HỒI THỨ MỘT TRĂM LẺ SÁU
Quần hồng che chở đấng trừ quân.
Thúy Hồng
làm bộ mở to mắt hỏi Thoát Hoan:
– Thưa vương
gia, phải chăng ông này là một tướng của Nguyên?
Thoát Hoan
từng đấu khẩu nhiều lần với công chúa An Tư, y không lạ gì miệng lưỡi những cô
nữ tướng Đại Việt. Y mỉm cười:
– Người này
không phải tướng của cô gia. Y là An Nam quốc
vương Trần Ích Tắc đấy!
– Vương gia
khéo đùa thì thôi. Tôi nghe Hưng Hiếu vương Quốc Uy nói: Chiêu
Quốc vương Trần Ích Tắc
là người bác học, đa năng, Tổng trấn Thăng long đã tuẫn quốc rồi. Người này
chắc là hồn ma của tên mãi quốc cầu vinh, bội cha, phản anh, thân làm chó săn
cho giặc, giả xưng là vương đấy.
Thoát Hoan
biết Ích Tắc đang ở thế yếu, muôn nghìn lần không thể đấu khẩu với Thúy Hồng. Y
hỏi:
– Không biết
công chúa điện hạ giá lâm có việc chi vậy?
– Vương gia ơi,
chẳng có gì quan trọng cả. Vợ chồng tôi đánh úp Chi lăng, bắt được một số tù
binh, họ xưng là vương phi, là phu nhân của các tướng Nguyên. Chư tướng của
hiệu binh Văn bắc đều là Hoa kiều, người Tống. Họ muốn giết hết các phu nhân để
trả thù cho hoàng đế Tường Hưng cùng 20 vạn quân dân bị giết ở Nhai sơn. Nhưng
tôi là đệ tử bồ tát A Hàm La. Chồng tôi là đệ tử của bồ tát Tuệ Trung. Chúng
tôi nghĩ: giết người là chư tướng, chứ vợ họ không làm gì nên tội. Vì vậy chúng
tôi đem xe chở tất cả các phu nhân, của cải về đây trao cho vương gia.
– Tướng công
ơi! Nếu không có công chúa Thúy Hồng che chở thì chúng tôi đã bị băm nát thây
rồi.
Thóat Hoan
lệnh cho Thị nữ dẫn đám đàn bà rời khỏi điện. Thúy Hồng thấy phía sau chỗ soái
vị có bàn thờ, khói hương nghi ngút, nhìn thấy bài vị thờ công chúa An Tư, nàng
nháy Ngọc Trí, Ngọc Quốc rồi nói:
– Công chúa
An Tư là con cùa Tuyên cao thái phi. Mà phi là sư mẫu của chúng ta. Chúng ta
nên lễ công chúa cho phải đạo.
Không coi
Thoát Hoan cùng chư tướng Nguyên ra gì, Thúy Hồng sai tỳ nữ ra ngoài mang vào
cây nhị, cái trống mảnh, ống tiêu. Thuý Hồng kéo nhị, Ngọc Quốc thổi tiêu, Ngọc
Trí đánh trống mảnh. Thúy Hồng hát theo điệu Thập ân:
Đồng tiền bằng bạc,
thích bốn chữ vàng,
Công anh gắn bó với
nàng bấy lâu.
Bây giờ hồn nơi đâu?
Để anh giúp đỡ trăm
cau nghìn vàng.
Năm trăm anh hóa cho
nàng,
Còn năm trăm nữa
giải oan lời thề.
Chim khuyên đậu núi
non kề,
Khóc thương, thương
khóc, gửi về cõi âm.
Đêm đêm anh ngắm
sông Ngân,
Khóc rồi, lại khóc,
tủi thân lệ nhòa.
Nếu như hồn ở không
xa,
Hồn cho anh biết,
anh về thắp hương.
Hồn nghe tiếng khấn
tỏ tường,
Thì hồn trở lại lấy
vàng mà tiêu.
Thúy Hồng
vừa dứt thì Ngọc Trí hát theo điệu hát Xẩm. Giọng hát hai nàng nức nở, ai oán,
khiến Thoát Hoan động mối thương tâm, nước mắt dàn dụa. Y hỏi Thúy Hồng:
– Công chúa điện
hạ. Cô gia xin gửi lời cảm tạ đến Khâu bắc đình hầu đã mở lòng từ bi, cứu vương
phi của tôi và chư tướng.
Thúy Hồng cười:
– Vương gia ơi,
năm mươi vạn quân của vương gia như hùm, như hổ kéo sang Đại Việt, hiện đã hao
hụt mất 20 vạn. Bây giờ phía Nam, cánh quân của Toa Đô đang lâm đường cùng. Hậu
cứ bên Chiêm bị phá tan. Hoan châu, Ái châu, Trường yên bị chiếm. Y bị vây ở Ái
châu. Phía Tây, đường từ Vân nam tới Gia lâm bị chốt ở Thảo lâm, Bình lệ nguyên
(Bạch hạc), Cụ bản, Phù lỗ. Phía Bắc, các ải ở biên giới khóa chặt. Đường từ
Gia lâm đi Kiếp bạc tuy còn. Nhưng đường từ Kiếp bạc đi Chi lăng, đường Chi lăng
về Lạng sơn bị chốt. Các đồn trên sông Hồng bị nhổ hết. Vương gia còn hy vọng
gì? Vương gia có biết không? Hai tướng trẻ là Hoài Nhân vương, Hoài văn hầu đã đến
Chi lăng xin chồng tôi dậy cho thuật ném đá. Hai tướng đe dọa sẽ phục dọc đường
chờ vương gia đi qua, để ném đá như chồng tôi đã ném đá giết Mông ca đấy. Cả ba
hẹn sẽ ném vương gia với tên gian vương Ích Tắc một trăm tảng đá đấy.
Thúy Hồng
rời điện Giảng võ rồi, Thoát Hoan hỏi Ngọc Trí:
– Tình
hình Minh Lý Tích Ban chỉ huy thiên phu hộ tống gia thuộc bọn hàng
thần ra sao?
Ngọc Trí
nói:
– Vì trong đoàn
hàng thần, gia thuộc hầu hết là hoàng tộc Trần triều. Thượng hoàng của triều
Trần, chủ trương nhẹ tay với thân tộc.
Nên các tướng Địa Lô, Phạm Ngũ Lão, Dã Tượng, Nguyễn Thế Lộc, Nguyễn
Lĩnh không người nào dám lĩnh nhiệm vụ truy đuổi chúng. Vì lỡ giết chúng e Thượng
hoàng không bằng lòng. Cần có một tướng được Thượng hoàng sủng ái, mới dám thẳng
tay. Hưng Đạo vương quyết định sai Hoài Nhân vương đem hiệu binh Tứ thần truy
sát. Hoài Nhân vương là người trí dũng tuyệt vời, mưu trí không biết đâu mà lường,
được Thượng hoàng yêu thương, được hoàng thượng sủng ái, được cả Khâm Từ hoàng
hậu nể vì. Ngặt vì vương phi là công chúa Câu-thi Lị-ha-thân Bài-ma-la (Sri Harivarman Nang Tiên) Nang Tiên. Lúc nào vương phi
cũng sát cánh bên cạnh vương. Công chúa cực ghét bọn gian thần tặc tử. Đúng ra đoàn
hộ tống tới Kinh bắc, vương tung quân, chỉ một trận là diệt tuyệt. Nhưng
đêm đầu vương cho một sư reo hò đánh vào khu đóng trại của hàng thần Minh thành
hầu Trần Thế Hiệp. Bọn hàng thần cùng gia thuộc thấy kỳ hiệu của Hoài Nhân vương
thì như chuột thấy mèo, như gà thấy cáo. Suốt đêm không ai ngủ được. Hiệp bị
bắt. Hoài Nhân vương trói y trước mặt gia thuộc, rồi sai nhét cứt chó vào
miệng.
Lý Quán hỏi:
– Thưa vương
phi, thế Hoài Nhân có giết Trần Thế Hiệp không?
– Không, vương
sai giải toàn bộ gia đình về Cố trạch. Ngày ngày đi nhặt phân trâu trên đường.
– Rồi sao?
– Hôm sau đoàn
người lên đường, Hoài Nhân vương cho phục binh đánh bắt mấy chục xe đi đoạn
hậu. Đây là đám gia thuộc của Minh Trí hầu Trần Cư. Hoài Nhân vương không đánh,
không chửi Cư, vương phi Nang Tiên cấm binh tướng không cho bọn này ăn uống.
Bọn chúng đói quá, dọc đường phải ăn xin dân chúng. Sau 3 ngày, vương sai giải
về ấp Hàm tử của Hoài Văn hầu cho ông cụ Trung Thành vương xử. Trung
thành vương bắt vợ chồng, gia thuộc của Cư chăn lợn. Trên ngực đeo tấm bảng có chữ
“gian thần tặc tử, bán nước phản dân“. Tuy nhiên mấy đứa trẻ dưới 10 tuổi, vương
sai vương phi Tháp Sát Nhi là Thánh mẫu Hồng Liên nuôi dạy.
– Rồi sao?
– Đoàn người
tiếp tục đi, thần trí cực kỳ căng thẳng. Buổi trưa đoàn vừa nghỉ ăn cơm, Hoài
Nhân vương lại cho một sư phục binh đánh. Nhưng không bắt người. Cả đoàn bỏ của cải, trâu bò, gia
súc lại, chạy vắt giò lên cổ. Vừa hoàn hồn thì buổi chiều bị trúng phục binh
của Dã Tượng. Đoàn hộ vệ liều chết mới vượt qua khu Chi lăng, ngủ đêm bên sườn
núi. Vợ Dã Tượng là người nhân từ không cho bắn giết những người sống sót. Gần sáng
lại trúng phục binh của tên Địa Lô. Cả đoàn người mệt nhừ, ngựa không còn sức
cố lết trong đêm. Hôm sau đang đi lại bị trúng phục binh của Địa Lô . Địa Lô
bắn một mũi tên trúng giữa mặt Chương hiến hầu Trần Quang Kiện. Kiện chết ngồi
trên mình ngựa. Lê Tắc cướp được
thây, chạy đến gò Ôn khâu mới chôn. Cả đoàn sang đến địa phận châu Tư minh,
biết rằng thoát nạn, người người nhìn mặt nhau, nằm lăn ra ngủ.
Ngọc Trí thở dài:
– Các vương, hầu hàng
ta thì được phong chức tước lớn. Nhưng họ không chu toàn cho vợ con. Đám gia
thuộc của Trần Ích Tắc với ba hầu Trần Quang Kiện, Trần Văn Lộng, Trần Tú Hoãn
trên 3 nghìn người, tới Ung châu chỉ còn không quá 100 người. Chỉ huy cuộc truy
đuổi là Hoài Nhân vương. Nên vương ra lệnh cho đội cận vệ chỉ bắn giết gia
thuộc hàng tướng, còn lại tha cho vợ, con, cháu của chúng. Nhưng những người
sống sót thần trí như những kẻ điên: nói năng không còn mạch lạc, chân tay run
rẩy, đi đứng không vững. Ngày đêm kêu gào thảm thiết, nói lảm nhảm. Sau này
không còn làm được việc gì nữa!
Thoát Hoan sai người đưa vợ với Ngọc Quốc rời khỏi điện. Ngay chiều hôm đó
Thúy Hồng, Trần Đại Như Vân theo đường hầm vào Hoàng thành gặp Ngọc Trí, Ngọc
Quốc. Thúy Hồng nói:
– Từ hôm khám phá ra Trần Ích Tắc chính là tên gian vương Tròn, tất cả mọi liên
lạc của Đại Việt bằng chim ưng đều ngừng lại. Vì bọn Trần Quang Kiện, Trần Văn
Lộng, Trần Tú Hoãõn, Lê Tắc, đều biết
chỉ huy chim ưng. Cho nên triều đình không liên lạc được với các em. Những chim
ưng cũ đều bỏ. Hiệu binh Văn bắc phải huấn luyện những toán chim Ưng mới. Ký
hiệu sai bảo chim ưng thay đổi hết. Hôm nay chị vào đây để dạy các em kỹ thuật
mới chỉ huy chim Ưng.
Kỹ thuật dùng chim ưng chỉ có 20 động tác khác nhau, hai nàng Ngọc vốn thông
minh, nên chỉ thoáng một cái đã xong. Như Vân nói:
– Các chị xa quê hương đã mấy năm, bây giờ mới được về Thăng long. Các chị
xin với chồng cho về thăm nhà. Khu mật viện
đã huấn luyện mấy nữ binh còn rất trẻ. Xinh đẹp. Địa Lô sẽ đem các nữ binh giả
làm em, làm cháu họ của các chị. Khi gặp song thân các chị vờ xin song thân cho
mấy cô bé này làm tỳ nữ rồi mang theo để
sai bảo.
Ngọc Trí cười:
– Phải cẩn thận, lỡ ra các cô ấy xinh đẹp, bọn tướng Mông cổ lại xin chúng
tôi gả cho chúng thì nguy to.
– Không sao! Các cô ấy cũng được đào tạo thuật bắt nai, thuật chỉ huy huy
chim ưng như các chị. Các cô ấy cũng biết nói tiếng Hán, tiếng Mông cổ. Nhưng
không biết múa hát như các chị. Bản lĩnh võ công khá cao.
Tại thành Thăng long, Thoát Hoan hỏi
Lưu Thế Anh:
– Thế tình hình các đồn trên sông Hồng ra sao?
– Suốt một giải sông Hồng, thần cho lập 15 đồn để khống chế đường thủy. Vì
có sơ đồ phòng thủ các đồn, chỉ một đêm, Hưng Hiếu vương Quốc Uy đem hiệu binh
Tả thánh dực, tràn ngập hết. Thế là đường thủy từ biển theo sông Hồng, bị chặn.
Chỉ còn căn cứ A lỗ. Man Việt đã đánh ba lần đều thất bại.
Thoát Hoan ban chỉ:
– Đồn A lỗ là cuống họng của ta ra biển, là con sông huyết mạch của Giao
chỉ. Vậy tướng quân khẩn ra giữ đồn này.
A Lý Hải Nha than:
–
Ta đánh các chiến lũy Khâu ôn, Khâu cấp, Đại trợ, Khả lan vi, Chi lăng,
Kiếp bạc, Tam lộ dễ dàng là nhờ An Nam quốc vương Trần Ích Tắc cung cấp
sơ đồ phòng thủ của Man Việt. Bây giờ không biết bằng cách nào Hưng Đạo vương
có sơ đồ phòng thủ các đồn của ta, trao cho Địa Lô với Quốc Uy, vì thế các đồn
của ta bị mất dễ dàng.
Lý Hằng nói với Thoát Hoan:
– Vương gia! Trước đây, những lần kế hoạch, mật khẩu của ta bị lộ, vương
gia nghe lời Trần Ích Tắc tố rằng vương phi Ngọc Trí với vợ tôi là Ngọc Quốc đã làm Tế tác cho An Nam.
Vì vậy khi chiếm được Chi lăng, vương gia ban chỉ cho tướng sĩ để vợ con lại.
Bây giờ vương phi với vợ tôi đều ở Chi lăng mà nảy ra cái việc có gian tế trộm
kế hoạch, thì rõ ràng cái việc sao chép các sơ đồ đồn trú của ta, do người
khác! Không do vương phi, không do vợ tôi!
A Lý Hải Nha tán đồng ý kiến Lý Hằng:
– Vương gia ơi! Con chim sắp chết, tiếng kêu bi thương. Con người ta sắp
chết lời nói chắc lành. Lời công chúa An Tư trước lúc băng, khuyên vương gia
không nên tin cái tên bội anh, phản cha Trần Ích Tắc, mà nghi ngờ người đầu gối
tay ấp của mình.
Nghe A Lý Hải Nha nhục mạ, Ích Tắc xám mặt, nhưng vì xét phận mình là hàng
thần lơ láo, y đành cúi mặt nuốt bồ hòn.
Lý Quán ngao ngán:
– Bây giờ phía Bắc ta bị chặn đường.
Phía nam bị cắt. Ta lâm vào thế lửng lơ ở
giữa. Ta chỉ có cách đánh cảm tử, khai thông đường từ Lạng sơn về đây, rồi
gửi biểu vể triều xin viện binh.
Lý Hằng xua tay:
– Quân số của ta tuy hao hụt, nhưng
vẫn còn dư sức đàn áp chúng. Ta không cần viện thêm. Chỉ cần 5 vạn binh, ta dư sức
đuổi theo cha con Nhật Huyên. Còn viện binh, thì triều đình không còn quân mà
viện cho ta.Vì phía Bắc, chính quốc Mông cổ đã bị Hoài Đô chiếm. Hoàng thượng
phải phái Thái tử Chân Kim chinh tiễu. Còn Kinh hồ, Lưỡng quảng thì Cần vương Tống đang đánh phá
các nơi. Có tin Trấn tây vương tức Vũ Uy vương Đại Việt, bỏ Hoa Thích Tử Mô về suất lĩnh lực lượng Cần vương Tống ở Kinh nam.
Trần Ích Tắc bị Lý Hằng xỉ mạ, vì là
thứ hàng thần lơ láo, y cắn răng ngồi im. Bây giờ y mới phát biểu:
– Chúng ta còn đến 30 vạn binh. Ta
cần viện là viện lương thảo. Tiểu vương đã ban chỉ cho các vùng ta chiếm phải
nộp lương cho quân Thiên triều. Suốt tháng qua không có lương tiếp tế. Tiểu vương
đã cung đốn đầy đủ, có thiếu đâu? Hiện kho dự trữ đủ lương dùng ít ra trong 10
ngày. Vấn đề lương không đáng lo. Ta cần triển khai quân về vùng Thiên trường
bắt cho được cha con Nhật Huyên. Bọn Nhật Huyên bị bắt thì quân An Nam như rắn
mất đầu, ta không sợ Hưng Đạo vương và 2 tên ôn con Hoài Nhân, Hoài Văn nữa. Ta
bình An Nam không khó.
Lời góp ý của Trần Ích Tắc khiến bọn Thoát Hoan như mở mắt ra. A Lý Hải Nha
ra lệnh:
– An Nam quốc vương hứa cung cấp lương
thực thì ta yên tâm. Bây giờ ta cần làm bằng này việc. Thứ nhất la truy bắt cha
con Nhật Huyên. Thứ nhì là tái chiếm các nhóm căn cứ chính. Nhóm căn cứ thứ
nhất là Kiếp bạc, với Đông triều. Nhóm căn cứ thứ nhì là Chi lăng, Khâu ôn,
Khâu cấp, Đại trợ, Khả lan vi. Nhóm căn cứ thứ ba là Thảo lâm, Bình lệ nguyên
(Bạch hạc), Phù lỗ, Cụ bản. Nhóm căn cứ thứ tư là Tam lộ, các đồn dọc sông
hồng.
Đúng lúc đó Hưng Đạo vương hội họp chư tướng tại Thiên trường. Chủ tọa là
Thượng hoàng (Thánh tông). Lão tướng Trung Thành vương đã 90 tuổi, được mời ngồi bên cạnh Thương hoàng với Hưng Đạo vương.Vì
cuộc họp tối mật trong lúc chiến tranh, nên mọi lễ nghi đều giản tiện. Mở đầu
Thượng hoàng hỏi:
– Hưng Vũ vương hiện phụ trách Khu
mật viện, vương hãy trình bầy tình hình địch.
Hưng Vũ vương Quốc Nghiễn
(Hiện) chỉ Nguyễn Địa Lô:
– Trung lang tướng là Phó quản Khu mật viện trình bầy tổng quát.
Địa Lô đứng dậy:
– Hiện chúng ta đang ở vào tháng tư, khí hậu oi bức, mưa lớn, nước lụt khắp
nơi. Quân Nguyên phần lớn gốc Mông cổ, sống ở Thảo nguyên, khô cằn lạnh lẽo.
Bây giờ gặp khí hậu nóng bức, doanh trại ngập lụt, muỗi đốt, đỉa bám, lại thiếu
ăn thì sức lực giảm phân nửa. Về lương thực cho cánh quân phía nam của Giảo Kỳ,
Toa Đô thì đường tiếp tế từ các căn cứ đồn điền trên đất Chiêm đã bị Cao Mang phá nát. Cánh quân
này sống bằng cách cướp bóc các làng. Nhưng các làng dấu hoặc đốt hết lương. Cánh
quân Vân nam, bị chặn tiếp tế ở Bình lệ nguyên, Phù lỗ, Cụ bản; cánh quân chính
từ bắc xuống bị chặn ở Chi lăng, Kiếp bạc. Lương thực trông vào Chiêu Quốc vương
tiếm xưng hoàng đế ban chỉ thúc dân các vùng bị giặc chiếm nộp. Nhưng dân nộp không
làm bao.
Hưng Vũ vương tiếp lời Địa Lô:
– Thần đã âm thầm ban chỉ cho các Đại tư:
không nộp lương cho giặc, thì giặc tàn phá làng. Chi bằng cứ nộp, nhưng nộp lấy lệ. Khi có lệnh, thì trộn
thuốc độc vào lương nộp cho giặc để chúng bị bệnh.
Thượng hoàng hỏi:
– Thuốc này có mùi vị e giặc biết thì hỏng hết.
Cống chúa Nang Tiên tâu:
– Trung lang tướng Địa Lô pha hương liệu vào thuốc, khi nấu cơm, hương liệu
bốc mùi giống cơm tám. Thuốc này không giết chết ngươi, nhưng làm cho người ăn
bị bải hoải chân tay, đi tiêu chảy. Hồi Hoài Nhân vương, Hoài Văn hầu trợ giúp
thần đánh Mông cổ ở Chiêm đã dùng. Kết quả tuyệt hảo.
Hưng Đạo vương ban lệnh:
– Từ khi quân Nguyên nhập biên, chư tướng được lệnh chỉ đánh một hai trận
rồi rút lui, ẩn trong dân để dưỡng sức. Bây giờ giặc vào sâu trong nước, phân
tán khắp nơi, bị bệnh thời khí, bị bệnh do muỗi, do đỉa, chúng đói khát mệt mỏi
lắm rồi.
Vương nói thực chậm:
– Ta cần đánh như sét nổ, đuổi chúng ra khỏi nước.
Chư tướng hân hoan không bút nào tả siết.
Trung Thành vương nhắc
lại:
– Tiết chế ban lệnh đuổi chúng ra khỏi nước, chứ không tiêu diệt. Thoát Hoan mang 50 vạn quân sang, tử trận hơn 10 vạn,
chết bệnh hơn 10 vạn, còn 30 vạn. Ta không thể , không nên tiêu diệt 30 vạn
quân này. Vì tiêu diệt 30 vạn giặc, ta cũng phải hao hụt 10 vạn là điều không
nên. Thói quen của Mông cổ là khi bị bại, họ sẽ dốc quân nghiêng nước trả thù.
Những binh tướng bại trận sẽ ưu tiên được xử dụng. Bọn bại binh, bại tướng bị đuổi
khỏi nước ta, khi trở lại thì chúng như con chim trúng tên, thấy cây cong thì
sợ. Ta đánh dễ hơn. Nếu ta diệt hết, thì Nguyên sẽ đem những tướng, những binh,
những quân khác sang, từ thể chất đến thần chí đều khỏe, ta khó mà thắng được.
Các tướng vỗ tay hoan hô lão tướng 90 tuổi kinh nghiệm nhiều không biết đâu
mà lường.
Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư
tiếp lời Trung Thành vương:
– Tôi nhắc lại lời Tiết Chế: đuổi chúng chứ không phải diệt chúng. Tuy vậy
ta cần giết mấy tên đại tướng của chúng,
để những tên còn lại, hoặc những tên mới sang kinh sợ. Tôi đề nghị không nên
giết Thoát Hoan, A Lý Hải Nha, Ô Mã Nhi, Giảo Kỳ, Đường Ngột Đải. Nhưng phải
làm cho bọn chúng bở vía. Bọn còn lại, giết được tên nào hay tên ấy. Hôm trước
Hoài Văn hầu đại náo lễ tấn phong Trần Ích Tắc không giết Thoát Hoan mà làm cho
y kinh hoảng. Cho đến hôm nay chân tay y còn run run, đêm ngủ nói mê, nói sảng.
– Sao vương biết.
Trần Đại Như Vân tâu:
– Thần với anh Toản, anh chị Hoài
Nhân thường âm thầm đột nhập Hoàng thành. Chính mắt chúng thần thấy khi ăn, Thoát
Hoan cầm đũa tay run run. Cung nữ phải đập
đập tay vào vai, y mới gắp được thức ăn. Hôm qua gặp chú Khánh Dư, thần cáo với
chú.
Suốt
thời thơ ấu Như Vân ở Mông cổ, rồi Đại lý, vì vậy nàng không đủ ngôn từ cung đình.
Nàng nói bằng ngôn từ bình dân, giọng lơ lớ. Thượng hoàng gật đầu tỏ ý thông
cảm.
Hưng Đạo vương ban lệnh:
– Muốn làm cho Thoát Hoan kinh hoảng thì cần 6 tướng Dã Tượng, Địa Lô, Trần
Quốc Toản, Trần Quốc Kiện, Nguyễn Thiên Sanh xuất thủ. Khi y rút chạy, ta phục
binh dọc đường, dùng tên, dùng máy bắn đá truy sát ngày đêm. Còn giết bọn Ô Mã
Nhi, Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán thì phi Hưng Ninh vương với Hoài Văn hầu ra khó
ai đủ bản lĩnh thắng chúng.
Hưng Nhượng vương bàn:
– Toàn thể võ quan triều Nguyên, có 5 võ tướng mà tài dùng binh như thần,
võ công tuyệt đỉnh là Ô Mã Nhi, Toa Đô, Lý
Hằng, Lý Quán, Đường Ngột Đải. Ô Mã tiếng Mông cổ nghĩa là đệ nhất dũng sĩ. Y
từng đối chiêu với Dã Tượng. Xin anh cho biết về y!
– Lần đầu tiên tôi đối chưởng với y tại điện Quang minh. Chưởng của y bao
gồm âm, dương, phong, lôi, thủy, hỏa thêm công lực cao thâm khôn lường. Tôi đã
vận đủ mười thành công lực mà ngực muốn nổ tung ra. Lần thứ nhì tại trận Tứ
xuyên. Sau 10 chiêu tôi bị bại, may nhờ vương phi Ý Ninh dùng Mê linh kiếm pháp
mới trị được y. Bây giờ sau gần 20 năm, không biết võ công y ra sao.
Hưng Nhượng vương tiếp
– Nghe nói võ công 2 tên Ô Mã Nhi, Toa Đô ngang nhau. Còn 3 tên Lý Hằng, Đường
Ngột Đải, Lý Quán thấp hơn một chút.
Vương nhìn Tuệ Trung bồ tát, thấy ông bác lắc đầu, vương tiếp:
– Nhưng Hưng Ninh vương là một bồ tát, đuổi giặc thì vương làm, còn giết
thì khó mà vương chịu xuống tay. Chúng ta có bằng này người: Quốc Toản, Quốc
Tảng, Thủy Tiên, Thúy Hồng đủ bản lĩnh trị Lý Hằng, Lý Quán, Đường Ngột Đải. Tên cần giết là Toa Đô. Vậy nên mở đường
cho Toa Đô ra bắc, sai Quốc Toản giết y.
Hưng Đạo vương nói với Hưng Nhượng vương:
– Con cố xếp đặt kế hoạch để Quốc Toản giết
Toa Đô. Còn Địa Lô xếp đặt để Hưng Nhượng vương, Thúy Hồng, Thủy Tiên
giết Hằng, Quán, Đải.
Địa Lô tâu:
– Địa vị của Đường Ngột Đải tối quan trọng. Y là nhân vật thứ nhì của đạo
binh đánh vào Hoan, Ái. Vợ của y là Lý Ngọc Cách, tước phong công chúa của Đại
việt; Cách được chồng sủng ái cùng cực. Nàng có tham dự vào quân cơ, cung cấp
tin tức cho Khu mật viện đầy đủ. Không nên giết y. Để y sống, y ở đâu thì tin
tức của Thát đát ta biết hết.
Thượng hoàng ban chỉ:
– Trung lang tướng thực không hổ danh Tiểu Khổng Minh. Vậy ta cần tránh
giết những tướng có vợ Việt. Đó là Thoát Hoan, Đường Ngột Đải, Lý Hằng. Tuyệt đối
tránh giết các công chúa của ta.
Hưng Đạo vương tiếp:
– Chúng ta chia quân ra nhiều cánh gây kinh hoàng cho chúng; rồi đuổi chúng
khỏi Thăng long.
Vương hạ lệnh:
– Chiến dịch này trải từ Nghệ an tới Bắc cương. Ta chia thành nhiều chiến
trường, nên rất phức tạp. Chiến trường biến đổi khó lường. Cần một tướng theo
dõi, cứu ứng những nơi thất bại, truy đuổi cho chúng kinh hoảng, khi mặt trận
của chúng bị vỡ. Vậy thống lĩnh Thiên tử binh Hưng Nhượng vương lĩnh nhiệm vụ
này. Bây giờ tới các mặt trận.
Vương chỉ Cao Mang:
– Cánh thứ nhất: hiệu Thiên cương trước kia do Chương Hiến hầu Trần Kiện
thống lĩnh, bây giờ trao cho Chiêu võ thượng tướng quân, Chiêu dương hầu Cao Mang kiêm luôn. Hầu thống
lĩnh hiệu Củng thần, Thiên cương chặn không cho Toa Đô đem quân lui về Chiêm.
Thế bắt buộc y phải đem quân ra bắc. Khi y rút ra bắc thì phục binh dọc đường
gây kinh hoàng cho binh tướng của y.
Cao Mang rời trướng.
Vương đứng dậy cung tay nói với Thượng hoàng:
– Cánh quân thứ nhì do, Khâm từ hoàng hậu xử dụng hiệu binh
Thiên thánh, phò Thượng hoàng, Hoàng thượng, đánh Trường yên.
Khâm Từ hoàng hậu khiếu nại:
– Trấn tại Trường yên là thân vương Giảo Kỳ với Đường Ngột
Đải, họ có 2 vạn bộ, 1 vạn kị. Trong khi hiệu binh Thiên thánh vừa bị đánh xơ
xác ở Tam lộ mới bổ xung, chúa tướng Trần Bình Trọng bị giết, e không địch lại
bọn Giảo Kỳ.
Hưng Vũ vương trấn an em gái:
– Hậu yên tâm, tại
Trường yên có hiệu Tứ thiên của Trần Tú Hoãn. Khi Hoãn hàng giặc thì Khu mật
viện đã sai mật sứ ban chỉ cho các tướng cứ giả theo giặc, chờ thời cơ đánh lại
chúng. Khi Thượng hoàng vào Trường yên, hiệu binh này sẽ quay gươm trợ giúp
hậu.
Thấy con gái vẫn chưa yên tâm, Hưng Đạo vương hỏi:
– Vậy hậu cần thêm bao nhiêu quân?
– Xin cho con thêm một trong hai hiệu Hàm tử của Hoài Văn hầu hay hiệu Tứ
thần của Hoài Nhân vương.
– Vậy Hoài Văn hầu đem hiệu Hàm tử đặt dưới quyền Khâm Từ hoàng hậu phò Thượng
hoàng, Hoàng thượng đánh Trường yên.
Hưng Đạo vương dặn Hoài Văn hầu:
– Cháu nhớ, chỉ đánh như sét nổ khiến chúng phiêu hồn, bạt vía chạy về Thăng
long, làm cho đại quân của Thoát Hoan tại Thăng long, Tây kết, Chương dương vỡ
mật mà thôi. Không nên giết Giảo Kỳ, Đường Ngột Đải.
Phu nhân Thúy Hồng của Dã Tượng là bản sư của Trần Quốc Toản, công chúa dặn
đệ tử:
– Em phải tối cẩn thận, vì trong đám gia thuộc của đạo binh này có người
của ta.
Hoài Văn hầu mỉm cười:
– Con nhớ, đó là giai nhân Lý Ngọc Cách, vợ của Đường Ngột Đải. Trên xe của
Đường Ngột Đải thì kéo cờ đỏ. Xe của Ngọc Cách thì cờ xanh. Con sẽ ra lệnh cho
cung thủ không bắn vào xe có cờ xanh. Con xin ghi nhớ lời sư phụ.
Thúy Hồng nhắc lại:
– Không phải chỉ kéo cờ xanh, mà phất cờ xanh. Ký hiệu phất cờ xanh như
sau:
“1 lần chĩa về trước,
1 lần phất lên,
1 lần phất xuống,
1 lần phất phải,
1 lần phất trái,
3 lần quay tròn.
Còn như phất không đúng thì là kẻ
thù, đã giết, tra khảo các nàng, rồi giả xưng. Phải giết chết.
Hoài Văn phu nhân là Như Vân hỏi:
– A Di Đà Phật! Thưa cô! Trường hợp Đường Ngột Đải sợ quá, bỏ vợ chạy thoát
thân thì sao?
– Em trao Ngọc Cách cho
Khâm Từ hoàng hậu. Tước của Ngọc Cách đã được triều đình phong cho là Công
chúa. Phải dùng lễ kính công chúa để đãi nàng. Hoặc em sai người hộ tống Ngọc
Cách về Thăng long với Thoát Hoan.
Hưng Đạo vương tiếp:
– Sau khi chiếm Trường yên, Hoài Văn hầu dẫn quân trở về cùng Trung Thành vương đánh Tây kết.
Vương tiếp:
– Bây giờ đánh đồn A lỗ. Hưng Trí vương Quốc Hiện , đem hiệu
binh Tiền thánh dực, với hạm đội Bạch đằng đánh đồn A lỗ. Đồn này nằm trên ngã
ba sông Hồng với sông Luộc. Quân trú phòng gồm một vạn phu, do tướng tài là Lưu
Thế Anh trấn thủ.
Hưng Trí vương khiếu nại:
– Đồn A Lỗ hai mặt quay ra sông, rất kiên cố. Quân trú phóng tới một vạn,
trong khi thần nhi cũng chỉ có 1 vạn, e không thắng nổi.
Đề đốc Võ Văn Sáu cam kết:
– Vương gia yên tâm, hạm đội Bạch đằng của thần tuy là thủy quân, nhưng khi
lên bộ cũng có khả năng như bộ binh. Vả đồn A lỗ, hai mặt quay ra sông. Thần
xin lĩnh nhiệm vụ đánh 2 mặt này.
Mọi người nhìn Sáu, dáng người thanh nhã như một văn gia hơn là một đề đốc
làm chúa vùng lãnh hải từ cửa Thần phù tới cửa biển Thư mi liên.
Trung Thành vương cười
lớn:
– Vương đừng lo, Tiết chế đã chuẩn bị sẵn rồi. Hai ngày trước khi công đồn,
chúng ta sẽ cung cấp gạo trộn thuốc độc cho binh sĩ của chúng. Chúng bị té re, nằm mệt lử thì đánh gì? Tên gian Chương
hiến hầu Trần Quang Kiện đã cung cấp cho chúng 50 chiến thuyền. Khi ta tấn công
dữ đội ắt chúng xuống thuyền bỏ chạy. Bấy giờ hạm đội Bạch đằng sẽ tung chiến
thuyền chặn ở đầu sông. Bọn binh lính của Lưu Thế Anh là kị binh, bộ binh thì
làm sao chịu nổi hạm đội Bạch đằng? Aáy là chưa kể đội Ngạc binh phục sẵn trên
bờ sẽ lâm chiến, đục thuyền thì chúng bị làm mồi nuôi cá hết.
Ỷ là con yêu của Thượng hoàng, Hoài Nhân vương xen vào tâu:
– Con đã chiến đấu với đề đốc Võ Văn Sáu tại Chiêm. Thực là một tướng tài
trí phi thường. Nhưng tài trí phi thường không bằng cái quyết tâm của đề đốc.
Nếu con có quyền, con đã thăng Võ lên đô đốc rồi.
Hồi mấy năm trước vì Thượng hoàng nghe lời xàm tấu, ngài từng khắt khe với
người con út này. Mấy năm qua tài trí của vương với hiệu binh Tứ thần làm quân
Việt kính yêu. Kẻ thù kinh hãi. Bây giờ vương ngỏ lời khen một đề đốc, ngài ban
chỉ:
– Đề đốc Võ Văn Sáu đứng dậy nghe chỉ!
Võ Văn Sáu đứng
dậy. Thượng hoàng nói thực chậm:
– Chiếu đề nghị của Hoài Nhân vương.
Kể từ ngày hôm nay, trẫm thăng đề đốc Võ
Văn Sáu lên hàm đô đốc, tước Hoàng sa bá.
Tất cả mọi người vỗ tay mừng cho Sáu.
Võ Văn Sáu chắp tay tạ Thượng hoàng.
Hưng Đạo vương nói với Trung Thành vương:
– Tại Tây
kết giặc trú đóng tới 2 vạn bộ, 3 vạn kị, do Bôn Kha Đa chỉ huy, với các vạn
phu gốc Mông cổ. Đây là những đạo binh thiện chiến nhất, gốc là binh tướng Bắc
Liêu. Xin Trung Thành vương đánh
căn cứ này. Tôi đặt ba hiệu binh Tứ thần của Hoài Nhân vương, Hàm tử của Hoài Văn
hầu, Tả thánh dực của Hưng Hiếu vương Quốc Uy; dưới
quyền thống lĩnh của vương. Vương nhớ khi đánh thì không đánh mặt đông, để chúng tháo chạy về Thăng long. Vương
phá được căn cứ này thì các đạo binh Nguyên quanh Thăng long coi như tan nát
hết.
Thượng hoàng hỏi:
– Tại Tây kết giặc có tới 5 vạn binh thiện chiến, Trung Thành vương chỉ có ba
hiệu binh thì e khó đương nổi.
Địa Lô tâu:
– Giặc đã mất tinh thần, chỉ cần hai
hiệu binh Tứ thần, Hàm tử xuất hiện, kéo hiệu kỳ lên là chúng bỏ chạy rồi. Thần
đã chuẩn bị may cho 2 hiệu binh này thực nhiều cờ. Trong quân Nguyên, đồn đại
về 2 hiệu binh Tứ thần, Hàm tử như những thiên binh. Chúng thấy kỳ hiệu Tứ
thần, Hàm tử là bỏ chạy. Vả Ích Tắc cung cấp lương có thuốc độc cho chúng, thì
chúng bị tiêu chảy, nằm liệt thì ta bắt chúng như bắt ốc .
Hưng Đạo vương
gọi:
– Mời Đại đởm, đại tướng quân, Minh tâm, dũng lược, duệ mưu công thần,Nam phương, thần
vũ Quốc công nhận lệnh:
Nguyễn Thiên Sanh đứng dậy: người người cùng
nhìn lão tướng tóc đã bạc, nhưng dáng dấp vẫn còn mạnh khỏe.
– Quốc công mang các chiến sĩ Đại đởm, bí mật
nhập Thăng long, gây kinh hoàng cho giặc, cũng như lấy tin tức.
Vương đứng dậy ban lệnh chỉ:
– Hôm nay là ngày 17 tháng 4, tất cả đều khai
chiến vào giờ tý ngày 20. Trận Tây kết khai chiến vào ngày 24.
Hưng Đạo vương trịnh trọng:
– Bây giờ
tới lực lượng tái chiếm Thăng long. Sau khi phá giặc ở Trường yên; Thượng
hoàng, Hoàng đế trả hiệu binh Hàm tử về cho Trung thành vương. Thượng hoàng đem
hiệu binh Tứ thiên trấn Trường yên để hiệu binh Thiên thánh trở lại trấn Tam lộ.
Trung thành vương đánh Tây kết, rồi đánh cửa tây Thăng long với hiệu binh Hàm
tử, Tả thánh dực.
Hưng Đạo vương
nói với Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật:
– Chiêu Văn
vương đem hiệu binh Thiệu Hưng của quốc công
Triệu Hòa. Hiệu Văn Thiên Tường của quốc
công Triệu Nhất, Triệu Trung đánh cửa đông Thăng long. Trước kia hiệu binh Trung thánh dực, do Văn chiêu hầu Trần Lộng, nay đặt trực thuộc Chiêu Văn vương.
Vương được tăng viện hiệu binh Tứ thần
của Hoài Nhân vương, đánh cửa đông Thăng long. Để ngỏ cửa bắc cho chúng rút
chạy.
Hưng Đạo vương
đứng dậy hướng Chiêu Minh vương Quang
Khải:
– Nguyên tập
trung quân ở Tây kết, với Chương dương. Tại Chương dương chúng đồn trú tới 4
vạn bộ, 2 vạn kị, doanh trại nối liền
với Thăng long. Bọn này do Lý Hằng, Lý Quán chỉ huy. Binh tướng nửa gốc Thảo
nguyên, nửa gốc Hán. Vì vậy đánh Chương dương phi Thái úy Chiêu Minh vương
không ai đương nổi. Không biết vương sẽ dùng hiệu binh nào?
Chiêu Minh vương
đứng dậy:
– Thăng long
có nhiều sông ngòi. Tôi sẽ dùng ba hạm đội Thần phù của đô đốc Phạm Cự Địa. Hạm
đội Thăng long, của đô đốc Nguyễn Chế Nghĩa, hạm đội Bạch đằng của đô đốc Võ Văn
Sáu. Vì tại đây Nguyên có tới 2 vạn kị binh, tôi dùng hiệu Ngưu binh Hoa lư
của Ngưu vệ thượng tướng quân, Trâu Đen
Lý Long Đại, vợ là Cái Hồng Vũ Trang Hồng; kị binh
của Chiêu Hòa vương Quốc Uất.
Vương hướng
Võ Văn Sáu, Yết Kiêu:
– Trên sông
Hồng chúng bắc tới 2 cái cầu phao song song cách nhau 5 dặm. Đô đốc Võ từng
chiến đấu dưới quyền Thiên kình đại tướng quân Yết Kiêu. Thầy trò hợp tính, hợp
mưu như tay phải với tay trái. Vậy hạm đội Bạch đằng được đặt trực thuộc Yết
Kiêu để chặn đánh giặc ở cầu phao. Truy đuổi chúng dọc các nhánh sông nhỏ quanh
Thăng long.
Vương đưa mắt nhìn chư tướng:
– Về bộ binh
tôi sẽ dùng 4 hiệu. Nếu có thể thêm 2 hiệu Hàm tử, Tứ thần của Quốc Toản, Quốc
Kiện. Không cần dùng nhiều binh, vì chúng sẽ bị tiêu chảy, không còn sức lực.
Vương hỏi Quốc Toản, Quốc Kiện:
– Liệu sau khi dự trận Trường yên, Tây kết.
Hai cháu còn sức đánh vào Thăng long không?
Quốc Kiện tuy tước là vương, tước của Quốc
Toản là hầu. Nhưng vương là đệ tử của Quốc Toản, nên vương đưa mắt hỏi sư phụ.
Quốc Toản trầm tư, nói với Chiêu Minh vương:
– Thưa chú! Trận Tây kết sau trận Trường yên 5
ngày. Sức lực binh tướng Hàm tử đã phục hồi.Vậy trận Chương dương sau trận Tây
kết mấy ngày?
– Tùy
theo tình hình.
– Thưa chú
như vậy chúng cháu xin chú cho dự trận giải phóng Thăng long.
Thượng hoàng
ban chỉ:
– Chú Quang
Khải phải coi chừng hai cháu Quốc Toản, Quốc Kiện. Khi tái chiếm Thăng long thì
chỉ nên đuổi giặc tới bờ sông Hồng, để cho quân Nguyên chạy sang Gia lâm bằng
cầu phao. Không nên vượt cầu phao đuổi chúng. Vì cầu phao sẽ do Ngạc binh của
Yết Kiêu phá. Hơn nữa thủy quân của đô đốc Võ Văn Sáu sẽ dàn dọc sông bắt bọn
bộ binh bỏ chạy.
Từ lúc khai
hội đến giờ, Hưng Ninh vương không nói gì, bây giờ vị bồ tát mới nói lớn:
– Dã tâm đánh
mình là Hốt Tất Liệt. Ra lệnh chém giết tàn ác là mấy viên tướng. Còn lính
Nguyên phải lăn mình vào chỗ chết là bất đắc dĩ. Khi ta phá tan hàng ngũ, trận địa của chúng, chúng
tháo chạy thì hô lớn: quẳng vũ khí sẽ toàn mạng. Binh lính sẽ quẳng vũ khí,
hàng ngũ chúng sẽ tan. Khi chúng quẳng vũ khí, tuyệt đối không chém giết. Vậy
chư tướng về dậy binh tướng thống thuộc câu quẳng vũ khí sẽ toàn mạng bằng
tiếng Mông cổ, tiếng Hán.
Không thấy Hưng Đạo vương sai mình, quốc công Tạ Quốc Ninh khiếu nại:
– Vương gia! Thần tuy già nhưng công lực hãy còn. Vương gia cho thần tham
dự trận giặc này với.
Vừa nói, công vừa chỉ vào thanh kiếm của phu nhân.
Hưng Đạo vương nháy Tạ công. Khi cuộc họp giải tán, công theo vương vào phía sau trướng với Địa Lô. Vương
nói nhỏ:
– Quốc công lĩnh nhiệm vụ rất quan trọng. Tin của Hoài Văn hầu cho biết 5 ngày
nữa, Thoát Hoan sẽ làm lễ tế thần sông, thần núi rồi cho dựng cột đồng. Vợ của
Thoát Hoan là Ngọc Trí, vợ của Lý Hằng
là Ngọc Quốc sẽ ra bờ hồ Tây dự lễ dựng tháp đồng. Hai cô này sẽ điều khiển các
ca nhi, nhạc công tấu nhạc, làm lễ cúng thần. Công giả làm một thầy bói, xem Tử
vi cho hai cô. Công sẽ làm như thế, như thế...
– Vụ này rất quan trọng, có lẽ thần sẽ đường đường chính chính mời vương
phi của Tháp Sáp Nhi là Thánh mẫu Hồng Liên, vương phi của A Lan Đáp Nhi là
Thúy Nga vào Hoàng thành gặp Ngọc Trí,
Ngọc Quốc, xin sung vào đoàn ca hát này. Không cần giả làm thầy bói.
Địa Lô dặn công:
– Thầy phải cẩn thận, vì Thoát Hoan,
Lý Hằng đều biết mặt cô Hoàng với Thúy Nga, Hồng Liên.
– Thầy hiểu.
Trong thành Thăng long, buổi sáng, cuối tháng tư năm Ất dậu (6-5 đến 4-6 năm 1285). Tên nho sĩ được
Thoát Hoan sai soạn bài minh khắc trên ống đồng đã soạn xong. Tên này là một nho
sĩ Tống hàng Nguyên hồi Nguyên đánh Nhai sơn. Ông ta trao bản văn cho A Lý Hải
Nha. A Lý Hải Nha đọc:
“ Phàm phi thường sự,
Tất hữu phi thường nhân.
Nhược hữu nan sự, vô nhân bất khả thi,
Tắc hữu kỳ nhân khả đạt.
Như
hữu gian thần tặc tử,
Ắt hữu thánh nhân trấn áp.
An Nam trước đây là quận Giao chỉ. Thời
Tây Hán, nhân Vương Mãng làm truyện nghịch thiên bạo địa, vua Quang Vũ khởi binh
trung hưng lập ra nhà Đông Hán. Man dân Giao chỉ nhân Trung nguyên rối loạn, đã
tôn Trưng Trắc lên làm vua. Theo luật trời đặt ra nam tại ngoại, nữ tại nội. Có đâu đàn
bà lên làm vua làm tướng? Gà mái gáy là đềm gở. Vì vậy vua Quang Vũ sai Phục ba
tướng quân, Tân tức hầu Mã Viện; Phiêu kỵ đại tướng quân, Phù lạc hầu Lưu Long;
Lâu thuyền tướng quân Nam an hầu Đoàn Chí đem quân chinh tiễu, chém Trưng Nhị ở
Mê linh, bắt Trưng Trắc ở Cẩm khê. Đó là
phi thường sự, Mã Viện là phi thường nhân.
Phục ba tướng quân đúc đồng trụ, ghi đại
công, đánh dấu chỉ ra rằng Giao chỉ là đất của Thiên quốc.
Trải qua gần nghìn năm, man dân Giao
chỉ luôn nổi loạn, nào Triệu Aåu, nào Lý Bôn, nào Đinh Bộ Lĩnh, nào Ngô Quyền hùng cứ nam phương, ý muốn hướng về Bắc tề vị nhi lập
với Thiên quốc. Nam hán sai Thái tử Hoàng Thao đem quân sang chinh phạt, bị Ngô
Quyền phá trên sông Bạch đằng, bắt Hoàng Thao chặt đầu. Ôi nhục cho Thiên quốc
biết bao? Đó là một nan sự, một thời , nhân bất khả thi.
Khi Tống triều dựng nghiệp tại Trung
nguyên, thì tại An Nam, Lê Hoàn thông dâm với vợ Đinh Bộ Lĩnh, cướp ngôi ấu quân, Tống Thái tông sai bọn Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Trung, Quách Quân Biện, Triệu Phụng
Huân sang chinh tiễu. Bị thất bại ở Chi lăng, Bạch đằng. Tống triều đành ngậm đắng
nuốt cay. Đó là hai nan sự , nhân bất khả thi.
Trải bốn đời, đến đời Tống
Thần tông, dùng Tân pháp của Vương An Thạch; nhân binh hùng tướng mạnh, quốc sản dồi dào,
sai Quách Quỳ, Triệu Tiết, đem quân nghiêng nước sang đánh An Nam. Bị đại bại ở
Như nguyệt, Kháo túc. Tống triều đành nuốt hận làm ngơ.Đó là ba nan sự, nhân
bất khả thi.
Gần đây cha con họ Trần
hùng cứ Nam phương, ỷ binh hùng tướng mạnh, không chịu tuân phục 6 điều từ thời
đức Thái tổ, Hiến Tông hoàng đế sai Thái sư Ngột Lương Hợp Thai sang dạy bảo. Cha con họ Trần dám đem
quân chống trả. Ngột Lương Hợp Thai bị bại ở Đông bộ đầu, Cụ bản, Phù lỗ,
Bình lệ nguyên. Đó là bốn đại nan sự , nhân bất khả thi.
Chí Nguyên hoàng đế thống
nhất Trung thổ, Nhật Huyên sai sứ sang tạ tội, khấu đầu trước sân rồng, niên
niên tu cống. Thiên triều mở lượng trời biển cho họ Trần được tồn tại. Tưởng Thiên
triều nhu nhược, cha con Nhật Huyên tuân theo 5 điều, chỉ có việc vào chầu, nại
lý do bệnh hoạn không đi ngựa được, cử chú là Trần Di Ái thay. Đức Chí Nguyên
bèn phong cho Di Ái làm An Nam quốc vương, thay Nhật Huyên bệnh hoạn. Sai Sài Thung đem quân đưa về. Cha
con Nhật Huyên giết chú, chống binh trời. Đó là năm đại nan sự , nhân bất khả thi.
Chí Nguyên thiên tử truyền
cho ta cùng A Lý Hải Nha, Bôn Kha Đa, Đường Ngột Đải, Giảo Kỳ, Toa Đô, Ô Mã Nhi
đem đại quân chinh phạt kẻ nghịch thần, tặc tử. Ta đã phá binh hùng tướng mạnh
của cha con Nhật Huyên ở Khâu cấp, Nội bàng, Chi lăng, Trường yên, Hoan châu, Ái
châu, đuổi cha con Nhật Huyên khỏi Thăng long, như đuổi chuột. Ta nhân đó đúc
tháp đồng, ghi võ công vào đây, cho muôn đời biết.
Đó là
hữu gian thần tặc tử,
Trời sinh ra ta là siêu phàm nhân trấn
áp.
Niên hiệu Chí Nguyên thứ
23, tháng 4, mùa hạ, ngày 23.
Trấn Nam
vương Thoát Hoan,
Lĩnh đại nguyên soái, chinh
An Nam.
Thoát Hoan đọc đi, đọc lại đến hơn chục lần, rồi đồng ý dịch sang các chữ
Tây tạng, chữ Nãi man, chữ Hoa thích tử mô, chữ Nga
la tư, chữ Ý lợi thì, chữ Đức lan tây,
chữ Pháp lan tây. Truyền khắc vào ống đồng.
Thoát Hoan đem bản văn về cung khoe với Ngọc Trí. Ngọc Trí xin cho nàng với
các phu nhân ra xem dựng cột đồng. Nàng đề
nghị Thoát Hoan sai bọn chân tay Việt gian của Trần Ich Tắc, Trần Tú Hoãn mời
10 vị tăng ở chùa Chiêu thiền (nay là chùa Láng), 10 thầy cúng rồi sắm tam sinh, hoa quả, làm đài
tế thần Nam nhạc, tế Hà bá.
Hôm ấy, buổi sáng, cuối tháng tư . Lý Hằng chuẩn bị xe cộ, Thị vệ hộ tống
Ngọc Trí, Ngọc Quốc, cùng hơn 30 phu nhân các tướng ra dự lễ thần, xem dựng cột
đồng. Chỗ dựng cột đồng nằm bên hồ Tây.
Thoát Hoan dự định đi trước với chư tướng, rồi các phu nhân đi sau.
Vừa lúc đó Thị vệ báo:
– Có vương phi Tháp Sát Nhi, và vương phi A Lan Đáp Nhi cầu kiến.
Thoát Hoan còn đang bỡ ngỡ thì Ngọc Trí đã trả lời:
– Mời vào.
A Lý Hải Nha, Lý Hằng, Lý Quán từng
là tướng dưới quyền chỉ huy của Tháp Sát Nhi, khi ông còn là thân vương tại mặt
trận Tương dương, Phàn thành. Mỗi khi về hội quân, 3 người được Hồng Liên tiếp đãi
ân cần, cho ăn uống. Đến nay họ còn nhớ. Lý Hằng hỏi Thoát Hoan:
– Thưa vương gia, mình tiếp hai vị này bằng nghi lễ vương phi hay hoàng
hậu?
A Lý Hải Nha đáp:
– Tiếp bằng nghi lễ vương phi.
Lễ nghi tất.
Thoát Hoan hỏi Hồng Liên:
– Không biết vương phi tới đây có điều gì dạy bảo không?
Tạ Quốc Ninh dùng lăng không chuyển ngữ rót vào tai Hồng Liên. Hồng Liên
nói theo Quốc Ninh:
– Vương gia ơi! Tôi được tin bọn chân tay của Trần Ich Tắc, Trần Văn Lộng,
Trần Tú Hoãn đã xin đái tội lập công để được triều đình Đại Việt ân xá.
– Chúng lập công bằng cách nào?
– Khi dân chúng nộp lương, chúng trộn thuốc độc vào cho quan quân ăn. Thuốc
độc sẽ làm tiêu chảy, chân tay bải hoải.
A Lý Hải Nha nhăn mặt:
– Hiện chưa có đội quân nào bị trúng độc cả. Tin của vương phi liệu có đúng
không?
– Tôi nghe vậy thì tôi báo cho Thái tử biết vậy. Còn sự thực phải chờ!
Hồng Liên lại tiếp:
– Vương gia! Trong các hoàng tử của hoàng đế Chí Nguyên thì vương gia là người
tài trí bậc nhất, công lao bậc nhất, được sủng ái nhất. Trong triều ngoài trấn đều
hướng về vương gia. Chí Nguyên hoàng đế muốn truyền ngôi cho vương gia, mới sai
vương gia nam chinh để có chiến công. Vương gia lại đang nắm binh quyền nghiêng
nước. Tôi được tin long thể hoàng thượng bất an. Thế mà vương gia còn luẩn quẩn
ở đây thì người kế vị hoàng thượng sẽ là một hoàng tử khác hiện đang ở Yên kinh,
chứ không phải vương gia.
Quốc Ninh đánh đúng vào mối lo ngày đêm của Thoát Hoan. Y hoang mang cực điểm,
nhưng y vẫn nói cứng:
– Phận làm tôi, làm con phải tuân chỉ của đấng quân phụ. Còn ngôi vua thì
phụ hoàng truyền cho ai, người ấy được.
Quốc Ninh biết Thoát Hoan đã trúng đòn. Công đánh thêm một chiêu, rót vào
tai Thúy Nga. Thúy Nga tiếp lời Hồng Liên:
– Thái tử quả là một con hiếu, một tôi trung. Người kế vị phụ hoàng sẽ cảm
thấy thua vương gia về tài, về trí, về công lao. Thưa thái tử. Tước của thái tử
là vương, thái tử cầm quân nghiêng nước chinh tiễu nơi xa. Nếu thắng thì tân
quân vẫn cho thái tử tước vương. Với công lao cao như núi, chư tướng đều xuất
ra ở cửa quý phủ; e sẽ bị những cái lưỡi rắn độc dèm pha. Người Trung nguyên có
câu: cứ vào bếp là thấy 7 gia vị là tiêu, hành, tỏi, ớt, muối, mắm, dấm. Người
ta sẽ thêm gia vị hại vương gia. Bấy giờ thì công vương gia chẳng được hưởng,
mà họa sát thân e khó tránh. Còn như vương gia thất trận thì liệu cái tước vương
có còn không? Hay bị tân quân tống vương gia ra một miền xa xôi hẻo lánh nào đó.(1)
Hồng Liên tiếp:
– Đại vương Tháp Sát Nhi tuy hoăng
rồi, nhưng tôi vẫn quan tâm đến người cũ của vương, nên tới đây thăm thái tử. Chúng
tôi xin tháp tùng thái tử phi, cùng các phu nhân ra dự lễ thần, xem dựng cột đồng.
Thúy Nga lại nói theo Quốc Ninh. Nàng hỏi viên trưởng toán Thị vệ:
– Bây giờ tướng quân định xuất ra cửa nào?
– Thưa vương phi cửa Tây. Vì lò đúc ống đồng ở hồ Tây.
Thúy Nga nói với Thoát Hoan:
– Mông cổ ta ở về phương Tây của Trung nguyên. Phương tây thuộc kim. Kim
sinh thủy mà chúng ta xuất ra phương Tây thì thủy tính được sinh ra, ta sẽ mất
khí lực.
Thoát Hoan kinh ngạc:
– Lý của vương phi thế nào?
– Vậy xin Thái tử cho xuất về phương
nam. Phương nam thuộc hỏa. Kim phải có hỏa mới thành khí. Ta xuất ra cửa nam rồi
vòng qua phương Tây.
Thoát Hoan tỉnh ngộ ban chỉ cho viên chỉ huy Thị vệ:
– Người xuất phát ra cửa nam, rồi vòng sang cửa tây.
Thoát Hoan với các tướng đi trước. Hơn giờ sau đoàn nghi vệ của các phu
nhân mới khởi hành. Ngọc Trí, Ngọc Quốc đi trên một xe do bốn ngựa kéo. Tạ Quốc
Ninh, Hoàng Hoa được mời sang đi cùng xe với hai nàng. Quốc Ninh đánh xe.
Đoàn nghi trượng vừa khỏi cửa nam thì gặp một đoàn kị binh đang phi ngược
chiều. Giáp trụ tả tơi, hàng ngũ lộn xộn; một số thương tích đầy người. Bọn kị binh đang
phi, thấy nghi trượng của Trấn Nam vương, chúng đều tránh sang bên cạnh.
Một thiên phu ghì cương cho ngựa
dừng lại. Nhưng con ngựa bị thương nặng, ngã lăn ra. Viên thiên phu tuy bị thương nặng, nhưng vẫn vọt người đứng
dậy. Ngọc Trí nhận ra y tên là Vĩnh An, gốc người Hán, trước đây y là bách phu
trưởng Thị vệ hầu cận nàng, sau nhờ nàng nâng đỡ y được gửi đi học khóa thiên
phu trưởng. Học xong, nhân Đường Ngột Đải đi đánh Chiêm, y xin Ngọc Trí vận động
với Thoát Hoan cho y theo ra ngoài chinh chiến, để bay nhảy.
Chân tay y run cập cập, hai hàm răng đánh vào nhau lộp cộp. Y nắm lấy cương
ngựa của Ngọc Trí tay chỉ về phía sau:
– Vương phi đi đâu? Quay lại đi thôi! Nguy lắm, giặc đuổi tới nơi rồi.
Trong khi y nói, lớp sóng quân Nguyên bại trận cuồn cuộn đầy đường, y phục
tả tơi, vũ khí không còn vẫn chen nhau chạy. Một người ngã xuống, lập tức bị
lớp người chạy sau giẫm lên. Khoảng 2
khắc sau (30 phút) đám tàn binh đã chạy qua hết, trên con đường trước mặt rải
rác những xác chết, những chiến cụ, quân phục. Vĩnh An đã hoàn hồn. Ngọc Trí
hỏi:
– Sự thể ra sao mà đội quân hùng mạnh, can đảm, kỷ luật nhất của Mông cổ đến
nỗi này?
Vĩnh An thuật:
“Bốn đêm trước, không biết quân Việt đi
bằng đường nào, mà vượt qua 12 đồn đóng xung quanh Trường yên, thình lình nhập
cố cung (2), chúng reo hò, đánh trống, khua chiêng, chém giết lung tung.
Chúng phục ở khu chuồng ngựa, kị binh thức dậy, mặc giáp trụ tìm ngựa thì bị
giết chết. Thành ra kị binh vô dụng. Trong thành quân Việt trương kỳ hiệu. Binh
tướng thấy kỳ hiệu Hàm tử thì kinh hồn động phách, không ai có can đảm chiến đấu.
Dẫn đầu đám binh Hàm tử là con vượn trắng. Nó xử dụng cây côn sắt khổng lồ. Mỗi
chiêu đánh ra là 4,5 người tan xương nát thịt. Đội Thiết đột hộ vệ đánh cảm
tử mới cứu được đại vương Giảo Kỳ, Tả thừa Đường Ngột Đải, chạy về phía bắc Trường
yên, nơi bộ binh đồn trú. Vừa ra khỏi cửa thành thì bị trúng phục binh của quân
Việt kéo kỳ hiệu Hàm tử. Tướng Việt là Hoài Văn hầu chỉ đánh một chiêu khiến Tả
thừa phun máu miệng. Khi y định đánh chiêu thứ nhì thì phu nhân của Tả thừa hét
lên:
– Xin quân hầu dung
tình.
Hoài Văn hầu chuyển
chưởng vào một bách phu trưởng thiết đột. Viên bách phu cùng con ngựa bị bật
tung ra xa, ngực người, ngực ngựa vỡ ra làm ba bốn mảnh. Tả thừa thoát chết quay
lại chiến đấu. Quân Việt không đông, nhưng dữ như hổ như báo; Tả thừa bỏ phu
nhân lại sau, chạy tới khu đóng quân của bộ binh, thì trại bộ binh cũng đang bị
tràn ngập, chen nhau, quẳng vũ khí mạnh ai nấy chạy. Kị binh, bộ binh bị con vượn
rượt theo, bỏ chạy hướng về Thăng long. Nhưng cứ 50 dặm lại gặp phục binh kỳ
hiệu Hàm tử, Tứ thần, nên không ai can đảm chống trả.
Bấy giờ Tả thừa mới
biết, sở dĩ hiệu binh Hàm tử vào thành dễ dàng là do hiệu hàng binh làm nội
phản. Khi Trần Tú Hoãn hàng, Tả thừa chia hiệu binh Tứ thánh ra đóng chung với quân
mình. Bây giờ hiệu binh này làm phản, mở đường cho hiệu Hàm tử vào, cấp mật khẩu cho chúng. Cả hai hợp lại đánh
mình.
– Thế còn đại vương Giảo Kỳ?
– Quân Thiết đột hộ
tống đại vương chạy ra cửa đông thành Trường yên thì đụng phải hai tướng Việt,
một nam, một nữ. Nam đẹp như Phật Thích ca, nữ tướng dáng người thanh lịch. Cả
hai đi đến dâu, đầu Thiết đột bay đến đó. Đám gia nhân của đại vương kinh sợ
quỳ gối lạy xin tha mạng. Nam tướng vẫy tay, quân Việt rẽ ra, thế là đám gia
thuộc theo đại vương chạy về Thăng long.ï
– Người có biết cặp nam, nữ tướng đó là ai không?
– Nghe đám quân Việt
nói đó là vua và hoàng hậu An Nam.
Tàn quân rút về Tây
kết, Tả thừa thu nhập tàn quân, còn hơn 3 nghìn, hầu hết bị thương. Đêm qua
thủy, bộ, kị, ngưu binh Việt tấn công Tây kết. Quan quân trở tay không kịp bị
quân Việt tàn sát, một số vượt cầu nổi sang Gia lâm. Chỉ một số ít thoát thân
về Thăng long. Quân Việt đang kéo về đánh Thăng long“.
Đến đó thì có tên
kị binh từ trong thành phi ra hành lễ với Ngọc Trí:
– Vương gia mời vương phi ra hồ Tây dự lễ ngay.
Ngọc Trí ra lệnh cho đoàn nghi vệ quay vòng sang cửa tây.
Đoàn nghi vệ các phu nhân tới. Các phu nhân được những
cung nữ Việt của Ích Tắc mời lên khán
đài. Tạ Quốc Ninh được mời ngồi trong đám nhạc công. Ngọc Trí nhìn quanh khu
khán đài:
Trên một bãi đất rộng, 4 thiên phu kị binh dàn thành
hàng, ở giữa là một lễ đài cao. Trên đài một đỉnh hương vĩ đại khói bốc nghi
ngút. Bốn góc lễ đài có 40 võ sĩ cầm đao canh phòng. 4 lão Trung, Tây, Nam Sơn
đang phất những cây cờ ngũ sắc làm phép. Quanh lễ đài cắm 180 lá cờ của các
nước chư hầu Nguyên. Trong đó có cờ Đại Việt. Một cột cờ cao cắm cờ Mông cổ
hình con chim bay ngang mặt trời, dưới móc 9 cái đuôi trâu nước. Cạnh lễ đài là
một ống đồng khổng lồ hình nón 3 tầng đã hàn lại với nhau, dây buộc chằng chịt
vào 4 con voi. Chỉ còn chờ hàn tầng cuối cùng, là voi kéo cột đồng dựng lên.
Lộ Giáng Kim Mạnh đến khán đài hành lễ, rồi hướng dẫn Thoát Hoan, A Lý Hải Nha đến xem cột đồng. Ô Mã Nhi đeo kiếm đi sát Thoát
Hoan, phòng bị thích khách như hôm lễ tấn phong Trần Ích Tắc.
Một thiên phu trưởng phi ngựa đến gần lễ đài, thì bị Thị
vệ cản lại. Thiên phu trưởng run run:
_ Cho tôi cấp báo với vương gia hoặc quân sư. Có sự khẩn.
Viên Thị vệ dẫn tên thiên phu tới gần Thoát Hoan, thì Ô
Mã Nhi nạt:
_ Lui ngay. Ta đã bảo dù việc hệ trọng đến đâu cũng chờ
đến sau lễ đã.
Thoát Hoan đọc những chữ khắc trên ống đồng, y hân hoan
đến cùng cực; thì một thiên phu khác phi ngựa tới, nói với Ô Mã Nhi:
_ Cho tôi cáo với vương gia. Giặc chiếm Thăng long rồi.
Ô Mã Nhi lại đuổi y lui lại.
Một chiếc xe 4 ngựa chở tầng cuối cùng của ống đồng tới.
Bốn chiếc xe khác do Lê Tắc điều khiển, trên chở 100
trẻ con khôi ngô. Chúng ngơ ngác, đâu biết rằng sắp bị chôn sống. Thoát Hoan mở
to mắt ra nhìn bài minh khắc bằng chữ Hán thì có tiếng reo hò, rồi từ trong cửa bắc, cửa tây thành Thăng
long, xe cộ, người ngựa ùn ùn chạy ra hướng bờ sông Hồng.
Lộ Giáng Kim Mạnh trình bầy:
_ Khải vương gia, trên đầu và đáy mỗi tầng đều có khớp.
Khi ráp hai tầng lại, các khớp khít với nhau, chắc lắm rồi, chỉ cần nấu đồng
thau đổ lên các khớp là hai tầng hàn lại rất kiên cố.
Ba lão đạo sĩ Trung, Tây, Nam Sơn ra lệnh cho bọn Lê Tắc lùa 100 đứa trẻ xuống hầm đá Bọn trẻ kinh hoảng khóc
thét lên, thì bị túm tóc quẳng xuống.
Tạ Quốc Ninh dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai ba
nàng Ngọc Trí, Ngọc Cách, Ngọc Quốc:
_ Các cháu nhớ
nhé, tất cả các tướng Việt đều được lệnh khi truy đuổi quân Nguyên rằng: phải
tuyệt đối tránh đả thương các cháu. Khi rút chạy, các cháu dùng cờ xanh phất
lên, quay vòng tròn thì quân Việt sẽ không bắn hay chém giết các cháu.
Đến đó có tiếng reo hò, rồi 2 đạo kị binh từ phía tây,
phía nam kéo cờ Việt đang ào ào tiến tới. Từ cửa bắc, một đoàn Ngưu binh đang
reo hò tiến ra.
Thoát Hoan ngơ ngác hỏi:
_ Cái gì vậy?
Hai tên thiên phu cúi đầu:
_ Quân man gồm thủy, bộ, ngưu, kị đông như kiến tràn ngập
Chương dương, Tây kết rồi tấn công vào cửa đông, cửa nam Thăng long. Bọn Đại
đởm xuất hiện trong Hoàng thành, chiếm điện Long thụy, Long an, Giảng võ.
A Lý Hải Nha hỏi:
_ Trong thành có một vạn Thiết đột, sao không chống trả
gì vậy?
_ Ngựa bị trúng độc nằm bẹp trong tầu. Thiết đột chạy bộ
ra cầu phao trốn như chuột. Thăng long bị chiếm rồi.
Ô Mã Nhi dàn 4 nghìn kị binh xung quanh bảo vệ các chúa
tướng. A Lý Hải Nha ra lệnh Thị vệ hộ tống xe các phu nhân ra cầu phao Bắc ngạn
sang Gia lâm. Nhưng đường đi bị binh lính chen nhau chạy chật cứng.
Ngưu binh đã tới.
Lý Hằng nhận ra người điều khiển Ngưu binh là Dã Tượng.
Dã Tượng đứng trên mình trâu, bên phải là Lý Long Đại, bên trái là Vũ Trang Hồng. Dã Tượng vung tay ném một viên đá, miệng hô bằng tiếng Mông cổ:
_ Thoát Hoan! Hôm nay tao ném đá giết mày như giết Mông
ca.
Viên đá trúng tên Thị vệ cạnh Thoát Hoan. Cộp một tiếng cái mũ đồng bị bẹp dúm,
tên Thị vệ văng khỏi mình ngựa đến 2 trượng chết thẳng cẳng. Dã Tượng vung tay
ném viên thứ nhì, Ô Mã Nhi kinh hoảng, y xớt Thoát Hoan bỏ vào cái ống
đồng trên xe.
Dã Tượng phóng tới chụp ba lão đạo sĩ, nắm chân xé toạc
ra làm đôi. Ngưu binh nhảy xuống hầm cứu đám trẻ mang lên.
Ngọc Trí bỏ xe mình, nhảy lên xe chở ống đồng với cây cờ
xanh. Nàng ra hiệu cho Thị vệ hộ tống xe hướng cầu phao sang Gia lâm. Dã Tượng
ném theo một viên đá, trúng ống đồng, bồm
một tiếng chói tai. Thoát Hoan rú lên thất thanh.
– Cha mẹ ơi!
Ngọc Trí biết rõ ràng
rằng Dã Tượng không giết nàng. Nhưng nàng vẫn vờ kêu lên:
– Anh Dã Tượng! Xin dung tình!
Xe tới cầu phao, thì con vượn trắng từ trên cao nhảy xuống
như thiên tướng. Cây gậy sắt vung lên, đánh vào 3 Thị vệ ngồi cạnh ống đồng. Ba
Thị vệ nhảy tránh. Côn trúng ống đồng:
– Cồm, cồm, cồm,
Inh tai, nhức óc. Tai Thoát Hoan bị ù.
Cũng may Bạch Viên bỏ xe, nhảy xuống đánh đám thiết đột.
Xe xuống phù kiều. Dọc phù kiều, 2 hàng chiến thuyền Việt
dàn song song với cầu phao. Thủy thủ trên chiến thuyền đồng hô bằng tiếng Mông
cổ:
Quẳng vũ khí sẽ được
tha chết.
Nghe tiếng hô, lính Nguyên quẳng vũ khí xuống sông. Tên
nào còn cầm vũ khí thì bị bắn chết, bị trúng đao quất ngã xuống. Lính Nguyên
dành nhau chạy trốn, xô đẩy nhau, từng
loạt, từng loạt lộn xuống nước. Nước chảy siết, chúng chỉ quơ tay được mấy cái
rồi chìm nghỉm. Một tướng trẻ, mặt đẹp như ngọc, tay cầm đá hét lớn:
– Ném chết tên Thoát Hoan.
Bồng một tiếng, viên đá trúng ống đồng tóe lửa.
Ngọc Trí nhìn lên thấy soái kỳ có 6 chữ:
Phá cường địch, Báo
hoàng ân.
Thì biết là Trần Quốc Toản. Nàng hét lên:
– Xin quân hầu nhẹ tay cho.
Nhưng viên đá đã trúng ống đồng, bồng một tiếng lớn, viên
đá vỡ tan, một mảnh trúng lưng tên Thị vệ ngồi sau xe, thủng áo giáp. Y chết
tại chỗ.
Xe chạy dọc cầu phao.
Một bách phu theo sau hộ tống Thoát Hoan. Quân Hàm tử chặn
bách phu hộ tống lại. Trần Đại Như Vân múa kiếm như mây trôi, như chớp giật.
Viên bách phu trưởng hướng Như Vân:
– Xin quận chúa dung tình.
Như Vân nhận ra y là thiên phu thuộc quyền của cha mình tên
Đoàn Bình, sau theo hàng Hốt Tất Liệt. Động lòng cố cựu nàng vẫy tay, các chiến
sĩ Hàm tử rẽ ra. Đoàn Bình với bách phu quẳng vũ khí chạy xuống phù kiều.
Thoát Hoan nhìn giòng sông, chiến thuyền Việt dàn ra song
song với hai cái cầu phao, cách nhau hơn 5 dặm. Quân Nguyên chen nhau vượt, ngã
xuống sông bơi lóp ngóp. Chúng bám vào các chiến thuyền, bị thủy thủ Việt bắt
trói lại. Khi xe chở ống đồng sang đến Gia lâm, thì Ngạc binh từ dưới nước vọt lên
chặt cầu phao đứùt làm 2, rồi 4 khúc. Quân Nguyên trên cầu lộn xuống sông. Đám
còn lại liều chết chống với kị binh, ngưu binh Việt. Ngưu binh hô to:
Quẳng vũ khí sẽ được tha chết.
Lính Nguyên quẳng
vũ khí, cởi bỏ giáp trụ, chạy tản vào các làng. Dân quân vác dao, vác gậy bắt
sống. Tên nào còn cầm vũ khí thì bị giết chết.
Xe chở ống đồng lên bờ bắc ngạn.
Lại một tướng trẻ cầm đá ném vào ống đồng hai viên. Bồng, bồng điếc tai, chính thị Hoài
Nhân vương. Một đội Ngưu binh dàn ra chặn mất lối đi. Ngọc Trí đứng trước miệng
ống đồng, che không cho quân Việt nhìn thấy gì ở trong. Gió thồi, váy nàng bay phần phật. Hoài Nhân vương không
nhìn thấy Thoát Hoan. Vương nhìn kỳ hiệu mầu xanh đang quay tròn, biết là Ngọc
Trí. Còn Ngọc Trí nhìn kỳ hiệu biết là Hoài Nhân vương. Nàng phất cờ xanh, hét
lên:
– Xin đại vương tha mạng!
Quốc Kiện vẫy tay, đội Ngưu binh rẽ ra. Xe chạy bon bon trên
đường.
Xe chở ống đồng vừa rời bến Bắc ngạn được 5 dặm. Thì trống
thúc vang dội, rồi hai bên đường, Ngưu binh dàn ra. Các tướng trâu mặt còn non
choẹt, tuồi khoảng 12-13, toàn là con gái. Xen giữa Ngưu binh là một đội cung
thủ bắn vào ống Đồng kêu lên những tiếng cồng, cồng, cồng nhức tai. Con vượn
bạch cầm côn sắt đứng giữa đường. Ngọc Trí đứng trên xe cầm cờ xanh phất lia
lịa. Lập tức cung thủ ngừng bắn. Bọn con gái, gò cương cho trâu dừng lại, chúng
rút những ống tiêu ra thồi vi vu thanh thản. Nhưng con vượn bạch thì cầm gậy
sắt đập vào ống đồng chói tai. Một tướng trâu thổi tù và, con vượn bỏ ống đồng nhảy
xuống đường.
Xe thoát khỏi vòng
vây. Chạy thêm được 4 dặm nữa, Thoát Hoan sờ tay lên cổ hỏi Ngọc Trí:
– Ta còn sống hay chết ? Đây là đâu?
– Vương gia thoát nạn rồi.
Thoát Hoan nắm tay Ngọc Trí:
– Không có nàng xin chúng tha mạng thì ta đã chết về tay Dã Tượng, Quốc
Toản rồi. Còn cái tên hung dữ nhất là Quốc Kiện, ý nhòm vào ống đồng tìm ta.
May váy nàng gặp gió bay, che mất miệng ống đồng. Bằng không y ném đá giết ta
rồi. Thằng Dã Tượng ném những viên đá to, nhưng không mạnh. Hai thằng nhóc Quốc
Toản, Quốc Kiện ném những viên nhỏ, nhưng kình lực mạnh vô cùng, đá vỡ tan ra.
Còn con vượn trắng, thực khủng khiếp, cây gậy sắt khổng lồ của nó đập vào ống đồng
nghe điếc tai.
Y thở dài:
– Vương phi phất cờ xanh, bọn binh tướng Việt còn nể nang. Chứ con vượn thì
không. Nó dữ khủng khiếp. Cái con vượn này của ai vậy?
– Nghe nói của Hoài Văn hầu!
Quân Nguyên thoát thân bằng nhiều ngả, vũ khí không còn,
thân thể xác xơ, đã tập trung quanh xe Thoát Hoan trên nghìn người.
Ngọc Trí bảo chồng:
– Chưa hết nguy
nan đâu. Vương đổi y phục cho một Thị vệ, để tránh nguy hiểm.
Thoát Hoan đổi y phục, nhưng y vẫn ngồi trong ống đồng. Xe
lạch cạch lên đường, được 3 dặm thì trống thúc vang lừng, một đội nữ binh dàn
ra chặn mất đường đi. Ngọc Trí ngạc nhiên thấy ngoài đội binh gươm đao sáng
ngời còn một đội nhạc hơn trăm người. Người chỉ huy là nữ tướng. Ngọc Trí run
run nghĩ thầm:
– Nếu là đội nữ Thị vệ của công chúa An Tư ắt ta toi mạng.
Họ sẽ trả thù cho chúa tướng.
Nhìn kỹ ra thì nữ tướng là Thúy Hồng. Ngọc Trí giả bộ run
sợ xuống xe, cung tay:
– Hôm nay Ngọc Trí cùng đường, A Di Đà Phật, xin Bồ tát mở lòng từ bi mà tha
mạng cho.
Thúy Hồng cười chỉ vào trong ống đồng:
– Chị không làm khó dễ vợ chồng em đâu.
Nàng nói vọng vào trong ống đồng:
– Tôi đến đây để tiễn vương gia, vương phi về Thiên quốc.
Nghe Thúy Hồng nói, Thoát Hoan giận cành hông: rõ ràng y
bị đuổi chạy bán mạng, may nhờ vợ xin với giặc mới được tha, mà Thúy Hồng còn
nói: tiễn về Thiên quốc.
Hai cỗ xe từ sau chạy tới, trên xe kéo cờ xanh. Ngọc Trí nhìn
lại: xe của Ngọc Quốc do Lý Hằng đánh. Xe của Ngọc Cách do Đường Ngột Đải đánh.
Hai tên này giả làm lính đánh xe, mặt bôi đất, than nhom nhem, khó nhận ra.
Đường Ngột Đải run run nói với vợ:
– Đây là lần thứ nhì phu nhân cứu tôi. Lần trước trong trận
Trường yên, Hoài Văn hầu chỉ đánh một chiêu, tôi phun máu miệng bỏ chạy. Hầu đánh
chiêu thứ nhì, phu nhân kêu thét lên xin tha mạng, hầu thu chiêu về. Hôm nay xe
vừa xuống phù kiều thì Yết Kiêu từ dưới sông vọt lên như con cá, tay vung đao,
tôi tưởng mất mạng, may Ngọc Cách phất cờ xin tha. Yết Kiêu không những không
giết mà còn đi theo xe hộ tống chúng tôi tới bờ.
Lý Hằng than:
– Tôi cỡi ngựa cùng 10 kị binh theo xe vợ chạy tới mố cầu
thì đụng phải đội Ngưu binh. Tôi rút đao xung vào trận, thì gặp công chúa Thủy
Tiên. Chỉ 3 chiêu, đao của tôi bị đánh rơi. Thủy Thiên chĩa kiếm vào cổ tôi.
Tôi tưởng mất mạng may nhờ Ngọc Cách xin với công chúa. Công chúa tha cho tôi.
10 kị binh của tôi bị Ngưu binh giết sạch. Ôi tướng Ngưu binh toàn là tụi con gái
12-13 tuổi mà chúng dữ hơn sư tử.
Công chúa Thúy Hồng mỉm cười. Nàng vẫy tay, đội nhạc tấu
bản nhạc chiến thắng của Mông cổ. Rồi một xe chở lợn (heo) quay, gà quay, bánh
chưng, rượu đến. Nữ binh trao cho Thoát Hoan, Lý Hằng, Đường Ngột Đải với đám
tàn quân ăn uống. Thoát Hoan để ý thấy heo, gà, xôi đều là những thực vật của
y, đem tế thần ở bờ hồ Tây.
Ngọc Trí cung tay:
– Đa tạ công chúa dung tình, còn cho ăn.
Thúy Hồng vẫy tay, đội nữ binh dang ra, xe chở bọn Thoát
Hoan lóc cóc lên đường.
Xe đi một quãng thì gặp đoàn Thiết kị Nguyên đi ngược chiều.
Tướng chỉ huy là Lưu Thế Anh. Thoát Hoan chui ra khỏi ống đồng. Y run run, hai
hàm răng đánh vào nhau lộp cộp; nói với Lưu:
– Hôm nay ta với Lý Hằng, Đường Ngột Đải bị nạn, mười phần
chết, nếu không có vợ xin cho thì ta toi
mạng rồi. Thế mà tên mặt dơi Ich Tắc, tên mặt bánh bao Di Ái tố vương phi với phu
nhân Đường Ngột Đải, phu nhân Lý Hằng làm tế tác .
Lý Hằng than:
– Bọn An Nam có tình, có nghĩa hơn bọn Hán. Bọn Hán gặp
những phụ nữ lấy chồng Mông cổ thì giết tàn bạo. Bọn An Nam thì ngược lại gặp
phụ nữ lấy chồng Mông cổ không những không giết, mà còn tha mạng cho chồng nữa!
Lý Hằng nhìn Ngọc Trí:
– Cái tin vương phi Hồng Liên báo rằng bọn tay sai của Trần
Ích Tắc trộn thuốc độc vào lương quả đúng. Lưu Thế Anh vừa cho biết: toàn thể
quân sĩ đồn A lỗ bị trúng độc đi té re, chân tay bải hoải, nên đồn A lỗ bị tràn
ngập.
Thoát Hoan hỏi:
– Tại Tây kết, Chương dương, quân ta đông đến 4, 5 vạn mà
sao bị chúng đánh tan, bỏ chạy như vịt vậy?
– Thưa toàn thể binh tướng bị bệnh, té re, mệt đến không nhắc
nổi chân tay, thì còn sức đâu mà chống giặc? Đau là 6 vạn kị binh chạy lấy người
bỏ ngựa lại.
Thoát Hoan vào tổng hành dinh đạo quân đóng ở Gia lâm. Binh
tướng các nơi từ từ tề tựu về. Thoát Hoan thăng trướng, kiểm điểm lại binh tướng:
– Toàn bộ một vạn binh ở đồn A lỗ chỉ thoát thân được hơn
trăm người.
– 5 vạn bộ binh, kị binh ở Tây kết còn không quá 1 vạn,
– 5 vạn bộ binh kỵ binh ở Chương dương còn hơn 1 vạn,
– 2 vạn quân đóng trong thành Thăng long còn 5 nghìn.
– Các chúa tướng vô sự, tuy nhiên 15 vạn phu trưởng chết hay
bị bắt.
– Các phu nhân, vô sự.
Thị vệ vào báo:
– Khải vương gia, có vương phi của đại vương Tháp Sát Nhi xin cầu kiến.
– Mời vào.
Hồng Liên đi trước, theo sau còn có Tạ Quốc Ninh, Hoàng
Liên, Trần Đại Như Vân.
Lễ nghi tất.
Thấy Thoát Hoan run rẩy, Hồng Liên nói:
– Trận đánh Tây kết, Thăng long, Chương dương, quân Đại
Việt bắt được hơn 1 vạn thương binh. Tôi với vương phi A Lan Đáp Nhi đã xin Thượng
hoàng Đại Việt ân xá cho chúng. Tôi dẫn chúng về đây trả vương gia.
Thoát Hoan ban chỉ cho Lý Quán:
– Người ra tiếp nhận chúng vào trại.
Tướng chỉ huy đạo binh Vân Nam là Nạp Tốc Lạt Đình chỉ vào Tạ Quốc Ninh, Hoàng Liên hỏi:
– Phải chăng hai người từng cầm đầu bọn Cần vương Đại lý đánh nhau với chúng ta hồi 10 năm trước?
Tạ Quốc Ninh cười:
– Trí nhớ của người cũng tốt đấy nhỉ? Dường như người bị
thương ở vai, do bị thanh kiếm của vợ ta đâm trúng phải không?
Nạp Tốc lạt Đình nói với Thoát Hoan:
– Tên này võ công bình thường. Nó có tài dùng binh như thần.,
còn vợ nó là một võ tướng kiếm thuật thần thông. Xin vương gia bắt nó lại.
Thoát Hoan chợt nhớ đến An Tư, y hỏi:
– Võ công phu nhân so với công chúa An Tư thế nào?
– An Tư là sư muội của vợ tôi.
Miệng nói, mà chân tay Thoát Hoan vẫn còn run rẩy, hai hàm
răng đánh vào nhau lộp cộp.
Nạp Tốc Lạt Đình lại chỉ vào Trần Đại Như Vân:
– Dường như người là con gái của phản vương Ngột A Đa?
– Đúng vậy! Hiện
giờ ta là phu nhân của Hoài Văn hầu. Ta cũng như vương phi Tháp Sát Nhi,
vì tình xưa nghĩa cũ, xót cho các binh lính cố cựu, bị cầm tù, bị thương mà đưa
về đây!
Đoàn Bình, là 1 vạn phu trưởng của cánh quân Vân nam chỉ
vào Trần Đại Như Vân:
– Quận chúa! Mới mấy năm xa cách mà quận chúa đã lớn thế
này, đẹp thế này đây. Hồi sáng tiểu nhân cùng 1 bách phu kị binh đang chạy bị
Ngưu binh Hàm tử vây đánh, may nhờ quận chúa nhận ra tiểu nhân, mở đường cho
thoát thân.
Nạp Tốc Lạt Đình chỉ Tạ Quốc Ninh nói với Thoát Hoan:
– Người này có tài trị bệnh, y thuật như thần. Vương gia đang
bị hoảng loạn, có thể nhờ y trị cho.
Hồng Liên nháy mắt, nói với Quốc Ninh:
– Y đạo Đại Việt dạy rằng : dù con thú bị bệnh, cũng nên cứu
nó. Thái tử tuy làm chúa đội binh như hùm, như hổ tàn sát dân chúng, nhưng vẫn
là con người. Xin thầy ra tay tiên.
– Vương phi đã ngỏ lời tôi đâu dám từ.
Thoát Hoan ngồi ngay ngắn lại, để Quốc Ninh chẩn mạch. Hai
giáp sĩ lăm lăm cầm đao đứng cạnh, nếu Quốc Ninh hãm hại chúa tướng lập tức
chúng băm vằm công ra như băm chả ngay.
Sau khi chẩn mạch, xem lưỡi, Quốc Ninh nói:
– Cái chứng kinh hãi, hoảng loạn này từ đời vua Lý Thánh tông, bồ tát Minh Không đã
trị cho Linh Nhân hoàng thái hậu, khi
ngài còn thơ ấu. Hôm đó ngài bị Tể tướng Dương Đạo Gia đe dọa chặt đầu người tình là Dương Tông. Ngài bị hoảng loạn. Minh Không bồ tát đã
chế ra 1 loại thuốc trị cho ngài. Thuốc đó truyền đến nay, tên là Định tâm
hoàn. Tôi đã chế sẵn, hiện mang theo đây.(3)
Công lấy trong bọc ra một bình bằng bạc, rồi mở nắp:
– Đây là những viên tễ, nặng một tiền một viên. Sáng uống
1 viên, trưa 1 viên. Chiều 1 viên. Uống với nước ấm.
Viên y sĩ trưởng trong quân cầm một viên, cắn làm đôi, rồi
ngửi ngửi:
– Thuốc không có độc. Vương gia dùng được.
Thoát Hoan cầm một viên bỏ vào miệng nhai. Y gật đầu:
– Thuốc thơm, ngọt thực. Công phu bào chế không dễ dàng.
Liệu một hộp này có đủ trị dứt bệnh không?
Tạ Quốc Ninh trao cho y 2 hộp nữa:
– Chỉ cần 3 hộp là đủ. Nếu sau khi dùng hết 3 hộp mà Thái
tử chưa khỏi bệnh, xin gửi sứ giả sang. Tôi xin chế thêm dâng Thái tử ít trăm hộp.
Ngọc Trí cất 3 hộp thuốc vào cái bọc đeo bên hông, rồi hỏi:
– Y sư! Khi dùng thuốc này có cần kiêng gì không?
– Vương phi quả là người minh mẫn. Thưa vương phi, về ẩm
thực kiêng rượu, nước trà, ớt, tiêu, hành, tỏi. Về công việc, tránh ưu tư quá độ.
Kiêng làm việc xác quá đáng.
Hồng Liên cáo từ. Thoát Hoan hô tả hữu đứng dậy tiễn khách.
Y nói với Tạ Quốc Ninh:
– Không biết cô gia phải tạ y sư thế nào đây?
Hồng Liên cười:
– Cũng dễ thôi. Nếu mai này Thái tử lên ngôi cửu ngũ, xin
để cho Đại Việt yên.
Thoát Hoan cầm mũi tên bẻ làm đôi:
– Trước chư thần linh Đại Việt xin thề:
“ Nếu sau này được lên ngôi
Cửu ngũ, Thoát Hoan xin thề vĩnh viễn không đem đánh Đại Việt. Nếu sai lời sẽ
như mũi tên này“.
Y trao cho Tạ Quốc Ninh một nửa mũi tên. Y giữ một nửa.
–––––––––––––––––––––––––––––––––
(1). Những lời Hồng Liên, Thanh Nga nói tuy do Địa Lô, Tạ
Quốc Ninh xếp đặt, để làm nản lòng Thoát Hoan, gây cho Thoát Hoan muốn rút
quân, để trở về tranh ngôi vua. Nhưng ứng nghiệm kỳ lạ. Sau khi bị bại lần thứ
nhì Thoát Hoan trở về bị bệnh thần trí nặng, bị Hốt Tất Liệt đuổi ra Dương
châu, không bao giờ nhìn mặt. Hơn nữa Hốt Tất Liệt bỏ ý định truyền ngôi cho.
Khi Hốt Tất Liệt băng, triều đình tôn thái tử Chân Kim lên ngôi vua. Chân Kim
ban chỉ đình việc đánh Đại Việt.
(2). Trường yên: tỉnh lỵ Ninh bình ngày nay. Hồi 968-1010 tên là Hoa lư, từng là kinh đô của
triều Đinh, rồi triều Lê. Đến năm 1010, vua Lý Thái tổ mới dời đô ra Thăng
long. Thời Lý, Trường yên là nơi đặt Tòa Tổng trấn Nam thùy của Đại Việt. Sang
triều Trần (1225) Tòa Tổng trấn Nam thùy mới di vào Ái châu (Thanh hóa). Tuy
không còn là kinh đô, nhưng những công trình, dinh thự cho đến nay (1286) vẫn
còn nguyên: các cung điện của vua, hoàng thành vẫn khang trang trang. Khi bọn
Trần Văn Lộng đầu hàng Nguyên, thì Thân vương Giảo Kỳ, đóng trong hoàng thành, Tả thừa Đường Ngột Đải đóng
trong thành. Hữu thừa Toa Đô đóng tại Thanh hóa.
(3) Định tâm hoàn.
Phương
thuốc rất cổ, lưu truyền tới ngày nay (2010). Chúng tôi thường dùng với tên
« Kiên não định thần hoàn», rất hữu hiệu.
Dưới
đây tôi ghi thành phần, cạnh ghi thêm tiếng La-tinh, để quý đồng nghiệp dễ tra
cứu:
Đương-quy
(Angelica sinenis) 10%, Táo-nhân (Semen zizyphi) 16%
Thung-dung
(Caulis cistanchis) 8% Bách-tử-nhân (Semen biotae) 6%
Thiên-ma
(Rhizoma gastrodiae 4% Viễn-chí nhục (Polygala) 4%
Hồ-đào
nhân (Walnut Kernels) 8% Đởm Nam-tinh (Bile rhizoma arisaematis) 4%
Xương-bồ
(Rhizoma calami) 4% Cam kỷ-tử (Fructus lychii)
8%
Hổ-phách
(Succinum) 4% Long-xỉ (Fossilia dentis mastodi) 4%
Ngũ-vị
tử (Fructus schizandae) 20%.
Cộng 13 vị, chế thành tễ, hoặc viên nhỏ.
Hiệu-năng,
chủ trị:
Kiên não (Đầu óc hoang mang, lo nghĩ vẩn vơ,
sở hãi vô lý hoặc có lý)
Trấn-tĩnh
(Kinh hãi, bị đe dọa, bị khủng bố tinh thần, lo nghĩ trước khi thi, hoặc sắp
phải đối diện với những khó khăn).
An
miên (Giúp cho ngủ ngon. Nhưng đây không phải là thuốc ngủ).
Ích-trí
(Bồi bổ trí nhớ. Người già hay quên. Sau khi bệnh mất trí nhớ. Giúp sinh viên,
học sinh học bài mau thuộc, nhớ lâu).
Dụng
pháp, dụng lượng:
Dùng
thêm mật ong chế thành viên nhỏ, hoặc tễ.
-
Người già hoặc người bệnh mất trí nhớ, sinh viên học thi: ngày ba lần, mỗi lần
3g.
-
Thần kinh suy nhược: sáng 4,5g. Trưa 4,5g. Chiều 6g.
-
Trấn-tĩnh: ngày 3 lần, mỗi lần 6g.
Cấm-kị: Không. Dùng lâu không hại.
Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét