vì
Tế tác Nguyên không thể biết rõ nội tình phủ Vũ Uy vương như vậy. Y nhìn Quốc
Toản, quả giống Vũ Uy vương!
Quốc
Toản tiếp :
– Từ đây về cung Trùng-quang của bà nội cháu
là Tuyên cao thái phi không xa. Đô thống hãy cùng cháu gặp bà nội thì trắng đen
rõ rệt, cháu là con của Vũ Uy vương hay Tế tác của Thát đát.
Dư Anh còn đang tần
ngần thì có tiếng nhạc ngựa rung rung, rồi một xe song mã tới. Trên xe có hai
phụ nữ, một cao niên, một trung niên. Trước xe có hai Thị vệ hộ tống. Thị vệ hô :
– Xa
giá của Tuyên cao thái phi và Nam phương,
đại từ, thạc hòa huyền quân,Vũ uy, quang
minh công chúa giá lâm.
Quốc
Toản mừng vô hạn:
– Bà
nộiï với sư phụ Thúy Hồng tới thì thân phận mình được chứng minh.
Dư Anh mừng rỡ:
– Có đại
giá Tuyên cao thái phi cùng Vũ Uy công chúa tới thực may vô cùng. Xin Tuyên cao
thái phi phát lạc vụ này cho.
Y trình bầy tự sự.
Thúy Hồng (vợ Dã Tượng) tước phong Nam phương,
đại từ, thạc hòa huyền quân, Vũ uy, quang
minh công chúa; nghe Dư Anh trình bầy, công chúa ban chỉ:
– Hồi chiều nghe thị vệ nói có tên Tế tác
Thát đát đã giết Quốc Toản hai năm trước, rồi giả xưng Quốc Toản xuất hiện. Ta thỉnh
cao thái phi cùng giá lâm xem tự sự.
Vừa trông thấy bà nội, và sư phụ, Quốc
Toản xuống ngựa tiến tới xe của hai người. Hai tên thị vệ dùng đoản đao bắt chéo trước mặt hầu cản
lại. Quốc Toản phất tay, hai thanh đao vuột khỏi tay hai thị vệ bay lên không.
Hầu rút thanh kiếm Đông a, vung lên, hai thanh đao bị cắt ra thành hơn ba chục
mảnh. Hầu phẩy tay, tất cả các mảnh đao đều bay ra xa, rơi xuống khúc sông Vỵ
hoàng.
Thúy Hồng ban chỉ cho đám thị vệ :
– Không được vọng động.
Công chúa dùng một thế khinh thân tung người
lên cao, lộn hai vòng như tiên nữ múa vũ khúc nghê thường ; rồi đáp trước
Quốc Toản. Tuy xa cách hơn hai năm, Quốc Toản đã lớn lên, nhưng công chúa cũng
nhận ra người đệ tử. Quá xúc động, quên cả tỵ hiềm nam nữ, công chúa ôm lấy người
đệ tử:
– Con! Con đó sao?
– Cô! Cháu nhớ cô đến chết được.
Tuyên Cao thái phi tiến tới. Bà ôm lấy đứa
cháu nội bảo bối, mất tích đã hơn hai năm. Không ngờ đêm nay được trùng phùng:
– Từ hồi đó đến giờ cháu bà ở đâu?
Dư Anh vòng tay:
– Thì ra em là
Quốc
Toản thực.
Ba đoàn người ngựa hợp làm một về Cố
trạch. Tất cả vào phủ Vũ Uy. Thúy Hồng ban lệnh cho Dư Anh:
– Đô thống cho thị vệ canh phòng thực cẩn
mật. Dù hoàng thân, quốc thích cũng không cho vào dinh này.
Trong phủ Vũ Uy, cao nhất là Tuyên cao
thái phi, rồi đến công chúa Thúy Hồng ngồi nghe Hoài Nhân vương, Hoài Văn hầu tường
thuật tất cả biến cố vừa qua một lượt.
Thúy Hồng than:
– Ngày mai thì sứ đoàn do Nhân Hòa vương
sang Nguyên lên đường. Vương là chánh sứ, thay hoàng thượng sang Nguyên chầu.
Phó sứ có Lê Tuân, Lê Mục là hai nho gia tài trí do vương
chọn. Sứ đoàn kể cả mã phu, bộc phụ, thị vệ theo hầu lên tới 50 người.
Tuyên Cao
Thái
phi tiếp lời Thúy Hồng:
– Từ ngày cháu bị bắt cóc. Khu mật viện
huy động toàn lực tìm kiếm cháu, nhưng không thấy. Gần đây Dã Tượng thả đội Thần
ưng của hiệu Văn bắc đi khắp nơi tìm cháu. Vì chúng biết mặt cháu. Cách đây mười
ngày chúng tìm ra tung tích cháu ở chân núi Côi trong trấn Trường yên. Nên Dã Tượng,
mang theo mẹ sữa Vương Chân Phương vào Trường yên nhờ trường Lạn kha
giúp đỡ tìm cháu. Không ngờ cháu đã thoát ra được.
Quốc
Kiện bàn:
– Khải
cao thái phi, phải báo sự việc cho triều đình biết ngay, chặn sứ đoàn Trần Di
Ái lại. Bằng không chúng sang Nguyên, sẽ gây ra đại họa. Tính mệnh chị Bạch
Liên với bốn cô tiên nữ Ngọc Kỳ, Ngọc Quốc, Ngọc Trí, Ngọc Cách lâm nguy. Nhất
là tính mệnh của Đại Hành với 2 kị mã Long biên ở Đại đô!
Cao thái phi xua
tay:
– Không kịp, bây
giờ là giờ Sửu rồi. Giờ Dần thì sứ đoàn khởi hành. Vụ việc Trần Di Ái lớn quá.
Chỉ thượng hoàng mới có thể ban chỉ về việc này. Sáng mai, chúng ta có về Thăng
long sớm, thì giờ mão cửa thành mới mở. Chúng ta tấu lên thượng hoàng thì cũng
sang giờ thìn. Thượng hoàng có ban chỉ gì thì giờ ngọ mới truyền ra. Như thế
thì sứ đoàn đã sang đất Nguyên rồi. Bây giờ Thúy Hồng sai chim ưng báo cho Địa
Lô, Cao Mang lệnh cho hiệu
binh Văn bắc báo động, chờ đợi. Khi có chỉ dụ của Thượng hoàng thì còn kịp hành
sự.
Thúy Hồng sai
chim ưng mang thư về Thăng long báo cho thượng hoàng, thái hậu biết:
Tuyên cao thái phi sẽ về Thăng long yết kiến thượng hoàng
có việc quốc gia đại sự.
Dư Anh chỉ huy đội thị
vệ hộ tống Cao Thái phi. Cạnh phi,
Thúy Hồng thân đánh xe. Trên xe có cả ba thiếu nữ Thúy Hòa, Bích Phương, Hồng
Phương. Hoài Nhân vương Quốc Kiện, Hoài Văn
hầu Quốc Toản cỡi ngựa đi cạnh. Con Bạch
Viên cỡi ngựa đi sau Quốc Toản. Đoàn người ngựa lên đường lúc giờ mão, đến giờ
tỵ thì tới cửa nam. Xe chạy thẳng vào hoàng thành. Thượng hoàng, thái hậu, Hưng
Đạo vương, Chiêu Minh vương, Hưng Ninh vương thân ra đón cao thái phi.
Lễ nghi tất.
Thượng hoàng
truyền đem ghế ra giữa vườn Ngự uyển, để hội họp. Tránh bị người núp ở phòng
bên cạnh, hay trên mái nhà nghe trộm.
Tuyên cao thái
phi ban chỉ cho Quốc Toản:
– Con hãy tường
thuật tất cả những gì đã xẩy ra từ khi rời Trường sa đến giờ lên thượng hoàng.
Quốc Toản khoan
thai thuật lại những biến cố từ khi giã từ cha mẹ, xuống cảng Trường sa về Đại
việt. Bị bắt, bị đánh thuốc mê ở Tiên yên, rồi tỉnh lại ở trường Lạn kha ra
sao! Hầu điểm huyệt Lê Tắc, chạy ra ấp
Côi sơn. Sau Lê Tắc sai chim ưng
dẫn đường đến dinh Đại Hành bắt về giam tại cái giếng đá dưới chân núi. Lê Tắc đem Quốc Kiện đấu với mình thế nào. Hầu dấu tuyệt không
nói gì đến việc tìm được di thư của Bồ tát Minh Không.
Tiếp theo Hoài
Nhân vương thuật: vương bị Quốc Toản bắt sống, anh em suýt giết nhau. Hai người
thám thính phủ Văn Chiêu hầu, Di Ái cống 3 thiếu nữ cho bọn Tuyên phủ ty.
Di Ái bàn với bọn Tuyên phủ ty làm sao để vua Nguyên phong
cho làm An Nam quốc vương. Hai người cứu 3 thiếu nữ chạy về Cố trạch, thì bị
Trần Văn Lộng sai chim ưng lệnh cho đô thống Dư Anh phục binh dùng tiễn thủ giết cả hai người hầu bịt
miệng.
Quốc Toản chỉ vào
chuôi thanh Thượng phương bảo kiếm Đông a:
– Trong chuôi kiếm
này, mẫu thân thần gắn hai cái ống bạc, chứa hai tờ thư của hai thân vương đã
làm Tế tác cho giặc, mong được phong làm An Nam quốc vương.
Thượng hoàng rùng
mình, dùng ngôn ngữ bình dân::
– Mẹ cháu sợ chú không tin cháu, nên đã sai
chim ưng báo cho chú biết việc này rồi.
Ngài dùng một
thanh trủy thủ, tách chuôi kiếm ra làm hai. Bên trong quả có hai cái ống bạc
nhỏ. Ngài mở cái ống thứ nhất. Bất giác ngài bật lên tiếng ái chà, rồi đưa cho
thái hậu xem mảnh lụa. Thái hậu đọc qua, rồi tâu với cao thái phi:
– Cái ông thân vương Vuông chính là Nhân Hòa vương Di Ái. Khi được thư của chị Ý Ninh, thượng hoàng với
thần nhi đã điểm lại danh sách các thân vương. Không bao giờ thần nhi nghĩ rằng
chú ấy lại làm truyện bạo nghịch như vậy. Bút tích này chính là của chú Di Ái.
Quốc Kiện thắc mắc:
– Bác Ý Ninh gửi
thư bằng chim ưng cho phụ hoàng. Chính phụ hoàng đã lấy thơ từ chim ưng. Tại
sao ông Di Ái biết được mà tổ chức bắt cóc
anh Quốc Toản để hủy hai tấm lụa dấu vết bút tích này!
Thái hậu than:
– Có lẽ mẹ với
phụ hoàng thường bàn luận về vụ này, rồi bọn cung nga, thái giám nghe lỏm,
chúng bàn tán với nhau, việc lộ ra nên ông Di Ái mới biết. Ông muốn giết Quốc
Toản để phi tang. Nhưng ông đâu ngờ
chính ông với bọn Tuyên phủ ty bàn bạc, bị Quốc Toản khám phá trước.
Hưng Ninh vương
là anh ruột thái hậu. Vương xua tay:
– Từ trước đến
nay, thượng hoàng với hậu thường bàn quốc sự khi không có ai bên cạnh. Làm sao
việc trọng đại này lộ ra được?
Thái hậu chỉ vào
một cung nga:
– Thưa anh, khi
thượng hoàng với em bàn quốc sự thì chỉ có cung nga Quế Linh được hầu cạnh mà
thôi. Quế Linh là cháu gọi Tổng thái giám Đại Lực bằng chú. Không lẽ Quế Linh
lại phản em?
Quốc Toản gay
gắt:
– Phải điều tra
xem liệu Quế Linh có làm gian tế cho ông Di Ái không? Nếu sự cố này là thực thì
nguy hiểm vô cùng.
Quế Linh đang đứng
sau thái hậu, nghe Quốc Toản đặt vấn đề, thình lình nàng tung mình chạy. Nhấp
nhô một cái, Thúy Hồng đã điểm huyệt Quế Linh, túm áo đem trở lại. Quế Linh run
lật bật, nói lắp bắp:
– Xin thượng
hoàng tha tội.
Quốc Kiện hỏi:
– Này chị Quế
Linh! Chị là cháu gọi Tổng thái giám Đại Lực bằng chú. Đại Lực từng là người
hầu cận đức Thái tông, vì vậy chị mới được phụ hoàng tín cẩn. Tại sao chị lại
làm gian tế, tiết lộ tin tức tức hết sức trọng đại ra ngoài. Sự đã như thế này,
chị cứ khai hết tiền nguyên, hậu quả, may ra sẽ được ân xá! Phụ hoàng tôi là
Phật tử thuần thành. Tại đây còn có Bồ tát Tuệ Trung, lòng dạ rộng như trời, như
biển.
Quế Linh run run
khai:
“ Cách đây 7 năm, trong dịp được về thăm nhà. Khi đi đò
qua sông sang Gia lâm, thì Quế Linh bị một người nhà đò điểm huyệt đem vào
khoang. Đó là hai người đàn ông. Một người già, một người trẻ. Nàng những tưởng
hai người này sẽ xâm phạm tiết hạnh mình. Nhưng cả hai chỉ ngồi im mỉm cười.
Không đầy một khắc nàng cảm thấy đau đớn như xé da, cắt thịt. Mặc nàng đau đớn
quằn quaị rên la thảm khốc. Mặt hai người đàn ông vẫn lạnh như tiền. Thình lình
người trẻ vỗ tay vào đầu nàng một cái, lập tức cơn đau hết ngay. Người trẻ nói
lạnh như băng:
– Phải chăng cô nương là Vũ Quế Linh, là cung nữ tín cẩn,
hầu cận đức vua với hoàng hậu.
Quế Linh run run:
– Quả đúng.
– Cô nương có biết tại sao lại bị đau đớn kinh khủng không?
– Dạ, tiểu nữ không biết.
Người trẻ chỉ vào người già:
– Không có gì lạ cả. Lão tiên sinh đây đã nhả vào người
cô nương một ít Huyền âm độc tố. Cô nương có biết độc tố này là gì không?
Từ năm 12 tuổi Quế Linh được tuyển làm cung nữ hầu cận
hoàng hậu. Một lần Quế Linh nghe nhà vua luận về võ học cổ Đại việt, có bàn đến
Huyền âm độc tố.
Nàng
chỉ nhớ đại khái rằng vào thời triều Âu Lạc. Tần Thủy Hoàng muốn thăm dò võ học
tộc Việt. Y bắt vua An Dương phải cống một số võ sĩ. Nhà vua sai quan Đại tư mã
là Lý Thân, mang theo 36 đệ tử sang Hàm dương, đấu với võ sĩ Trung-nguyên. Hầu
ra lệnh cho đệ tử : trong ngày đầu thì chống đỡ tìm hiểu chiêu thức địch.
Tối về nghiên cứu các thế phá, hôm sau phản công. Sau khi đại thắng võ lâm
Trung-nguyên. Ngài
cùng đệ tử tổng hợp các chiêu thức sáng chế thành một hệ thống mới. Từ đó, ngài
tìm ra một lối luyện công âm-nhu khắc chế dương-cương. Đặt trên nguyên tắc Dĩ
nhu, chế cương. Sau này Đồ Thư cùng võ sĩ Tần Thủy Hoàng sang đánh Lĩnh Nam bị
lạc bại, vì võ công Trung nguyên đã bị khắc chế . Khi rời Trung-nguyên, Lý Thân
để lại một đệ tử là Trần Mạnh Chi, làm Nội giám hiệu-úy. Mạnh Chi lấy vợ
Trung-nguyên, sinh con, đẻ cháu lập ra phái Trường-bạch. Trường-bạch sơn là
vùng núi nhiều côn trùng độc. Các đệ tử phải chống chất độc, lâu ngày thành ra
kỹ thuật của môn phái. Đến đời thứ năm. Trong môn phái có biến chuyển lớn. Một đệ tử họ Phan bịù kẻ thù bắt giam, tra
khảo, đòi khai cách luyện nội công âm nhu. Y không chịu. Kẻ thù cho rắn, rết,
nhện, tầm và bò cạp, đốt. Nhờ bản lĩnh kháng độc sẵn có, y không bị độc chất
làm hại. Một đêm sau khi vận công. Y giật mạnh tay, gông cùm vỡ tan. Y tỉnh ngộ
ra rằng chính nhờ trong lúc vận khí chống độc. Nọc độc hợp với chân khí thành
một thứ nội lực mới. Mạnh vô cùng.
Y rời nhà tù, đánh phá tổng đàn đối
phương. Đối phương bị trúng chưởng của y lập tức bị đau đớn khủng khiếp rồi
chết. Y trở về phụ mệnh sư phụ: kể cho sư phụ nghe
mọi chuyện. Sư phụ y, là giòng dõi Trần
Mạnh Chi. Ông bảo y dùng chưởng lực đánh thử vào thú vật, y ngoan ngoãn tuân
theo. Con vật đau đớn, nổi điên mà chết. Sư phụ y thấy vậy cho là tà phái âm độc,
khuyên y bỏ đừng luyện tiếp.
Một ngày kia, ông khám phá ra y vẫn
bí mật luyện độc công. Ông trục xuất Phan khỏi môn phái. Y nổi giận giết sư
phụ, chiếm lấy chức chưởng một. Từ đấy phái Trường-bạch thành phái Huyền-âm độc
chưởng. Khắp Trung-nguyên ai nghe tiếng cũng kinh hồn táng đởm. Đến đời thứ bẩy,
chưởng môn là Phan Sùng, võ công lừng danh thiên hạ. Kết huynh đệ với Lưu
Huyền, tức Cảnh-Thủy hoàng đế.
Phan Sùng một lần nhìn thấy hoàng-hậu của Cảnh-Thủy, đem lòng
say đắm. Y hại ba người anh kết nghĩa Lưu Huyền, Lý Diệt, Chu Huy, xưng vương. Tướng sĩ nhiều người không phục, bỏ y
theo phò Lưu Diễn. Lưu Diễn chết. Họ theo Lưu Tú tức Quang-Vũ. Trong trận đánh Trường-sa, Phan Sùng chết giữa loạn quân. Toàn gia bị tru lục. Phái Trường-bạch
bị truy lùng rất gắt.
Vào thời Lý Nhân Tông, Tống Thần
Tông sai Quách Quý, Triệu Tiết mang quân nghiêng nước sang đánh Đại việt. Quách
Quỳ thu dụng những cao thủ võ lâm kiệt hiệt theo trong quân. Trong đó có Trường
bạch song hùng. Trường bạch song hùng bị Kinh Nam vương Trần Tự Mai bắt đem về giam tại Thiên trường. Từ đấy không
thấy võ công này xuất hiện. Bất cứ ai bị trúng Huyền âm nội lực thì mỗi ngày
lên cơn một lần, đau đớn đến chết đi sống lại trong một giờ. Nếu không có thuốc
giải thì trong 7 bần bẩy là 49 ngày sẽ chết như ngọn đèn hết dầu.
Người trẻ ra điều kiện :
– Bây giờ cô nương muốn thoát khỏi
cái đau đớn này thì cũng dễ thôi. Cô nương phải cung cấp cho chúng tôi những
tin tức chúng tôi muốn biết. Mỗi tháng, vào ngày trăng tròn chúng tôi sẽ gặp cô
nương, trao thuốc giải cho cô nương để nhận tin tức. Nơi gặp gỡ là trước
cổng tam quan Chiêu thiền tự.
Người già quan sát khắp người nàng
rồi nói:
– Tôi thấy cơ thể của cô nương xinh đẹp,
không có mùi hôi. Tôi muốn dùng cô nương làm cây thuốc để luyện công.
– Tiểu tỳ không hiểu.
– Đây là đặc ân cho cô nương.
– Xin lão gia nói rõ hơn.
– Có phải hàng tháng, mỗi khi có
kinh, cô nương bị đau bụng, nhức đầu, ngực căng rất khó chịu không?
– Vâng! Xin tiên sinh trị chứng này
cho tiểu tỳ.
– Được! Chứng này y học gọi là Thống
kinh. Ta hứa trị cho cô nương. Phương pháp trị như thế này: khi cô nương sắp hành kinh, bụng
chướng thì đến gặp ta, ta mới trị được.
Nàng trở về Hoàng thành, 5 ngày sau
thì bị hành kinh, đau bụng, nhức đầu, ngực căng. Nàng tìm đến chỗ ở của chúng. Lão
già bảo nàng nằm trên giường rồi chui đầu
vào váy nàng, miệng ngậm âm hoa mút, hút. Kỳ diệu thay y vừa hút một hơi, bụng hết đau, đầu hết nhức, ngực
hết căng. Một cảm giác khoan khoái cùng cực khiến nàng bật lên tiếng rên. Mỗi
lần y hút, kinh huyết tuôn ra cuồn cuộn. Y hút trong khoảng một khắc thì ngừng lại,
nói:
– Ta chữa chứng đau bụng kinh cho cô nương. Cô nương không phải trả tiền. Ngược lại ta dùng kinh huyết
của cô nương luyện công. Cả 2 bên đều có lợi.
– Thưa tiên sinh, mỗi khi hành kinh,
thì kinh huyết xuất ra trong 3 ngày. Liệu lát nữa kinh có còn ra không?
Người trẻ đáp:
– Không. Vì sư phụ tôi dùng nội lực
hút, thì kinh ra hết rồi. Có điều, mỗi tháng cô nương phải đến đây để sư phụ
tôi hút một lần.
Mẹ Quế Linh đã 40 tuổi, em Quế Linh
16 tuổi cũng bị thống kinh như Quế Linh. Nàng xin lão già trị bệnh cho. Lão sai
đệ tử lão tức người trẻ thay lão.(1)
Thế là từ đấy Quế Linh ngoan ngoãn
tuân theo lệnh gã tuổi trẻ, và nhận được thuốc giải . Cứ mỗi cuộc gặp gỡ y
lại hẹn Quế Linh tháng sau tại một địa điểm khác».
Chiêu Minh vương
rùng mình nói với Hưng Ninh vương:
– Từ hơn
10 năm nay, khắp nước thường có những người bị trúng Huyền âm chưởng, đau đớn
cùng cực rồi chết. Bây giờ nảy ra vụ Quế Linh bị kẻ vô danh khống chế bằng
Huyền âm chưởng. Em đoán chừng còn không biết bao nhiêu người bị khống chế nữa.
Xưa kia trong trận đánh đồi Vương sơn ở Trường sa, công chúa Yên lãng Trần Năng
nhờ Bồ tát Tôn giả Nan đà giảng kinh Bát nhã, công chúa ngộ đạo thắng vợ chồng Phan Anh. Anh luyện Thiền công đến
chỗ tối cao, anh phải tìm cho ra kẻ xử dụng Huyền âm chưởng rồi giết y đi để
trừ tuyệt hậu hoạn cho võ lâm.
Hưng
Ninh vương than :
– Trừ
bọn này thì dễ rồi. Nhưng hiện có hằng nghìn người bị trúng độc Huyền âm. Muốn
họ không tiếp tục làm gian tế cho bọn xử dụng Huyền âm thì phải trị nọc Huyền
âm cứu họ. Muốn trị thứ nọc này thì cần phải có người luyện Huyền âm độc, rồi mới
hút hoặc đẩy độc tố ra khỏi người nạn nhân. Điều này anh không làm được.
Chiêu
Minh vương tính đốt ngón tay :
– Em ước
chừng cái kẻ khống chế Quế Linh chỉ là người giúp ông Di Ái thôi. Không chừng
chính ông cũng bị chúng kiềm chế. Hôm nay là ngày 10, còn 5 ngày nữa Quế Linh
phải gặp bọn Huyền âm cung cấp tin cho chúng. Ta nhân đó phục kích bắt y, khảo
y ta sẽ tìm ra những tên chủ trương Huyền âm.
Thượng
hoàng ban chỉ :
– Ta cần
tương kế, tựu kế. Lần này Quế Linh gặp tên Huyền âm. Nếu y hỏi về vụ Quốc Toản
trở về đoàn tụ với Tuyên cao thái phi. Quế Linh đáp rằng : Cái tên xưng là
Quốc Toản khi yết kiến Tuyên cao thái phi, công chúa Thúy Hồng thì bị lộ ra y là
tên Tế tác Thát đát. Y không phải Quốc Toản. Vụ này không nên xử dụng Khu mật
viện, Chiêu Minh vương bố trí các cao thủ trong đội thị vệ, theo dõi tên Huyền
âm, rồi bắt trọn ổ.
Ban chỉ dứt, ngài
lấy ống bạc thứ nhì, đem giải lụa ra, rồi lắc lắc đầu nói với thái hậu:
– Nét chữ này lạ
quá.
Ngài trao cho cao
thái phi, thái hậu cùng xem. Tất cả đều không tìm ra đó là bút tự của ai.
Dù đã tin lời con là
Hoài Nhân vương, tin lời cháu là Hoài Văn hầu, thượng hoàng đích thân thẩm vấn
ba nàng Thúy Hòa, Bích Phương, Hồng Phương về những gì diễn ra ở Trường yên.
Ba nàng quỳ gối rập đầu
binh, binh:
– Bọn tiểu tỳ xin Thượng
hoàng cho chúng thần được làm tỳ nữ hầu hạ Hoài Nhân vương với Hoài Văn hầu, để
báo ơn cứu chúng thần thoát khỏi cái ô nhục của đời con gái.
Thượng hoàng ban
chỉ:
– Hoài Nhân vương chưa
có phủ đệ, không thể nhận các con được. Còn Hoài Văn hầu đã có ấp phong. Ngay
ngày mai hầu sẽ về nhận ấp. Ta ban ba
con cho hầu. Còn Thúy Hòa, cha mẹ con tuy sinh ra con, nhưng đã đem con dâng
cho rợ Thát đát. Ta tước quyền làm cha mẹ. Ta cho con tên mới là Hoàng Phương. Thế
là Quốc Toản có ba tỳ nữ đều là Phương.
Ba nàng rập đầu tạ ơn
thượng hoàng rồi bái lậy Quốc Toản.
Chiêu Minh vương đề
nghị:
– Giờ này sứ đoàn Di Ái đã vượt biên sang đất Trung nguyên
rồi. Ta có cho người đuổi theo cũng không kịp. Vậy phải làm sao bây giờ? Y sẽ
tố giác ta dùng Thất tiên, Đông hoa làm Tế tác. Tính mệnh của Bạch Liên, Đại
Hành, hai kị mã Long biên và bốn cô bé Ngọc Kỳ, Ngọc
Quốc, Ngọc Trí, Ngọc Cách lâm nguy.
Thượng hoàng đưa mắt
nhìn Hưng Đạo vương như muốn hỏi ý kiến vương. Vương rùng mình:
– Chúng ta có hai
con rắn độc ẩn trong nhà. Từ khi tin tức của Nguyên phi Bạch Liên báo khám phá
ra việc này, thượng hoàng với tôi sợ chúng đến mất ăn, mất ngủ. Bây giờ mình đã
tìm ra một tên. Chú Di Ái sang Nguyên, cầu phong làm An Nam quốc vương, chưa
chắc Hốt Tất Liệt đã chấp thuận. Vì quanh y có rất nhiều nho sĩ. Các nho sĩ
không bao giờ dung túng bọn loạn thần tặc tử. Bọn mãi quốc cầu vinh, ô danh vạn
đại. Vậy triều đình phải làm gì bây giờ ? Một là báo cho Nguyên phi Bạch Liên.
Phi dùng bốn con bé Ngọc thuyết phục thái tử, thuyết phục Trấn Nam vương Thoát Hoan, nhất là Lý Hằng và
chính Đường Ngột Đải gây ra dư luận xấu về Di Ái tại Đại đô. Hai là nếu như Hốt
Tất Liệt nhất quyết phong cho Di Ái, ắt y cử một tướng đem quân hộ tống ông ta
về Đại việt, thì mình có thể dùng hiệu binh Văn bắc kéo cờ Tống, xưng là cần vương Tống, vượt biên đánh tan
đạo quân này ngay trên đất Trung nguyên. Ba là, ta cần phải đề phòng, khi ông
Di Ái được phong An Nam quốc vương về thì Trần Văn Lộng sẽ dùng hiệu binh Trung
thánh dực, Trần Tú Hoãn sẽ dùng hiệu
binh Tứ thiên, từ Hoa lư, Nghệ an tiến về Thăng long yểm trợ cho cha. Lại đề
phòng bọn Lê Tắc dùng các học
sinh trường Lạn kha theo Lộng.
Thúy Hồng đề
nghị :
– Để đề phòng, ngay
từ bây giờ triều đình sai sứ vào Hoa lư, bắt Trần Văn Lộng, về Nghệ an bắt Trần
Tú Hoãn, đến trường Lạn kha câu lưu Lê Tắc cùng đồ đảng
chặt đầu, cử người trấn thủ Trường yên, Nghệ an thống lĩnh hiệu binh Trung
thánh dực, Tứ thiên. Nhất là thay thế lãnh đạo trường Lạn kha.
Hưng Ninh vương xua
tay :
– Vụ chú Di Ái hiên
chưa lộ rõ tội trạng, triều đình không thể và không nên có hành động gì. Tuy
nhiên cần phải thiết kế kiềm chế ngầm Văn Lộng, Tú Hoãn, Quang Kiện. Ví dù khi
ông Di Ái lộ rõ phản phúc, nhưng Lộng, Hoãn có thể chối : cha tôi phản
quốc, chứ tôi thì không !
Chiêu Minh vương hỏi
Quốc Kiện :
– Cháu thuật rằng,
Quốc Toản điểm huyệt đại trùy hút hết công lực cháu. Đó là Vô ngã tướng Thiền
công; sự thực hay không ? Vì khi Quốc Toản rời Trường sa, mới 11-12 tuổi,
rồi bị tù, thì sao có bản lĩnh ấy ?
Tuyên cao thái phi
xua tay :
– Trước khi cho Quốc
Toản về nước, bố mẹ nó đã dốc túi truyền hết bản sự cho nó.
Chiêu Minh vương cười :
– Chị Ý Ninh chỉ
biết nội công Âm nhu chứ không biết Vô
ngã tướng thiền công. Thần công Vô ngã tướng không còn lưu truyền từ khi Bồ
tát Minh Không tuyệt tích.
Thúy Hồng cũng
hỏi :
– Khi Quốc Toản bị
thị vệ Cố trạch vung đao ngăn cản. Cháu xử dụng chiêu kiếm trấn môn của phái Mê
linh tên Vô sắc vô tướng rất thành thạo. Chiêu ấy đã thất truyền, đến vương phi
Ý Ninh cũng không biết, thì sao có thể dạy cháu ?
Hưng Ninh vương nở
nụ cười tươi như Phật Di Lặc :
– Cháu ơi !
Hiện diện ở đây có bà nội cháu. Có bác, có bác Quốc Tuấn, có chú Hoảng là thượng
hoàng, có cô Thúy Hồng là bản sư
của cháu. Không ai giống ông Di Ái, giống chú Trần Văn Lộng, Trần Tú Hoãn hay Lê Tắc đâu. Cháu cứ nói thực ra đi ! Ai đã dậy võ công
cho cháu ?
Bấy giờ Quốc Toản
mới thuật việc móc 13 pho tượng dưới giếng, rồi tìm ra đường hầm cất di thư của
Bồ tát Minh Không.
Chiêu Minh vương chỉ
vào mấy khúc gỗ còn tươi mới cưa để gần đó :
– Cháu đừng sợ gì
cả. Cháu vận công phát một chiêu trong Tán lạc tiêu hồn chưởng vào khúc gỗ tươi
cho chú xem nào ?
Không đừng được,
Quốc Toản đứng dậy hành lễ, rồi vận Vô
ngã tướng Thiền công phát chiêu Kiến tích dã ngưu hướng khúc gỗ. Vù một
tiếng khúc gỗ vỡ thành nhiều mảnh bay tung lên, rơi xuống.
Hưng Ninh vương,
Chiêu Minh vương đứng dậy nhặt những mảnh gỗ vỡ : có những miếng vỡ ra
cong queo như những vỏ bào, có những miếng vỡ thành từng cục như sỏi, lại có
những miếng tan ra như bột.
Trong khi trên nét
mặt Thượng hoàng, Chiêu Minh vương hiện ra vẻ hân hoan, thì trên nét mặt Hưng
Ninh vương lại hiện ra nét lo lắng.
– Mừng cho cháu, đã
học được pho võ công vô địch. Với nội công Vô ngã tướng, âm nhu, cháu thừa khả
năng đối phó với độc Huyền âm.
Chiêu Minh vương
chúc mừng. Trong khi Hưng Ninh vương thở dài :
– Pho
võ công này vô địch thiên hạ thực. Nhưng cháu phải chế chỉ tâm thần. Bằng không
khi xử dụng sẽ gây ra sát nghiệp khủng khiếp.
Vương
nhìn Thúy Hồng :
– Công
chúa là bản sư của cháu. Công chúa phải hết sức giảng cho cháu đức từ bi của
Thế tôn, để tránh sát nghiệp.
Quốc
Toản tỏ vẻ ngoan ngoãn :
– Bạch
Bồ tát, cháu là một Phật tử, hơn nữa là cháu nội một hoàng đế uyên thâm
Phật pháp mà. Cháu hứa với bác rằng cháu
sẽ hết sức đắn đo khi xử dụng pho võ công này.
Quốc Kiện tâu với thượngï
hoàng, thái hậu :
– Phụ
hoàng trao con cho ông Di Ái dạy võ, nhưng ông không dạy con, mà trao cho chú
Lộng dạy. Chú ấy cũng không dạy con. Cho nên tuổi con đã lớn mà bản sự không có
gì ! Hôm rồi con đã bái anh Quốc Toản làm sư phụ rồi.
Thượng
hoàng ban chỉ :
– Được
rồi, ta tước quyền sư phụ của ông Ái,
chú Lộng, cho con bái Quốc Toản làm sư phụ. Tước của con là vương. Tước của
Toản là hầu. Nhưng Toản là vai anh. Con là vai em. Con đã bái Toản làm sư phụ
thì cố gắng luyện thành bản lĩnh cao thâm, để sang năm ta sẽ trao cho con chức
văn, lẫn chức võ.
Thượng hoàng ban chỉ chung :
– Buổi
hội hôm nay phải hết sức giữ bí mật. Như vậy bọn Trần Văn Lộng, Trần Tú Hoãn, Lê Tắc không biết
việc làm đó đã bị lộ. Aáp phong của Hoài Văn hầu là vùng Hàm tử. Ngày mai triều
đình sẽ cử quan dẫn cháu nhận ấp phong. Trong khi cha mẹ cháu ở xa, ấp phong
của cha mẹ cháu, do cháu quản lĩnh hết.
Ngài
ban chỉ cho Quốc Kiện :
– Con
phải theo anh Quốc Toản về Hàm tử ngày đêm học võ. Còn học văn, thì cứ hai
ngày, anh em phải về Quốc tử giám nghe các Kinh diên quan giảng sách. Ta tước
quyền làm thầy của Lê Tắc với
con. Con không phải gọi tên phản quốc
này bằng thầy nữa!
Hưng Đạo
vương truyền lệnh cho QuốcToản :
– Bác
lập Trợ Chiêm sát Đát hành doanh, bác đã sai anh Quốc Tảng vào trực tiếp chỉ
huy mặt trận quân viện cho Chiêm thành. Triều đình sẽ ban một mật chỉ cho Quốc
Toản, Quốc Kiện vào Trường yên phòng Lộng, Hoãn, dùng hiệu binh
Tứ thiên, Trung thánh dực làm loạn. Hai cháu phải âm thầm gặp các tướng chỉ huy
các quân bộ và các tướng chỉ huy những vệ yểm trợ, để khi Lộng ra lệnh cho họ
làm loạn, các cháu sẽ xuất hiện khống chế y, các tướng sẽ không tuân lệnh y.
Lại phòng bọn Lê Tắc với
trường Lạn Kha. Quốc Toản có thanh Trấn bắc, là Thượng phương bảo kiếm của đức
Thái Tông, nếu gặp kẻ phản quốc, được quyền tiền trảm hậu tấu.
Hôm
sau, bộ Lễ sai sứ dẫn Quốc Toản nhận ấp phong. Tuyên cao thái phi cũng theo
cháu. Hoài Nhân vương rời Hoàng thành theo Quốc Toản về ấp với sư phụ. Hai
thiếu niên như bóng với hình. Aáp phong Hoài Văn là Hàm tử. Đây là vùng bờ xôi,
giếng mật, dân cư đông đúc. Từ mười mấy năm qua, dân chúng được biết mình sẽ
sống trong việc cai quản của Hoài Văn hầu, hầu là con của Vũ Uy vương. Bây giờ
họ mới được thấy hầu : một thiếu niên uy vũ, mặt đẹp như ngọc, nói năng
nhỏ nhẹ. Aáp phong gồm bốn xã, hai xã nằm trên bắc ngạn sông. Hai xã nằm trên
nam ngạn sông .
Hồi ở
Trường sa, Quốc Toản từng ngồi cạnh phụ vương, xem phụ vương điều động tướng sĩ
đã quen, bây giờ phải lãnh đạo một khối người lớn, hầu không bỡ ngỡ. Hầu ban
lệnh họp bốn đại tư, bốn pháp ty, bốn câu đương, bốn học lễ của bốn xã lại, để
nghe họ trình bầy về tình hình dân số, tài nguyên, giáo dục, thuế khóa. Hầu
khen ngợi họ, rồi quyết định:
– Tôi
còn nhỏ tuổi, kiến thức cai trị dân không làm bao. Tất cả đều nhờ các vị trợ
giúp. Các chức đại tư, câu đương, chánh ty, học lễ đều giữ nguyên.
Hầu
hỏi Quốc Kiện:
– Như
em biết, thuế của vùng Ham tử so với các nơi khác ra sao?
– Em thấy
tương đối là thấp. Không biết có đủ chi dùng trả lương cho các thầy đồ, trả lương
cho tỳ nữ, mã phu không? Ầy là chưa kể việc chi tiêu cho anh, chi tiêu cho bốn
y viện của ấp không?
––––––––––––––––––––––––
(1). Khi viết đến đây
tôi đẳn đo đến hơn năm với câu hỏi: có nên
thuật đoạn này hay không? Vì GTHT là bộ sách thuật lại hành trạng, chiến công
cũa những anh hùng được tôn kính là thánh, được thờ phượng gần nghìn năm qua.
Thế mà lại có đoạn dơ bẩn kinh khủng! Đến
hồi thứ 110, cha con lão già này bị xử tử. Rồi sau hồn ma chúng gây ra nạn hữu
sinh vô dưỡng của trẻ con Việt, cha mẹ chúng phải lên đền thờ đức thánh Trần
bắt tà. Đây là một phần tín ngưỡng của dân Việt, không thể bỏ qua. Nên tôi phải
chép lai. Độc giả đọc đến hồi 110, chú giải 4, sẽ thông cảm với tôi.
Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét