HỒI
THỨ MỘT TRĂM LẺ HAI
Đại hội Diên Hồng
Chiêu Minh vương
nhắc lại chủ đích của buổi họp.
Nhân Huệ vương
hỏi:
– Thần nghe, từ
sau khi Vũ Uy vương trợ Tống trở về, vương lo lắng vì hệ thống Tế tác gồm 12 mỹ
nhân gửi sang Mông cổ, có thể bị lộ. Bấy giờ Thượng hoàng mới lên ngôi. Thượng
hoàng ban chỉ rằng tất cả thư tín hệ thống Tế
tác gửi về Bắc cương. Chính Vũ Uy vương nhận, rồi gửi về triều, rồi
chính Thượng hoàng nhận.
Thượng hoàng trả
lời:
– Đúng vậy, khi
Vũ Uy vương sang Tống làm vua Kinh hồ, thì thư tín gửi về Khu mật viện Kinh hồ.
Rồi khi Tống mất, Vũ Uy vương sang Nguyên lĩnh ấn Trấn Tây đại vương, thì việc này
trao cho Dã Tượng, Địa Lô. Lúc vương rời Kinh hồ thì là lúc tin của Bạch Liên
và Hồng Nga báo rằng có hai thân vương làm gian tế cho Nguyên để xin được phong
cho làm An nam quốc vương. Vụ này để
Trung lang tướng Địa Lô trình bầy.
– Hốt Tất Liệt
giữ kín không cho ai biết danh tính hai vương này. Trong hồ sơ mật, Hốt Tất
Liệt ghi tên hai vương này bằng dấu vuông, tròn. Khi Quốc Toản từ Trường sa về
nước, vương phi Ý Ninh đã gửi hai mảnh lụa, mang bút tích của 2 con rắn độc này.
Nên khi Quốc Toản tới Tiên yên thì bị bắt cóc, mong tiêu hủy hai mảnh lụa. Cuối
cùng chính Hoài Văn hầu cũng biết một trong hai gian vương là Trần Di Ái. Từ
hồi ấy đến giờ tất cả thư tín, chỉ dụ của triều đình cho Tế tác đều chuyển qua
Bắc cương, chứ không chuyển về Khu mật viện. Còn gian vương thứ nhì thì chưa
tìm ra.
Địa Lô ngừng một
lát rồi tiếp:
– Tin mới nhất,
Hốt Tất Liệt triệu hồi tất cả tướng sĩ
An nam hành tỉnh về Đại đô, cho ăn yến, hứa thăng chức tước sau khi đánh
An nam. Y còn hứa xa xôi rằng nếu Thoát Hoan thắng trong trận này sẽ được
truyền ngôi vua. Trong bữa tiệc, Hốt Tất Liệt ban chỉ thị cho Thoát Hoan:
– Hồi Thái tổ
Thành Cát Tư hãn chinh Tây chỉ có 30 vạn quân. Nay đánh An nam là một nước nhỏ
bé, mà quân số lên tới 50 vạn; thì phải thắng, không thể để bại.
– Đánh phương
Tây, tiếp tế khó khăn, đường xa diệu vợi. Nay An nam với Trung
nguyên kề cận nhau. Núi liền núi, sông liền sông. Đường chuyển quân, vận lương
dễ dàng. Thì không lý gì không thắng.
– Tuy nhiên An nam
là nơi rồng nằm hổ phục. Dân An nam thường hay chia rẽ, chửi nhau, cãi nhau. Nhưng
khi chống ngoại xâm thì chúng bỏ tỵ hiềm, cùng cầm vũ khí giữ nước. Thời Tống Thái
tông sai bọn Hầu Nhân Bảo sang đánh đã bị bại. Thời Tống Thần tông, bọn Quách
Quỳ, Triệu Tiết thống lĩnh trăm vạn binh, rồi cũng bị phá. Bây giờ đích thân
hoàng tử cầm quân, thì không được thua. Khi xuất trận phải nhớ mười điều:
Thứ
nhất, Người Việt rất giỏi thủy chiến, bọn
vua chúa họ Trần xuất thân làm nghề đánh
cá, chúng là những người vô địch thế gian về Thủy chiến. Tuyệt đôi không được
dùng thủy chiến với chúng.
Thứ nhì, bọn
An nam thường dùng đàn bà, thầy tu, trẻ
con làm tướng. Phải nhớ rằng những bọn đó ắt
có biệt tài mới được cầm quân. Đối trận với chúng phải cẩn thận lắm. Đời
nào chúng cũng có những tăng ni, nữ tướng kiệt hiệt.
Thứ ba, An nam không có
thành quách kiên cố. Là xứ thấp nhiệt, mưa nhiều, đồng lầy, sông lạch chằng
chịt. Không có những khu đất khô để đóng quân, để dàn trận. Chúng thường phân
tán thành những toán nhỏ, rình khi ta không đề phòng thì tấn công, rồi bỏ chạy.
Ta đuổi theo thì bị giẫm phải chông, sa xuống bùn lầy. Chúng gây cho quân ta
mệt mỏi. Rồi thình lình tập trung đánh vào khu đóng quân.
Thứ tư, mỗi làng, mỗi xóm
của chúng thường là khu đất cao, nhô lên khỏi vùng đồng lầy. Đường vào chỉ có
một lối đi xuyên qua. Lối đi hẹp chỉ một hai người vào được. Muốn tấn công thì
một hai người sao vượt qua cổng? Còn xung quanh bao bọc bởi những lũy tre cao,
dầy đặc. Ngoài lũy tre là hào sâu, dưới hào chúng gài chông. Muốn đánh phải
dùng bộ binh lấp hào, phá lũy tre. Chúng ở trong dùng cung tên bắn ra. Khi mình
hy sinh phá rào vào thì chúng ẩn nấp trong các bụi cây, trong các căn nhà. Quân
phải lục soát đánh chiếm từng nhà. Nếu thấy yếu thế, chúng rút sang làng khác.
Rút cuộc mình chiếm được một làng vườn không nhà trống.
Thứ năm, Khi
ta đánh phương Tây, Trung nguyên, Tây tạng,
Đại lý, Liêu, chỉ cần chiếm được thành, rồi ban lệnh cho các bộ thuộc, làng xã nộp lương thảo là ta
có lương ăn, có người cắt cỏ, chăn ngựa. An nam thì không thế. Lương thực của
các làng rất ít. Mà chiếm các làng cực khó khăn. Chúng không chịu nộp lương. Mà
có nộp thì cũng trộn thuốc độc cho quân ăn, cho ngựa bệnh. Vì vậy ta phải vận lương
sang. Vận lương cho năm mươi vạn người, số lao binh lên đến con số mấy chục vạn. Lương từ vùng Hồ
Quảng sang đến An nam, phu đi ít ra là
một tháng. Thành ra số lương chúng mang đi,
chính chúng ăn hết một nửa. Aáy là không kể dọc dường phu bỏ trốn, hoặc bị quân
An nam phục binh đánh cướp.
Thứ sáu, khí hậu An nam
vốn thấp nhiệt, lam chướng gây cho quân, cho ngựa bệnh. Người ngựa chết vì lam
chướng nhiều hơn là chết trận. Khắp nơi, muỗi, mòng như ong. Chúng đốt người, đốt
ngựa, gây bệnh sốt rét ngã nước. Vì vậy ta phải tốn tiền làm màn cho quân, cho
ngựa, tốn kém không phải là ít.
Thứ bẩy, trước
đây mỗi khi Trung nguyên đem quân đánh An nam, thường được các bang hội người
Hoa nổi lên làm nội ứng, làm Tế tác cho. Nay ta không được cái may đó. Hồi Ngột
Lương
Hợp Thai đánh An
nam, đem theo những đội võ sĩ Trung nguyên. Khi
quân tới Thăng long, người Hoa nổi lên làm nội ứng. Nhưng sau đám võ sĩ ngưởi
Hoa làm phản, kéo theo bọn Hoa kiều trở giáo đánh lại quân mình. Mới đây khi
Tống bị diệt, tàn quân Tống chạy san,g An nam xin kiều ngụ. Bọn An nam thu nhận,
tổ chức thành ba hiệu binh Thiệu Hưng, Tường Hưng, Văn Thiên Tường. Bọn người
Hoa ở đất Việt sát cánh với dân Việt. Phải tối đề phòng bọn người Hoa.
Thứ tám, các
triều đại trước, khi khởi binh đánh An nam, thường phong chức
tước cho Chiêm, sai Chiêm đánh vào phía Nam lãnh thổ chúng. Ta đã nhiều
lần sai sứ chiêu dụ Chiêm. Chiêm không theo. Năm năm trước, ta sai bọn Toa Đô đem
quân đánh Chiêm. Bọn An nam giúp Chiêm 500 chiến thuyền, 5 vạn quân, vì vậy Toa
Đô không thành công. Nhưng Toa Đô còn trấn đóng ở Chiêm. Khi ta tiến vào An
nam, Toa Đô sẽ đánh vào phía Nam của chúng.
Thứ chín, Hồi
năm Chí nguyên thứ 18 (1281), ta đã tổ chức An nam tuyên úy ty, sai Bốc Nhan
Thiết Mộc Nhi (1) làm An nam tuyên úy sứ,
đô nguyên soái, Sài Thung, Hốt Kha Nhi làm phó (2) sang An nam, cai trị.
Bốc Nhan Thiết Mộc Nhi lập phủ trị, bổ nhiệm, tuyển mộ quan lại. Bọn vua An nam
không nhận, đuổi về. Ta sai sứ sang bắt đích thân quốc chủ vào chầu, chúng không
tuân, nói rằng bệnh hoạn không cỡi được ngựa. Chúng cử chú là Trần Di Ái sang
thay. Từ lâu ta tiếp được biểu của hai thân vương An nam. Chúng tình nguyện làm nội ứng khi ta tiến quân
vào. Chúng xin dược ta phong cho làm An nam quốc vương. Biết Tế tác An nam rất
giỏi, rất tinh vi, nên ta không bao giờ tiết lộ tên hai người này. Cả hai từng
gửi nhiều tin tức về triều đình An nam, về tình hình tổ chức binh bị của chúng.
Một trong hai tên chính là Trần Di Ái. Y
là chú của vua An nam. Khi y được cử
sang chầu thay cháu. Ta đã phong y làm An
nam quốc vương. Hai bồi sứ là Lê Tuân, Lê Mục.
Ta đã phong cho Lê Tuân làm Thượng thư lệnh, Lê Mục làm Hàn lâm học sĩ . Lại sai Sài Thung đem một
Thiên phu hộ tống về nước. Bọn An nam
dùng bọn Cần vương Tống phục ở Đại giáp,
giết chú, bắn mù mắt Sài Thung.
Thứ mười, ta trao cho con sắc phong sẵn. Khi con sang An Nam, tên thân vương thứ nhì sẽ cùng bộ thuộc nổi lên giúp
con. Con ban sắc chỉ cho y, rồi sai làm lễ tấn phong y làm An nam quốc vương,
giúp y tổ chức triều đình, sai y đem bản bộ quân mã đánh lại bọn triều đình của
chúng. Đợi khi bình định xong An nam, con đặt Tuyên phủ ty cạnh triều đình mới.
Đừng vội đặt quan cai trị ngay.
Sau khi Địa Lô
trình bày xong, Thượng hoàng hỏi:
– Trước tình thế như vậy, chư khanh đừng tỵ
hiềm gì, cứ phát biểu thực ý nghĩ của mình, để chúng ta cùng bàn kế giữ nước.
Yết Kiêu tâu:
– Qua tin tức
này, thì thần thấy ba điều: một là Hốt Tất Liệt cương quyết phải đánh mình bằng
bất cứ giá nào. Chủ ý đánh mình đã có từ lâu. Thượng hoàng đã nhận ra dã tâm đánh
Chiêm của Hốt Tất Liệt là chuẩn bị đánh Đại việt, nên đã giúp Chiêm. Hai là
Nguyên triều biết rất rõ tình hình nước ta. Ba là cuộc ra quân này của Nguyên được
chuẩn bị rất chu đáo, kỹ lưỡng. Họ quyết đánh bằng được, chứ không phải như lần
trước.
Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc nói
lớn:
– Thiên Kình đại
tướng quân luận đúng. Chúng ta có hai con
đường đi. Một là chịu các điều kiện Nguyên đưa ra : cho họ mượn
đường đánh Chiêm, cung đốn lương thảo cho họ. Hai là đem toàn lực ra đánh lại
50 vạn quân như hùm như hổ của họ.
Dã Tượng phát biểu :
– Nguyên đánh Chiêm chỉ với mục đích làm
bàn đạp đánh mình bằng hai mũi : bắc và nam. Bởi đánh Chiêm không được, họ
đành trực diện đánh mình. Họ xảo quyệt nói rằng ra quân vì Chiêm, không phải vì
Đại Việt. Bây giờ mở cửa cho họ đem quân vào nước mình, thì không khác gì quỳ
gối, bưng đất nước dâng cho họ.
Chiêu Quốc vương tiếp :
– Tình hình giữa ta với Nguyên bây giờ
không phải như thời Nguyên phong. Thời Nguyên phong, đánh mình là thân vương Hốt Tất Liệt. Bấy giờ Mông cổ còn
phải đối đầu với Tống, với Liêu. Bây giờ Nguyên bao gồm cả Mông cổ, cả Trung
nguyên. Nguyên là một nước lớn chưa từng
có. Lớn gấp 10, gấp 100 Tống. Không cần nói đâu xa, chỉ nhìn ngay trước mắt,
bao gồm Trung nguyên, Tây tạng, Hồi cương, Bắc liêu, Tây hạ, Mông cổ. Lịch đại
các triều Đinh, Lê, Lý dù mình mạnh, dù
mình thắng, cuối cùng cũng phải quy phục nhận sắc phong, niên niên tu cống để được
yên. Tại sao ta không chịu một vài điều kiện của họ để trăm họ yên vui. Với năm
mươi vạn quân tràn vào nước mình, chúng tàn phá, chém giết, số người chết lên
tới trăm vạn chứ không phải một vạn hay mười vạn. Dù mình có thắng, thì chúng lại
kéo năm mươi vạn khác sang. Cuối cùng nước mình chỉ còn là bãi đất hoang. Ở đây
có Trung Thành vương, Trung
Nghĩa
vương, từng cầm quân Mông cổ, xin cho biết ý kiến.
Trung
Thành
vương đưa mắt cho Ngột A Đa. Ngột A Đa nói:
– Đa tạ Chiêu Quốc vương đã tín nhiệm,
hỏi ý kiến tôi. Vì tôi nói tiếng Việt không sõi, xin để vợ tôi nói thay.
Vương nói gần một khắc bằng tiếng Mông cổ
với vương phi. Vương phi Thanh Nga dịch lại:
– Nếu chúng ta chịu cho Nguyên mượn đường đánh Chiêm thì coi như
triều đại Đông a không còn nữa.
Cử tọa cùng bật lên tiếng ồ!
Chiêu Quốc vương than:
– Đâu đến nỗi. Bất quá họ đặt Tuyên phủ
ty bên cạnh triều đình Việt là quá.
Ngột A Da lại nói. Thanh Nga dịch tiếp:
– Tôi từng làm phó Tể tướng Mông cổ một
thời gian. Tôi biết tất cả sách lược của họ. Tôi xin vì Đại việt mà nói. Có tất
cả 125 nước chịu thần phục Mông cổ. Lúc đầu
Mông cổ bắt chịu 6 điều kiện. Trong đó có điều phải nhận Đạt Lỗ Hoa
Xích. Cái
đoàn Đạt Lỗ Hoa Xích
khởi thủy chỉ gồm mươi người, rồi
dần dần tăng lên vài trăm người. Bất cứ việc gì của triều đình họ cũng xen vào.
Họ bắt bẻ đủ thứ.
Cử tọa cùng gật đầu công nhận lời A Đa
nói đúng.
– Đại
việt đã bị Đạt Lỗ Hoa Xích gây đủ thứ rắc rối rồi phải không?
Tiếp theo họ công khai tuyển người địa phương bổ nhiệm vào các cơ sở của họ.
Những người này triều đình không được phép xử tội, dù chúng cướp của giết người.
Đạt Lỗ Hoa Xích tổ chức các toán Thị vệ. Dần
dần, họ nắm quyền cai trị. Bấy giờ triều đình Mông cổ mới triệu hồi Đạt Lỗ Hoa
Xích
về, giải tán sứ đoàn, thành lập Tuyên phủ ty. Người đứng đầu Tuyên phủ ty là Tuyên
úy sứ, quyền hành như một ông vua, có
toàn quyền cách chức, bổ nhiệm các Thượng thư, An phủ sứ, tướng cầm quân. Sau khi
Tuyên phủ ty đã vững mạnh, triều đình Mông cổ truất phế vua chư hầu, phong cho
con em làm vua, gửi sang cai trị. Xa đâu không nói làm gì. Gần đây: Đại lý bị xóa bỏ, thành một tỉnh Vân nam. Thổ phồn
bị biến mất thành tỉnh Tây tạng. Cả hai
nơi đều không còn triều đình nữa mà tất cả được cai trị bởi một thân vương
Mông
cổ là Tây tạng vương, Vân nam vương. Nếu mình chịu cho quân của Thoát Hoan vào
nước. Việc đầu tiên họ truất phế vua mình, lập một thân vương
Việt
làm vua bù nhìn. Dần dần họ sẽ cử một thân vương
Mông
cổ sang làm An nam vương, với một hệ thống quan lại người Nguyên, người Mông
cổ. Vì vậy tôi mới nói: triều đại anh
hùng Đông
a không còn nữa.
Ngột A Đa lại nói, Thanh Nga dịch lại:
– Đánh! Thà đánh bị thua mà chết còn hơn
cúi đầu lệ thuộc. Lệ thuộc họ rồi đến tiếng nói cũng không còn. Đến cúng giỗ tổ
tiên cũng không được. Trai tráng bị xung quân, đi đánh các nước phương xa.
Nhân Huệ vương
Trần
Khánh Dư phát biểu:
–
Thôi không bàn việc chiến hay hòa nữa. Phải đánh. Đánh thì hy vọng sống
còn. Hàng thì không khác gì thắt cổ tự tử. Ta chỉ bàn việc phải đánh. Đánh như
thế nào mà thôi.
Cử tọa đưa mắt nhìn Hưng Đạo vương.
Hưng Đạo vương phát biểu bằng giọng nhẹ
nhàng:
– Ta không còn kéo dài thời gian được nữa.
Ta không thể tu cống, nhún nhường nữa. Phải đánh thôi. Lần này ta chia làm ba giai
đoạn.
Giai
đoạn một, ta đánh
mấy trận để chúng biết ta không hèn. Đánh cản đường tiến quân của chúng. Đánh
xong ta rút lui, ẩn vào dân chúng, để cho địch tiến về Thăng long. Khi địch tiến,
những đạo quân rút, lại trở về chỗ cũ. Làng xã, trang ấp vẫn của ta.
Giai đoạn hai, sau các trận đánh cản đường
ta phải rút thực nhanh, tránh mũi nhọn của chúng. Đợi chúng vào sâu trong nước,
bị lam chướng, bị muỗi mòng, bị khí hậu nóng bức làm cho người, ngựa mệt mỏi. Ta
đánh tỉa, làm hao sức lực của chúng, hao
quân số. Trong khi đó ta lại đánh chặn đường vận lương, khiến chúng phải trải
rộng quân giữ an ninh trục lộ, ta dễ dàng tập trung quân đánh chúng.
Giai
đoạn ba, khi
thấy thời cơ chín mùi, ta chuyển sang thời kỳ phản công. Quét từng khu một.
Nhân Huệ vương tiếp:
– Dù ta lùi, nhưng lợi dụng sở đoản của
chúng, sở trường của ta. Ta cần chủ động về Thủy quân, để di chuyển quân, để
chặn đường tiếp vận bằng thủy quân. Từng làng, từng xóm, lợi dụng địa thế lầy
lội, sử dụng Ngưu binh, để giữ lương thảo. Tôi đề nghị như thế này.
Cử tọa im lặng. Nhân Huệ vương tiếp:
– Trong ba đường tiến quân của chúng. Ta
cần chia quân thành những Vệ, đóng đồn. Đồn là những xóm có lũy tre, sách, mương,
hào. Đểà chúng phải chia quân đánh mệt mỏi. Cái gương Phù lỗ, Cụ bản thời
Nguyên phong còn đó. Tuy nhiên khi thấy đồn không giữ được, thì phải âm thầm
rút sang xóm, ấp khác để bảo toàn lực lượng. Khi chúng vào làng, thì chỉ thấy vườn
không nhà trống. Chúng sẽ bỏ đi. Ta lại trở về. Nếu chúng ở lại, mình quen địa
thế, đêm đêm khấy rối, không cho chúng yên.
Cử tọa cùng gật đầu tỏ ra đồng ý. Vương
tiếp:
– Khi ba mũi của chúng bắt tay nhau tại
Thăng long, ta dùng Thủy quân, chuyên chở, tập trung quân chặn các vùng chúng đã
đi qua. Cắt toàn bộ đường vận lương của chúng. Thế bắt buộc chúng phải đem quân
quay trở lại nhổ các chốt. Ta lại tập trung quân đuổi theo. Cứ như vậy, cái
vòng lẩn quẩn khiến chúng mệt mỏi. Rồi chờ chúng sơ hở ta phản công.
Thượng hoàng hài lòng:
– Trẫm nhắc lại, Tiết chế, tổng lĩnh binh
mã là Hưng Đạo vương. Hưng Đạo vương sẽ lưu động chỉ huy. Trẫm cử Nhân Huệ vương
làm Phó Tiết chế, trấn thủ toàn bộ lãnh hải. Chiêu Văn vương trấn thủ Tây bắc cương.
Hưng Ninh vương trấn thủ vùng Đông Bắc cương. Chiêu Quốc vương tổng trấn Thăng
long. Tĩnh Quốc vương trấn thủ Nam thùy. Trước kia, công chúa Thủy Tiên phụ
trách bảo vệ cung quyến. Bây giờ phò mã Phạm Ngũ Lão với hiệu Tả Thánh dực trấn
tại biên giới Chi lăng, công chúa Thủy Tiên được điều lên phụ giúp phò mã. Việc
chỉ huy đội nữ Thị vệ trao cho công chúa An Tư. Việc trấn thủ các
sông ngòi, đánh phá không cho giặc vượt sông, chuyên chở trên sông cực kỳ quan trọng,
vậy Thiên kình đại tướng quân Yết Kiêu trao hiệu Thiệu Hưng cho Quốc công Triệu
Nhất. Thiên Kình đại tướng quân trở lại tổng chỉ huy lực lượng Ngạc ngư. Trước
kia thống lĩnh Ngưu binh là Dã Tượng. Khi Dã Tượng đi sứ thì trao cho Đô thống Lê Linh Anh. Từ ngày Quận chúa Lê Linh Anh tòng phu sang Cao Ly trẫm cử Ngưu vệ thượng
tướng quân, Nam thiên bá Lý Long Đại, vợ
là Quận chúa Cái Hồng Vũ Trang Hồng tạm quyền.
Nay bổ nhiệm thực Tổng lĩnh.
Thượng hoàng hỏi:
– Có ai muốn góp ý
gì không?
Khâm Từ hoàng hậu
tâu:
– Phụ hoàng cử cô An Tư Tổng lĩnh đạo
nữ Thị vệ thần nhi e có điều đáng ngại!
– Con với An Tư, cô
cháu như bóng với hình. Một bên là chúa hậu cung, một bên là Tổng lĩnh đạo binh
nữ Thị vệ Mê linh, thì hợp nhau như tay phải, với tay trái. Có gì mà con ái
ngại?
– Tâu về võ công thì
hiện con với Thủy Tiên đều không thể sánh với cô An Tư. Về tài dùng binh thì cô An Tư không thua công
chúa Thánh Thiên thời vua Trưng. Nhưng thần nhi ái ngại ba điều. Một là cô An Tư quá đẹp. Hồi cô ở
Trường sa với chú Vũ Uy. Cô đã xuất hiện đấu lý với Thoát Hoan. Y bị thua. Tuy
y thua, nhưng y đã thốt ra rằng cô An Tư là tiên nữ
giáng trần. Bất cứ giá nào y cũng phải bắt bằng được. E kỳ này y sẽ dùng toàn lực
phá đạo Mê linh, bắt cô An Tư.
Hai là cô An Tư tuy tuổi
còn nhỏ, nhưng vai vế ngang với phụ hoàng, tính khí quá cương cường. Trong
hoàng cung, khó ai nói cho cô nghe. Thần nhi tuy là
chúa hậu cung, nhưng không dám dùng quyền với cô. Ba là cô đã nhân Vạn Kiếp
Tông bí truyền thư, chế ra một lối vận đông chiến. Khi gặp giặc đuổi đến cùng,
diệt cho tuyệt. Như vậy dễ bị thất bại.
Công chúa An Tư
xua tay:
– Khâm Từ với cô
tuy hai mà là một. Cô tuy là cô, nhưng vẫn là công chúa. Trong khi Khâm Từ là
cháu dâu, nhưng là hoàng hậu. Cô phải tuân chỉ của Khâm Từ chứ! Có bao giờ cô
dám lấn quyền Khâm Từ đâu?
Thượng hoàng quay
lại nói với Thái hậu:
– Dễ! Dù An Tư cương
cường đến đâu cũng phải chịu quản chế của hậu. Liệu hậu có bảo đảm rằng hậu
quản chế được An Tư không?
Thái hậu mỉm cười:
– Phải công nhận
là An Tư cương cường, nhưng từ xưa đến giờ An Tư luôn ngoan ngoãn với thiếp. Chị
dâu em chồng chưa có gì bất đồng ý kiến. An Tư tuy có tài, nhưng cũng có đức.
Cứ như trận đánh Đại giáp vừa rồi, An Tư là cô Quốc Toản, mà khi ra trận An Tư
tuân lệnh Quốc Toản răm rắp.
Hưng Đạo vương
mỉm cười nói với Khâm Từ hoàng hậu (là con gái
ngài):
– Trong nhà mình
từ xưa đến giờ các vị nữ lưu thường đa tài, đa năng, nhưng đức nhu thuận bao
giờ cũng được giữ gìn. Cái gương lớn nhất là Linh Từ quốc mẫu, là vương phi Ý
Ninh. Công chúa An Tư là đệ tử yêu của Vô Huyền bồ tát, thì nồ tát hạnh đâu có
thiếu?
Được Hưng Đạo vương
khen, công chúa An Tư đề nghị:
– Tâu Thượng
hoàng, trong chư vị vương, hầu, tướng soái hôm nay đây. Có thể nhiều vị giữ ý
không muốn phát biểu. Thần xin Thượng hoàng, phát cho mỗi vị một lá phiếu, trên
có chữ Hàng, Chiến. Ai đề nghị chiến thì đánh dấu vào chữ Chiến. Ai đề nghị
Hàng thì đánh dấu vào chữ Hàng. Như vậy để biết rõ ý chí chư tướng.
Thượng hoàn tán đồng
ý kiến. Phiếu được phát cho cử tọa. Người cao niên nhất là Trung Thành vương. Người nhỏ tuổi nhất là Hoài Nhân vương được cử
ra kiểm phiếu.
Sau khi kiểm
xong, Trung Thành vương công bố:
– Ý kiến cháu An
Tư thực sáng suốt. Chúng ta có tất cả 242 người. Thì 72 phiếu hàng, 170 phiếu chiến.
Tính ra 30 phần trăm hàng, 70 phần trăm chiến.
Nhân Huệ vương tỏ
ra lo lắng:
– Hiện diện tại đây
không là vương, hầu thì cũng là tướng soái. Mà cứ ba người thì có một người chủ hàng. Cuộc
chống Thát đát này, chúng ta dựa vào dân, sống lẫn với dân. Ta cần lấy ý kiến
dân. Đại diện cho dân là những hào mục, là những vị cao niên. Vậy thần xin Thượng
hoàng cho mời tất cả các hào mục, cao niên tuổi trên 50 về Thăng long, đãi yến
tại diện Diên hồng, rồi hỏi ý kiến xem họ muốn hòa hay chiến. Sau đó chúng ta
mới có quyết định chính thức.
Thượng hoàng vui
v ẻ:
– Trẫm thuận đề
nghị của Nhân Huệ vương.
Thái giám Kính sự
hô:
– Buổi họp chấm
dứt.
Thượng hoàng,
Thái hậu, Hoàng đế, được công chúa An Tư chỉ huy đội nữ binh Mê linh hộ tống
lên bờ. Thượng hoàng nhìn khí thế hiệu binh Hàm tử dàn ra cực kỳ uy nghi. Ngài
khen:
– Hoài Văn hầu
thực không hổ là con của Vũ Uy vương. Hiệu binh Hàm tử thế kia, thì bọn Thát đát
bị đánh bại đã thấy trước rồi vậy.
Niên hiệu Thiệu Bảo thứ sáu đời vua
Trần Nhân tông bên Đại việt. Bên Trung nguyên là niên hiệu Chí Nguyên thứ 21 đời Nguyên Thế tổ Hốt Tất Liệt (1284), tháng
11.
Trên toàn lãnh
thổ Đại việt như muốn rung chuyển, vì những con ngựa trạm của triều đình phi như
bay, đến từng xã, từng thôn truyền chiếu chỉ của triều đình đến các hào kiệt, đến
các vị bô lão. Nội dung chiếu chỉ:
“ Trước thế nước chông chênh như trứng trồng trên đá. Đức
vua mời về điện Diên hồng dự yến, đề thỉnh ý kiến: chiến hay hàng“.
Mỗi xã, ấp,
trang, động nhận được chiếu chỉ, thì các chức sắc như: Đại tư, Tiểu tư, Câu đương, Chánh ty, Học lễ,
bàn luận với nhau, rồi sai mõ rao mời dân chúng đến đình làng họp.
Người Việt vốn có một nền dân chủ hạ tầng rất sớm. Nền
dân chủ này phát xuất từ chế độ Lạc hầu, Lạc tướng vào thời vua Hùng. Dân chúng
sống tập hợp thành từng làng, từng xã. Các gia tộc tổ chức thành xóm. Nhiêu xóm
thành một làng, một xã. Đó là những khu đất cao. Xung quanh là cánh đồng, ao
hồ. Họ tổ chức phòng thủ xã bằng những lũy tre dầy đặc bao quanh. Ngoài lũy tre
là một con mương, con hào, hay con sách.
Dưới mương đó họ đặt chông. Làng có từ một cổng tới bốn hay năm cổng. Tại mỗi cổng
có một điếm canh. Điếm canh ngày đêm có tráng đinh canh gác thông ra đồng, hay
những làng khác bằng con đường.
Tổ chức cai trị làng thường do dân chúng họp nhau bầu
lên, rồi do chính quyền ban hành văn kiện công nhận. Mỗi đời những chức sắc này
có một tên khác nhau, quyền hạn khác nhau. Như triều Trần thì người lãnh đạo xã lớn có tên Đại
tư, xã nhỏ có tên Tiểu tư. Đến triều Nguyễn (1802-1945) thì là Lý trưởng. Phụ giúp
Đại tư có một hay nhiều Phó tư, triều Nguyễn gọi là Phó lý. Hiện nay là Chủ tịch hội đồng nhân dân xã.
Chức dịch trong xã đời Trần có Đại tư, Phó tư, Câu đương,
Chánh ty, Học lễ. Ngoài ra nếu trong xã có những đại quan về hưu thì được tôn
là Tiên chỉ, Thứ chỉ. Xã cũng bầu lên một số người đại diện, gọi là Hội đồng
xã. Hội đồng sẽ họp, lập ra các lệ, một loại luật chỉ áp dụng trong xã. Nhiều
khi lệ này trái với luật nước. Bởi vậy mới có câu: phép vua thua lệ làng.
Cạnh trụ sở xã có một ngôi nhà lớn, gọi là cái đình. Cái
đình là nơi hội họp dân trong xã.
Mõ là một nhân vật đặc biệt, hưởng lương xã . Thường
thì Mõ được cấp công điền cầy cấy, không phải nộp tô thuế. Mõ bị coi khinh. Con
cháu ba đời không được đi thi, không được làm quan. Mõ để chức dịch sai mời, triệu hồi, thông báo đến
dân làng. Khi có việc cần thông báo, chức dịch sai Mõ đi rao. Mõ cầm cái mõ, gõ
ba tiếng lớn, đề gây chú ý, rồi cất tiếng rao:
– Trình làng, trình xã, trình quan viên nghe cho rõ...
Sau đó nói nội dung tin tức. Khi làng họp, ăn uống thì
Mõ ngồi một cỗ.
Trong buổi họp, Học Lễ đứng lên
trình bầy tình hình đất nước.
Trong 27 năm qua Mông cổ
luôn sai sứ sang hoạnh họe, bắt ta phải chịu 6 điều kiện. Điều nặng nhất là họ
bắt đích thân nhà vua sang chầu, phải nạp sổ đinh, sổ điền, phải chịu quân
dịch, phải nhân Đạt lỗ hoa xích. Gần đây họ thay Đạt lỗ hoa xích bằng Tuyên phủ
ty. Tuyên phủ ty là một cơ quan cai trị. Cơ quan này như một phủ Thái thú. Rồi
ít lâu sau, Nguyên sẽ phong cho một thân vương sang làm vua Đại việt. Triều đình
cương quyết không thuận. Nguyên đem 50 vạn quân sang đánh. Triều đình hỏi ý
kiến dân:
– Chịu điều kiện của Nguyên, để được yên. Không chịu nạn binh
lửa?
– Hay cương quyết chống
giặc.
Chúng ta sẽ quyết định,
rồi cử các bô lão về Thăng long, dự yến ở điện Diên hồng. Các bô lão sẽ phát
biểu ý HÀNG hay CHIẾN. Triều đình theo đó
mà hành động.
Thế rồi làng, xã, động, trang cử các bô lão lên đường về Thăng long. Có
người đi bộ, có người đi thuyền, có người đi ngựa, có người đi voi. Lại có người
cao niên, phải dùng cáng.
Triều đình cử Phụ quốc thái úy Chiêu Minh vương Trần Quang Khải phụ trách tổ chức, tiếp đón các đại biểu. Vương ủy cho
Nghĩa hòa hầu Đại Lực, nguyên là Tổng thái giám thời đức Thái tông điều khiển
Ngự trù làm tiệc. Hầu về hưu đã lâu, nhưng nay quốc gia có sự, hầu từ quê về Thăng
long chủ trì việc làm tiệc. Thời Trần là thời mà giữa triều đình với dân chúng
có sự tương thông rất cao, nên dân chúng đem thổ sản về góp với triều đình để
thiết đãi các bô lão.
Trước hết là dân chúng
tổng An biên, ấp phong của Đông hải Thiên
kình đại tướng quân, Nam phương hùng uy, công thần, An biên đình hầu Yết Kiêu,
gửi về hai con thuyền lớn chất đầy cua bấy (lột). Cua này dân chúng nuôi nên to
lớn dị thường. Con lớn bằng cái nồi ba, con nhỏ bằng hai nắm tay vụm lại.
Thứ nhì, dân đảo Trường sa, ấp phong của Trường sa nam
Võ Văn Sáu, thống lĩnh hạm đội Bạch đằng, gửi về 5 thuyền lớn cá ngừ; một trăm
lồng, mỗi lồng 50 con chim hải âu mới ra
ràng.
Thứù ba, dân chúng Côi sơn, ấp phong của Côi sơn hầu Nguyễn
Đại Hành. Hầu tuy ở xa vạn dặm, nhưng phu nhân Võ Cẩm Nhãn cũng hô hào dân
chúng gửi về 100 con dê núi.
Ba châu Văn sơn, Khâu bắc, Chiêu dương ấp phong của Địa
Lô, Dã Tượng, Cao Mang gửi về hằng chục xe chở gà rừng, chim bồ câu, nấm
tía.
Khắp các phủ, huyện, trấn, những người có tài nấu nướng
đều tình nguyện về giúp triều đình.
Việc đón tiếp trao cho công chúa An Tư với đội nữ Thị vệ
Mê linh. Việc giữ an ninh Thăng long trao cho Hoài Nhân vương, Hoài Văn hầu với
đội Thiết đột Hàm Tử.
Đúng giờ Thìn. Trong điện Diên hồng, các bô lão đã tề tựu đầy đủ. Một đài
cao, trên bầy bàn thờ Quốc tổ, liệt vị anh hùng các triều đại. Hai bên bàn thờ
có hai giá vũ khí, cùng 12 thiếu nhi, khoanh tay đứng hầu. Khói từ đỉnh hương
bốc lên nghi ngút.
Một hồi chiêng trống.
Lễ bộ thượng thư hô:
– Chiêu Minh vương, lĩnh Phụ quốc
thái úy giá lâm.
Cử tọa đứng dậy.
Chiêu Minh vương Trần Quang Khải từ trong đi
ra. Vương đứng trên đài thấp hơn bàn thờ, đáp lễ các bô lão. Vương vận nội lực
nói lớn:
– Thưa các vị bô lão. Hôm nay là ngày khai hội. Chúng ta đang ở vào giữa
giờ linh của tộc Việt. Chúng tôi xin loan báo:
– Khai hội.
Ba hồi chiêng trống vang lừng.
Lễ bộ Thượng thư hô:
– Thượng hoàng, hoàng đế Thiệu Bảo giá lâm. Chư vị không phải quỳ gối,
ngược lại được nhìn thẳng để thấy phong quang hai vua.
Thượng hoàng, Hoàng đế từ trong đi ra. Lễ bộ thượng thư nghinh tiếp hai
vị lên đài. Trong điện có tới hơn 5 nghìn người mà không một tiếng động.
Chiêu Minh vương hô :
– Kính thỉnh Thượng hoàng, hoàng đế cùng các bô lão quỳ gối lễ Quốc tổ
cùng liệt vị anh hùng dân tộc.
Hai vua đến trước bàn thờ thắp hương, quỳ gối lễ tám lễ. Rồi về ghế
ngồi. Các bô lão cũng lễ tám lễ.
Ba hồi chiêng trống, nhạc cử
bản Bát nhã. Nhạc dứt, Thượng hoàng bước ra hướng cử tọa :
Các vị bô lão,
Chư vị hào kiệt.
Chư vị là những người
ông, cha của dân chúng. Các vị với quả nhân cùng là con cháu vua Hùng, vua Trưng.
Từ mấy nghìn năm nay, tộc Việt ta đỉnh lập nam phương, kiến tạo một nước có
văn hiến, có tổ chức. Tiếng nói, phong
tục so với bắc phương có khác. Gần đây, bọn rợ Thát đát đánh chiếm Trung
nguyên, vẫn chưa cho là đủ, chúng muốn chiếm Đại việt ta. Trong 28 năm qua,
chúng không ngớt gửi sứ sang yêu sách 6 điều :
Một là đích thân quốc vương phải vào chầu,
Hai là đem trưởng nam làm con tin,
Ba là kê biên dân số,
Bốn là phải chịu quân dịch,
Năm là phải nộp thuế, lương thảo.
Sáu là nhận Đạt lỗ hoa xích (Đa gu ra tri) .
Triều đình nín
nhịn, sai sứ từ chối. Tuy nhiên cũng phải gửi người sang làm con tin, chịu nhận
Đạt lỗ hoa xích. Bọn Đạt lỗ hoa xích luôn hoạnh họe triều đình bắt phải thế
này, thế nọ để đòi mỹ nữ, đòi vàng ngọc. Gần đây, chúng giải tán Đạt lỗ hoa xích,
thành lập Tuyên phủ ty. Cái gọi là Tuyên phủ ty giống như phủ Thái thú. Chúng
công khai tuyển bọn đầu trộm đuôi cướp làm Thị vệ, đi lại khắp nước, đòi bổ
nhiệm bọn đầu trâu mặt ngựa làm quan chức. Triều đình phải nín nhịn cho qua.
Thế nhưng chúng chưa thỏa lòng, mới đây chúa Nguyên phong cho con làm Trấn Nam vương, lập An nam hành tỉnh tại
Kinh hồ, bắt ta phải chịu cho chúng đô hộ, bằng không chúng quyết đem 50 vạn
quân sang làm cỏ nước Việt.
Ngài ngừng lại
một lát rồi tiếp:
Bản triều lấy dân
làm gốc, vì vậy quả nhân mời các vị về đây đẻ hỏi ý kiến: CHIẾN hay HÀNG?
Lập tức cả điện cùng vang lên:
– Chiến! Quyết chiến!
Chiêu Minh vương hỏi:
– Có ai muốn hàng không?
Cả điện im lặng, không một tiếng động.
Chiêu Minh vương hỏi lại:
– Chiến hay Hàng?
– Chiến! Chiến!
Một lão bà, lưng còng, chống gậy xin nói.
Chiêu Minh vương sai nữ Thị vệ mời bà lên đài. Bà thở
hổn hển:
– Tâu Thượng hoàng, thần là Vũ Thị The, từng đánh nhau
với Thát đát tại Phù lỗ , thời Nguyên Phong. Thần xin có lời tâu.
Thượng hoàng vui vẻ:
– Quả nhân xin nghe lời lão bà.
– Tất cả chúng thần đều quyết chiến. Sau khi rời đây
trở về làng xã, chúng thần sẽ họp con cháu, giảng giải cho chúng biết tại sao
phải chiến. Nhưng triều đình định kế sách ra sao? Dân chúng phải làm gì?
Thượng hoàng tuyên chỉ:
– Trẫm để Hưng Đạo vương dặn dò các vị.
Hưng Đạo vương lên đài:
– Các vị bô lão! Khi rời đây các vị trở về làng phải
thực hiện 10 điều. Khu mật viện sẽ phát cho mỗi vị một tập sách nhỏ ghi chú 10 điều
này. Xin các vị nghe cho rõ. Có chỗ nào không hiểu thì hỏi lại.
Hội trường im phăng phắc.
– Điều thứ nhất, về tới làng, các vị
họp cả làng bất kể già, trẻ, gái trai, tăng tục. Các vị giảng giải cái thế nguy
của giang sơn cho mọi người hiểu tại sao phải đánh.
Hội trường cùng vỗ tay hoan hô.
– Điều thứ nhì: các vị giảng giải cho
con cháu biết: đánh giặc là nhiệm vụ chung của con dân Đại việt, chứ không phải
triều đình. Già đánh, trẻ đánh, trai dánh,
gái đánh, tăng đánh, tục đánh.
– Điều thứ ba, mỗi làng, mỗi xã, mỗi
xóm là một thành. Già, trẻ, nam nữ cùng nhau thủ thành. Nếu thế giặc mạnh quá,
ta quen địa thế, rút sang làng khác. Đợi giặc đi, ta lại trở về.
– Điều thứ tư, cần cất giấu lương
thực. Không bán lương thực cho giặc. Không để giặc cướp lương. Nếu giặc tràn đến,
không kịp chuyên chở lương thực đi nơi khác thì hủy đi.
– Điều thứ năm, triều đình sẽ cử người
đến từng xã ấp huấn luyện dân chúng phương pháp trấn thủ làng. Phương pháp chế vũ
khí, cung tên. Phương pháp tác chiến, thế công, thế thủ.
– Điều thứ sáu, tùy vị trí làng xã,
triều đình sẽ cử quân đến cùng dân thiết lập đồn lũy sát cánh chiến đấu.
– Điều thứ bẩy, mỗi
châu, mỗi phủ, mỗi huyện sẽ thông báo tin tức đến từng xã, từng ấp. Mỗi vùng có
một hiệu binh đồn trú. Tướng chỉ huy hiệu binh là người chịu trách nhiệm an
ninh lãnh thổ của mình. Khi làng, xã bị đánh thì tướng chỉ huy sẽ cứu ứng.
– Điều thứ tám, lương
thảo của toàn quân không chứa thành kho, mà chia ra; trao cho làng xã cất giữ. Khi
các hiệu binh bị tổn thất, các tướng hoặc tuyên vũ sứ, an phủ sứ toàn quyền
tuyển dân binh thay thế. Các tướng, các tuyên vũ sứ, an phủ sứ toàn quyền ban
lệnh cho các Đại tư lấy lương thảo cho quân.
– Điều thứ chín, lỡ ra một trấn, một phủ, một huyện bị giặc
chiếm. Các Tuyên vũ sứ, An phủ sứ bị bắt hay hàng giặc, lập tức các Đại tư
không tuân lệnh trưng quân, trưng lương của các Tuyên vũ sứ, An vũ sứ đó nữa.
Điều thứ mười,
làng nào, xã nào, trang nào, động nào hàng giặc thì các làng, xã, trang, động
xung quanh phải cô lập bọn hèn nhát đó. Sau khi đuồi giặc rồi, thì những làng,
xã hàng giặc sẽ bị trừng phạt: không được ứng thi, không được làm quan. Trai không
được lấy vợ làng khác, gái không được lấy chồng có chức tước. Toàn thể phải nộp
thuế gấp đôi làng khác. Kẻ chủ xướng bị chém đầu. Các chức sắc như Tiên, Thứ
chỉ, Đại tư, Chánh ty, Câu đương, Học lể bị tội chặt một chân.
Tiệc bắt đầu. Trên từ Thượng hoàng, Thái hậu, hoàng đế, hoàng hậu, phi tần,
công chúa, hoàng thân chia nhau mỗi cỗ một người cùng ăn uống, cùng trao đổi
chuyện trò với bô lão. Tiệc tàn, Thượng hoàng cùng Hoàng đế cùng tiễn các bô
lão ra tận cổng thành.
Thế rồi tòa Tổng Tiết chế ban hành lệnh cho các hiệu quân, các hạm đội, phụ
trách vùng trấn đóng của mình:
– Phân chia các cấp chỉ huy đến từng xã, từng ấp giúp dân chúng lập hành rào, vét hào, đặt chông,
chế vũ khí, cung tên.
– Huấn luyện dân chúng cách tác chiến, tấn công, giữ ấp, rút lui. Nhất là
tổ chức dân chúng thành từng Ngũ (5 người), lượng (20 người), đô (80 người), cử
người chỉ huy.
Cả nước bừng bừng khí sắc chống giặc giữ nước.
Hưng Đạo vương ban hành bài Hịch tướng sĩ, in ra thực nhiều bản, gửi tới
cấp đô. Có các thầy đồ tới từng đô giảng giải ý nghĩa bài hịch cho binh sĩ
hiểu.
Bài hịch này có nhiều bản dịch, tôi xin lấy bản dịch của V?n tuy?n. Xem
nguyên văn, chú giải cuối hồi này.
Niên hiệu Thiệu Bảo thứ sáu
đời vua Trần Nhân tông bên Đại việt. Bên Trung nguyên là niên hiệu Chí Nguyên
thứ 21 đời Nguyên Thế tổ Hốt Tất Liệt
(1284), tháng 12.
Tổng hành doanh lưu động của Tiết
chế binh mã họp mật tại trấn Lạng sơn.
Buổi họp do Hưng Đạo vương chủ trì, gồm Hưng
Ninh vương tổng trấn Đông Bắc cương, Chiêu Văn vương Tổng trấn Tây Bắc cương, Nhân Huệ vương Tổng trấn dọc vùng biển, Chiêu Quốc vương Tổng trấn Thăng long, Hưng Nhượng vương Tổng lĩnh Thiên tử
binh.
Trước hết Văn sơn hầu Nguyễn Địa Lô tường trình tình hình Nguyên:
–
Thoát Hoan đã cho các đạo binh lên đường: hiện Tổng hành dinh đã tới Ung châu. Phía
Nam, A Lý Hải Nha ra lệnh cho Toa Đô lên đường. Đợi khi các đạo quân phía bắc
tràn vào Thăng long, thì đạo quân này tiến đánh Nam giới. Nhưng một là đạo quân
của Toa Đô lâu nay đói khát, bệnh tật, lại bị Chiêm bao vây, nên y phải để một
nửa quân số bảo vệ các đồn điền, căn cứ.
Hưng Đạo vương hỏi Tĩnh Quốc vương:
– Hiện các đạo dân quân vùng Thanh, Nghệ, Trường yên được huấn luyện rất
tinh nhuệ, có thể tự vệ khi bị tấn công. Nay tôi chia lực lượng trấn phía Nam
thành ba vòng. Vòng đai thứ nhất do hiệu Củng thần, của Chiêu võ thượng tướng
quân Cao Mang trấn thủ tại Nam
giới. Vòng đai thứ nhì do hiệu Thiên cương của Chương hiến hầu Trần Kiện trấn
tại Nghệ an. Vòng đai thứ ba do hiệu Tứ thiên của Văn nghĩa hầu Trần Tú Hoãn trấn
tại Trường yên. Như vậy đủ chưa?
Tĩnh Quốc vương tự tin:
– Đủ rồi! Đối phó với đạo binh chết đói, bệnh tật của Toa Đô như vậy là yên
rồi. Nhất là dân quân vùng Hoan, Ái rất mạnh.
Chiêu Minh vương dùng ngôn từ gia đình:
– Anh cả ơi! Anh phải thận trọng. Nếu để bọn Nguyên phá vỡ ba vòng đai phía
nam thì Thiên trường lâm nguy đấy.
– Nguy sao được, chỉ cần thằng cháu Cao Mang cũng đủ phá Toa Đô rồi.
Tuy vậy Hưng Đạo vương tiếp:
– Việc binh phải cẩn thận vẫn hơn. Tôi đặt đạo Thiết đột Hàm tử của Hoài Văn
hầu, hiệu binh Tứ thần của Hoài Nhân vương làm trừ bị cho phía nam.
Tĩnh Quốc vương nói:
– Tôi nghe từ hôm cháu Hoài Nhân được
trao cho thống lĩnh hiệu binh Tứ thần. Cháu cùng Hoài Văn nhờ Trung Thành vương tổ chức, huấn luyện lại. Nên hiệu binh này mạnh
bất khả đương. Vì Hoài Nhân là đệ tử của Hoài Văn, hai trẻ thân thiết với nhau,
tuy hai mà là một. Hiệu binh Tứ thần, Hàm tử từ trang bị, đến tổ chức, phương
pháp tác chiến đều giống nhau. Nghĩa là chỉ học tiến, không học lui. Quân
Nguyên gốc từ Mông cổ, sở trường về dàn trận. Mà khí đối trận với chúng chỉ
tiến, sẽ nguy vô cùng.
Ngột A Đa xua tay:
– Xin đại vương yên tâm. Phụ thân tôi từng ở trong quân Mông cổ trải qua
các cấp bách phu, thiên phu, vạn phu. Rồi từng đánh Mông cổ hồi chúng xâm lăng
thời Nguyên phong. Cuối cùng người thống lĩnh quân Mông cổ ở Liêu. Vì vậy người
hiểu rõ chiến thuật của họ. Nay người hợp kinh nghiệm lại, giúp Quốc Toản, Quốc
Kiện , thì hai đạo binh Hàm tử, Tứ thần sẽ có tất cả tinh hoa của Mông cổ, của Đại
việt.
Chiêu Văn vương tiếp:
– Mời Văn sơn hầu tiếp về tình hình địch ở đạo quân Vân nam.
Địa Lô tiếp:
– Tướng chỉ huy cánh quân từ Vân nam đã tiến đến sát biên giới. Người
chỉ huy là Nạp Tốc Lạt Đinh (Nãsir ud Dĩn). Vân Nam vương đã dốc hết
quân cơ hữu dự trận đánh này. Cánh quân Vân nam khá đông, gồm 5 vạn 5 nghìn người. Chia ra 5 nghìn kị binh
gốc Mông cổ, 3 vạn binh gốc Tứ xuyên, 2 vạn binh gốc Đại lý. Trang bị đầy đủ, lương
thực tiếp tế dễ dàng. Chúng sẽ nhập Việt theo hướng bắc nam, giống như hồi Ngột
Lương Hợp Thai. Nghĩa là qua Thảo lâm, tới Bạch hạc, Bình lệ nguyên, Phù lỗ, Cụ bản vào
Thăng long.
Hưng Đạo vương hỏi Chiêu Văn vương:
– Vương sẽ nghênh địch ra sao?
– Tuân theo đại kế, tôi bố trí như sau: hiệu binh Thiên thuộc của Trấn
biên tướng quân Nguyễn Thế Lộc, Nguyễn Lĩnh trấn từ biên giới tới Thảo
lâm. Hiệu binh Thiệu hưng của Kinh nam quốc
công Triệu Hòa trấn tại Bạch hạc, Đông bộ đầu. Hiệu Trung thánh dực của Văn
chiêu hầu Trần Văn Lộng trấn vùng Tam đái tức từ Phù lỗ, Cụ bản tới Thăng long. Tất cả được
lệnh: cần đánh một vài trận rồi rút lui, ẩn vào dân chúng. Chờ cho giặc đi qua,
thì trở lại chặn đường tiếp tế, rút lui. Khi ta phản công, giặc bỏ chạy thì
chặn đánh.
Địa Lô lại trình bày tình hình địch mặt biển:
– Nguyên gốc là Mông cổ, giỏi về kị binh, không có thủy quân. Cho nên
suốt 5 năm qua Hốt Tất Liệt lúng túng về mặt biển. Hai lần đánh Nhật bản bị
thất bại. Gửi quân đánh Chiêm, bị ta phá ở
Quỳnh châu (Hải nam), rồi Trường sa, Hoàng sa, rồi Thư mi liên. Gần đây
Hốt Tất Liệt đã trọng dụng các cựu tướng thủy quân của Tống, sai lập các xưởng đóng
chiến thuyền. Nhưng chiến thuyền của họ chỉ đủ để vận tải lương, chuyển quân từ
Trường sa, Hồ nam, Liễu châu xuống Ung châu. Trong các thủy đội của họ hiện
không có khả năng đánh vào mặt biển của ta.
Hưng Đạo vương ban lệnh:
– Phó Tiết chế Nhân Huệ vương hiện đóng ở Tiên yên, Đồ sơn. Vương có 4 hạm đội. Vậy vương nghênh chiến ra
sao?
Nhân Huệ vương trình:
– Từ 5 năm nay, bốn hạm đội, thì chỉ duy hạm đội Bạch đằng là trực diện
tham chiến. Bây giờ tôi phối trí như sau. Hạm đội Bạch đằng phụ trách vùng biển
Chiêm. Tuần phòng, đánh các đội thủy quân Nguyên từ Nghệ an tới cực nam của
Chiêm. Trấn thủ trên các quần đảo Trường sa, Hoàng sa. Hạm đội Âu cơ của đô đốc
Nguyễn Chế Nghĩa trấn thủ trên vịnh Hạ long, và các cửa sông từ biên giới tới
Bạch đằng. Hạm đội Thần phù trấn thủ từ của biển Bạch đằng tới Thần phù. Hạm đội
Thăng long trấn thủ sông ngòi vùng Thăng long, Thiên trường.
Địa Lô trình bầy tình hình địch tiếp:
– Hiện đại quân Nguyên đã đóng dọc biên giới từ Lạng sơn tới Như hồng. Tất
cả gồm 10 vạn phu bộ binh và 5 vạn phu kị binh. Toàn quân tinh nhuệ. Ý định của
A Lý Hải Nha là phô trương lực lượng, rồi sai sứ chiêu hàng.
Hưng Đạo vương cười:
– Được! Để trả lời cho cái vụ chiêu hàng, ta cần đặt chúng vào thế bị động.
Gây cho chúng kinh hoàng. Vụ này phi Đại đởm, đại tướng quân, Minh tâm, dũng lược, duệ mưu công thần,Nam phương, thần
vũ Quốc công Nguyễn Thiên Sanh không ai làm nổi.
Công tìm cách đột nhập vào doanh trại Nguyên, giết ngựa, đốt lương, khiến chúng
kinh hoàng. Hiện công có bao nhiêu toán Đại đởm?
Công trình bầy:
– Khải vương gia, hiện Nguyên đóng sát biên giới của ta gồm 4 khu. Khu giữa
gồm 2 vạn phu kị binh. Khu đông gồm 2 vạn phu bộ binh, khu tây gồm 2 vạn phu bộ
binh. Còn lại chúng đóng phía sau, xa biên giới tới 10 dặm. Lương thảo của
chúng không do bộï binh, kị binh canh phòng mà do Lao binh, dân phu. Chúng chứa
thành bốn kho. Đánh cảm tử thì tránh dùng những đơn vị lớn, cần những đơn vị
nhỏ cấp Đô (1 đô 80 người) dễ xoay xở, dễ rút lui hơn. Thần có tại đây 4 đô.
Thần sẽ cho tấn công vào bốn kho lương một lúc.
Hầu đưa mắt nhìn Hoài Nhân vương Trần Quốc Kiện, Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản:
– Sau khi đốt lương địch thì cần rút mau. Thần cần tới Hoài Nhân vương,
Hoài Văn hầu cho Thiết đột phục binh cản đường.
Hưng Đạo vương hài lòng:
– Vậy cuộc tấn công này trao cho Đại đởm đại tướng quân với Hoài Nhân, Hoài
Văn.
Vương tiếp:
– Ta chia quân thành bốn vòng đai. Vòng đai thứ nhất là các ải địa đầu dọc
biện giới tới Chi lăng, do Bình nam đại tướng quân Phạm Ngũ Lão thống lĩnh. Lực
lượng gồm hiệu binh cơ hữu là Hữu thánh
dực và hiệu Thần cách của Văn sơn hầu Địa Lô. Nhưng tôi cần Văn Sơn hầu ở cạnh.
Vậy phó tướng Nguyễn Lộc thay thế. Nhiệm vụ: củng cố chiến lũy, đồn ải thực
kiên cố. Khiến chúng phải hao binh, tổn tướng đánh chiếm. Chỉ cần giữ từ 5 tới 10
ngày, rồi rút lui, ẩn vào dân chúng. Đợi cho đại quân chúng đi qua, lại xuất
hiện đánh các đoàn chở lương, trấn đóng các làng xã, khuấy rồi hậu quân chúng.
Chờ khi có lệnh phản công thì mới đánh thực sự.
– Vòng đai thứ nhì do Thiên tượng đại tướng quân, Khâu Bắc đình hầu Dã Tượng
thống lĩnh. Trấn thủ từ Chi lăng tới Nội bàng. Quân cơ hữu gồm hiệu cơ hữu Văn
bắc và hiệu Tứ thánh của hai đại tướng quân Nguyễn Khoái và Nguyễn Khả Lạp.
Nhiệm vụ: như vòng đai thứ nhất; củng cố chiến lũy, đồn ải thực kiên cố. Khiến
chúng phải hao binh, tổn tướng đánh chiếm. Chỉ cần giữ từ 5 tới 10 ngày, rồi
rút lui, ẩn vào dân chúng. Đợi cho đại quân chúng đi qua, lại xuất hiện đánh
các đoàn chở lương, trấn đóng các làng xã, khuấy rồi hậu quân chúng. Chờ khi có
lệnh phản công thì mới đánh thực sự.
– Vòng đai thứ ba, do đích thân tôi thống lĩnh, đóng tại Đông triều, Vạn
kiếp. Tôi sẽ dùng hiệu binh Tiền thánh dực của Hưng Trí vương, hiệu Tả Thánh
dực của Hưng Hiếu vương.
– Vòng đai thứ tư do Chiêu Quốc vương thống lĩnh, bảo vệ kinh thành Thăng
long. Lực lượng gồm hiệu binh Phù đổng của Chiêu hòa vương Quốc Uất, hiệu Tứ thần của Hoài Nhân vương, hiệu Hàm tử của
Hoài Văn hầu, hiệu Thiên thánh của Quang nghĩa hầu Trần Bình Trọng, hạm đội Thăng
long, hiệu binh Hoa lư của Ngưu vệ tướng quân Lý Long Đại và phu nhân Vũ Trang Hồng.
Hưng Đạo vương gọi Ngột A Đa:
– Trong tất cả các tướng Đại việt, không ai hiểu chiến thuật của Mông cổ
bằng vương gia. Vương gia lại kinh nghiệm đối phó với các tướng của Hốt Tất
Liệt. Vì vậy xin vương gia lĩnh nhiệm vụ cực kỳ khó khăn.
Vương phi Thanh Nga cảm động:
– Thưa Tiết chế, vợ chồng tôi suốt bao năm cầm quân Mông cổ chống Nguyên,
mà lòng ước ao có ngày được vì Đại Việt ra sức. Nay Tiết chế trao cho nhiệm vụ
khó đến đâu cũng không từ nan.
Hưng Đạo vương hài lòng:
– Vương gia thống lĩnh mặt trận cực rộng: bao gồm Vân nam, Quảng tây, Quảng
đông. Khi rời Vân nam về Đại việt, vương gia dẫn theo hơn 5 nghìn quân gốc Mông
cổ. Bây giờ tôi đặt các hiệu binh gốc Tống là Văn Thiên Tường, Tường Hưng, dưới quyền vương gia. Khi xuất
binh, ba Quốc công Triệu Nhất, Triệu Trung, Triệu hòa sẽ kéo cao cờ nghĩa Cần vương Tống. Nghĩa là chúng ta đánh bọn Thát đát trên đất Trung
quốc là vì Tống, là vì phục hồi đất của
Quốc tổ Phục Hy, Thần Nông, Hoàng đế.
Ngột A Đa hỏi:
– Chúng tôi sẽ nhận lệnh từ đâu? Từ Khu mật viện Đại việt? Từ Hưng Ninh vương? Từ Chiêu Văn vương? Hay từ
Tiết chế?
– Vương cần phối hợp với tất cả chúng tôi để cùng hoạt động. Bây giờ quân
Nguyên của Thoát Hoan đang lũ lượt kéo
nhau xuống nam. Vương gia ém quân vào dân chúng. Đợi khi toàn quân của Thoát
Hoan nhập Việt, vương gia tung quân đánh chiếm các phủ, huỵện nhỏ. Sau khi
chiếm được trao cho ba vị Triệu Quốc công. Các vị ấy sẽ tìm hào kiệt bổ nhậm
làm quan, tổ chức cai trị. Đánh vùng nào, tùy nghi vương gia với ba vị Triệu
quốc công. Tuy nhiên bằng mọi giá phải chiếm Hỏa giáp, Đại giáp, Ngọc tuyền,
Côn luân. Như vậy bất đắc dĩ Thoát Hoan phải cho lui quân từ Việt về tái chiếm 4 vị trí ấy. Khi thấy chúng trở
lại, các vị lại rút đi. Thế bắt buộc chúng phải đóng đồn bảo vệ con lộ huyết
mạch. Thiên Kình đại tướng quân đã huấn luyện cho Cần vương Tống 5 đội Ngạc ngư. Vương gia dùng 5 đội này đục thuyền
vận lương của Nguyên trên sông Tương.
Ngày 21 tháng chạp, năm
Giáp thân (27-1-1285) niên hiệu Thiệu Bảo thứ sáu đời vua Trần Nhân tông bên Đại
việt. Bên Trung nguyên là niên hiệu Chí Nguyên thứ 21 đời Nguyên Thế tổ Hốt Tất Liệt
Trời bắc cương Đại việt vừa trải qua 10 ngày mưa phùn, tự nhiên nắng ráo,
gió heo may thổi nhè nhẹ. Dọc biên giới hiệu binh Hữu Thánh dực của Phạm Ngũ
Lão đóng hai đồn Khả lan vi, Đại trợ. Đối lại bên kia biên giới tướng Nguyên là
Bột la Cáp đáp nhĩ (3), và A
Thâm với 2 vạn bộ, một vạn kị. Hiệu binh
Thần cách của Nguyễn Lộc đóng trong hai chiến lũy Khâu ôn, Khâu cấp, đối diện
lại bên kia là Khiếp tiết Tản lược Nhi
(4), và Lý Bang Hiến với 2 vạn bộ,1 vạn kị.
Trấn Nam vương Thoát Hoan và Kinh hồ An nam
hành tỉnh A Lý Hải Nha ban chỉ cho c ác cánh quân:
“ Phải tiến đánh
thực mau, thực mạnh, để vào Thăng long ăn
tết, hái cành đào đem về dâng cho phụ hoàng“.
Thoát Hoan cùng bộ tham mưu rời
thành Ung châu, hướng về biên giới Đại Việt. Vào trong đại doanh, Thái tử hỏi vương
phi Lý Ngọc Trí:
– Khanh xa quê hương đã lâu. Bây giờ chỉ còn một ngày nữa, ta sẽ đưa phi
nhập Việt. Bọn Nhật Huyên ngoan cố không chịu đầu hàng. Chúng dàn hai hiệu binh
thành bốn đồn là Khả lan vi, Đại trợ, Khâu ôn, Khâu cấp. A Lý Hải Nha đã chia quân làm hai cánh, đánh 4 đồn.
Hạ được 4 đồn này thì đại quân tràn qua Chi lăng, chỉ cần một ngày sức ngựa là
tới Thăng long.
Ngọc Trí giả ngây thơ:
– Vương gia tiến mau như vậy, bỏ lại sau các cánh dân quân Việt; liệu tiền
quân có yên không?
– Nàng không biết gì về cách dùng binh của đức Thái tổ Thành Cát Tư Hãn cả.
Để ta nói cho nàng nghe: hồi người mang quân chinh tây, đã sai Tốc Bất Đài,
Triết Biệt đem 3 vạn kị binh đuổi theo đại đế Mộ Hợp Mễ, xuyên qua đế quốc của ông ta. Ông ta chạy bán mạng, khiến các vương hầu như rắn mất
đầu. Không tập hợp quân cứu viện được. Vì vậy Thái tổ chinh phục được một
đế quốc hùng mạnh. Nay ta đem quân vào Việt, cần đánh như sét nổ, chiếm Thăng
long, truy lùng bắt cho được triều đình họ Trần, thì các cánh quân khác phải
buông vũ khí đầu hàng.
Y nhìn bà vợ xinh đẹp:
– Khi ta vây Thăng long, để tránh đồ máu, ta sẽ nhờ nàng đi sứ, khuyên Nhật
Huyên đầu hàng, như trước đây vợ của Chân Kim là Đặng Ngọc Kỳ đi sứ, thuyết
phục chư tướng Hoa lâm đầu hàng, mà không phải dùng binh.
Ngọc Trí cười:
– Thái tử không muốn đổ máu chắc vì sợ giao tranh thì công chúa An Tư khó mà thoát khỏi cái chết! Bấy giờ được An Tư
thì Thái tử sẽ phế em, phải không?
– Không hề! Dù nói cách nào nàng cũng có với ta hai con trai. Muôn ngàn lần
ta không thể phế nàng.
Có Tham quan vào trao cho Thoát Hoan một tấu trình. Ngọc Trí liếc qua, đó
là mật khẩu đêm nay:
Hỏi: Đại dô,
Đáp: Thăng long.
Nàng vào phòng cầm bút tóm lược những gì Thoát Hoan nói với nàng, cùng mật
khẩu vào một tờ giấy rồi trao cho viên Thái giám thân tín, viên Thái giám này
do Đại Hành an trí để giúp nàng. Viên Thái giám ra sau, gọi chim ưng xuống, gửi
đi liền.
Chim đó mang thư về Tổng hành doanh Tiết chế tại Vạn kiếp. Địa Lô mở thư ra
coi. Hầu trình với Hưng Đạo vương. Vương mừng vô cùng, vì biết rõ chủ tâm của
Thoát Hoan là tiến thực mau, đuổi bắt vua Trần. Như vậy các hiệu binh chỉ cần đánh
cầm chừng, rồi ẩn vào dân chúng. Vương ban chỉ cho Địa Lô:
– Hôm qua, Quốc Toản với Thiên Sanh bàn: đợi trời tối bí mật nhập trại
Nguyên, bắt một tên quân canh để biết mật khẩu. Điều này rất khó. Bây giờ có
mật khẩu, hãy báo cho Quốc Toản, Thiên Sanh biết ngay.
Địa Lô sai chim ưng mang thư đến ải Khả lan vi giữa lúc Phạm Ngũ Lão, Quốc
Kiện, Quốc Toản đang họp với Nguyễn Thiên
Sanh. Cả bốn đang nghiên cứu đường rừng xuyên biên giới để nhập trại Nguyên.
Biết được mật khẩu, Thiên Sanh reo lên:
– Thế này là chúng ta nhập trại Nguyên dễ dàng rồi.
Cả ba định rõ đường rút lui. Quốc Toản, Quốc Kiện cho Thiết đột phục binh như thế nào.
Công chúa Thủy Tiên hỏi:
– Tin của Ngọc Trí cho biết sáng sớm mai Thoát Hoan sẽ cho bốn tướng Khiết tiết Tán lược nhi, Lý Bang Hiến,
Bột lan Cáp đáp nhĩ, A Thâm đánh 4 ải của mình. Nay
trong đêm Đại đởm đốt phá, dù Đại đởm thành công nhiều hay ít, cũng gây xáo
trộn trong đội binh tiên phong. Liệu sáng mai chúng có tiếp tục đánh
mình hay để sang ngày khác?
Phạm Ngũ Lão đáp thản nhiên:
– Lính Nguyên, lính Mông cổ được huấn luyện cực kỳ dẻo dai.
Dù Đại đởm có quấy phá khiến chúng mất ngủ cả đêm, Thoát Hoan vẫn cho xuất
trại. Y không chịu đổi dâu!
Quốc Toản từng được nghe phụ vương, vương mẫu thuật lại những truyện làm
xuất quỷ nhập thần của Thần Vũ quốc công Nguyễn Thiên Sanh. Hầu hỏi:
– Thúc thúc! Thúc thúc định làm gì để cho tên Thoát Hoan kinh hồn táng đởm
như hồi 27 năm trước thúc thúc đã gây cho Ngột Lương Hợp Thai ghê sợ?
– Bọn Nguyên cậy đông người, đóng binh
san sát dọc biên giới, với mục đích uy hiếp tinh thần ta. Mấy hôm nay
chú dò dẫm được biết lính Nguyên thường rời trại vào rừng kiếm củi khô. Như vậy
việc canh phòng không chặt chẽ. Chú sẽ cho các Đại đởm mặc quân phục Nguyên,
vào rừng trà trộn lẫn với chúng. Rồi đêm mình tập trung lại nhập trại chúng.
– Chú lấy đâu ra quân phục, vũ khí quân Nguyên để giả làm lính Nguyên?
– Sau trận đánh Hỏa giáp, chú thu được quân phục của 160 lính Nguyên. Bây
giờ chú cho các Đại đởm mặc quân phục Nguyên. Mình đã có mật khẩu, mình di
chuyển trong trại Nguyên dễ dàng. Chú sẽ làm như thế... như thế ... thì tên
Thoát Hoan sẽ sợ đến té đái, vãi phân ra!
– Nhưng nguy hiểm quá!
– Nguy hiểm ư? Có hành sự như vậy đức Thái tông mới đặt cho cái tên Đại đởm.
Quốc Toản nói sẽ vào tai Thiên Sanh:
– Chú nhớ nhé, trong trướng của Thoát Hoan có hai người mà chú phải hết sức
cẩn thận, kẻo giết lầm.
– Chú biết rồi, một người là vợ của Thoát Hoan, một người là vợ của Lý
Hằng.
– Chú biết mặt hai người đó không?
Thiên Sanh chỉ vào Như Vân:
– Biết! Hai con nhỏ đó xinh đẹp không thua gì Như Vân đâu. Khác một điều là
chúng ca, múa, đàn, địch tuyệt vời và ăn quà như mỏ khoét. Hồi vương mẫu cháu đem
chúng vào Thục. Chú đã sống trong thành Điếu ngư cùng chúng một thời gian.
––––––––––––––––––––––––––––
(1) Bốc Nhan Thiết Mộc Nhi, Nguyên sử , An
nam truyện phiên âm là Bốc Nhan Thiết Mộc Nhi. Nguyên sử Thế tổ bản kỷ phiên âm
là Bột Nhan Thiết Mộc Nhi, tên Mông cổ là Buyan
Tămur đọc là Bu-y-an Tê-mua.
(2) Hốt Kha Nhi, Nguyên sử, Thế tổ bản kỷ phiên âm là Hốt Kha Nhi. Tên Mông cổ là Qugar,
(3). Bột la Cáp Đáp Nhĩ tên Mông cổ là Bolqada đọc là Bôn Kha Đa.
Nguyên sử An Nam truyện chép là Bột la Cáp Đáp Nhĩ. An nam chí lược phiên âm là Lý la hợp đáp nhĩ.
(4). Khiếp tiết là cấp bậc của tướng
chỉ huy Thị vệ của Hốt Tất Liệt. Tán Lược Nhi phiên âm từ tiếng Mông cổ là
Satartai đọc là Xa tác tai.
Phụ
lục.
Hịch
tướng sĩ
Kỷ Tín liều mình chết
thay để giải vây cho Cao Đế (4) ,
Do Vu lấy lưng đỡ giáo để che chở cho Chiêu Vương (5), Dự Nhượng nuốt than để
báo thhù cho chủ (6), Thân Khoái chặt tay để chết theo nạn nước (7), Kính Đức
(8) là một viên tướng nhỏ mà giúp đỡ Thái Tông thoát khỏi vòng vây của Thế
Sung, Nhan Khanh (9) là một bầy tôi ở biên viễn mà mắng chửi Lộc Sơn không chịu
theo bọn nghịch tặc ; xem như thế thì những người trung thần, nghĩa sĩ cì
nước liều mình đời nào chả có ; nếu những người ấy bo bo giữ thói thường
tình, thì làm gì có danh thơm ghi trong sử sách cùng với trời đất không bao giờ
mai một được ?
« Các ngươi ! Xuất thân là dòng dõi nhà tướng,
không hiểu rõ nghĩa lý trong sách, nay đã được nghe chuyện cổ trong bụng nửa
tin , nữa ngờ. Nay ta đem ngay việc nhà Tống, nhà Nguyên mới đây nói cho mà
nghe : Vương Công Kiên (1) là
người thế nào ? Tỳ tướng của ông ta là Nguyễn Văn Lập (2) là người thế
nào ? Giữ thành Điếu Ngư nhỏ mọn mà đương đầu với trăm vạn quân oanh liệt
của Mông Kha, làm cho dân nhà Tống đến nay vẫn còn đội ơn. Cốt Ngại Ngột Lang
(3) là người thế nào ? Tỳ tướng của ông ta là Cân Tu Tư (4) lại là người
thế nào ? Xông vào nơi đường xa nước độc, mà trong khoảng vài tuần đánh
bại được quân Nam Chiếu, làm cho vua quan Thát Đát tiếng thơm còn mãi đến giờ.
Huống chi, ta với các ngươi sinh ra trong buổi nhiễu nhương, trưởng thành trong
lúc đau khổ, nay trông thấy sứ thần của giặc đi rộn rịp ở ngoài đường uốn giọng
lưỡi cú vọ mà sĩ nhục triều đình (5), đem cái thân chó dê mà khinh nhờn Tể phụ
(6) ; dựa vào mệnh lệnh Hốt Tất Liệt (7) để đòi hỏi ngọc lụa (8), sách
nhiễu không biết thế nào là cùng ;
mượn uy quyền Vân Nam vương để bắt nộp bạc vàng, làm khánh kiệt kho tàng
hữu hạn ; không khác gì ném thịt cho hổ đói, làm thế nào mà thoát được tai
nạn về sau !
‘ Ta thường tới bữa quên ăn,, nữa đêm chưa ngủ, nước mắt
chứa chan, ruột đau như cắt, lúc nào cũng tức bực rằng chưa sẻ thịt, lột da, ăn
gan, uống máu chúng được.
‘ Nay ta soạn binh pháp các nhà, làm ra một bộ sách đặt tên
là Binh pháp yếu lược. Các người, nếu người nào biết chuyên tâm học tập sách
này, nghe lời ta dạy bảo, thế là tình nghĩa thầy trò muôn đời ; nếu người
nào vứt bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo, tức là kẻ thù muôn đời. Tại sao
vậy ? Bởi vì giặc Mông Thát với là kẻ thù không thể đội trời chung được,
nếu các người cứ lơ là không nghĩ đến việc rửa nhục cho nước, lại không luyện
tập quân lính, như thế là quay giáo xin hàng, tay không chịu chết, để đến khi
bình lỗ, xấu xa để đến muôn đời , thi còn mặt mũi nào đứng trong vòng trời
che đất chở này được ?
–––––––––
(1)
Kỷ Tín :Bầy tôi của Hán Cao Tổ Lưu Bang, khi Lưu Bang bị Hạng Vũ vây hãm ở thành Huỳnh Dương
rất nguy cấp, Kỷ Tín phải ăn mặc giả làm Lưu Bang xông ra mặt trận. Sau khi
Hạng Võ bắt được Kỷ Tín (Lưu Bang giả) Lưu Bang được thoát nạn, còn Kỷ Tín bị Hạng
Võ thiêu chết.
(2)
Do Vu tức Vương Tôn Do Vu, người thời Xuân Thu, bầy tôi nước Sở. Khi nước Sở bị chúa nước Ngô là
Hạp Lư đánh, Chiêu Vương nước Sở phải chạy đến Vân Mộng, trong lúc Chiêu Vương
nằm ngủ, có thích khách cầm giáo vào đâm, lúc ấy Do Vu ở bên cạnh, phải lấy
thân mình chịu giáo thay thế. Do Vu bị trúng vai, mà Chiêu Vương được thoát
nạn.
(3)
Dự Nhượng người thời Chiến quốc, bầy tôi Trí Bá. Trí Bá bị Triệu Tương tử giết. Dự Nhượng lập mưu giết Tương Tử để báo thù cho
Trí Bá. Hành thích lần đầu, bị bắt, được tha. Dự Nhượng lấy sơn trát vào mình
làm người hủi, nuốt than cho tiếng nói khác đi. Hành thích lần sau, laị bị bắt,
Dự Nhượng xin Tương Tử cho đánh vào cái áo để trả thù. Khi người nhà đem cái áo
của Tương Tử ra, Dự Nhượng nhảy lên kêu trời ba lần, vừa kêu vừa đánh vào cái
áo, rồi tự sát.
(4)
Thân Khoái người thời Xuân Thu, một viên quan coi giữ ao cá của Tề Trang
Công. Trang Công
bị Thôi Trữ giết, Thân Khoái tự tử chết theo.
(5) Kính Đức, tức Uất trì Kính Đức, người đời
Tùy Đường, một tướng mạnh của Đường Thái tông (Thế Dân). Kính Đức có biệt tài tránh gươm giáo, thường một mình cưỡi ngựa xông
vào trận địa của giặc. Giặc tập trung giáo lại đâm, Kính Đức đã không bị thương,
lại còn cướp giáo giặc để đâm giặc. Đường Thế Dân đem năm trăm quân ra trận địa,
bị Vương
Thế Sung đem
hơn vạn quân ập đến bao vây. Đơn Hùng Tín cầm giáo đuổi đâm Thế Dân, Kính Đức
phóng ngựa lại đâm Hùng Tín ngã ngựa, làm cho quân của Thế Sung tan vỡ, Thế Dân
thoát được vòng vây.
(6)
Nhan Khanh là Nhan Cảo Khanh, bầy tôi nhà Đường. Thời đại Đường Minh Hoàng, An Lộc Sơn làm phản,
lúc ấy Cảo Khanh làm Thái thú Thường Sơn mang quân đánh Lộc Sơn, quân thua bị
bắt. Lộc Sơn dụ Cảo Khanh đầu hàng. Bị Cảo Khanh mắng lại :Ta là bầy tôi
nhà Đường, vì nước đánh bọn phản nghịch, ta giận rằng không chém được đầu
mày. Lộc Sơn sai đem hành hình, đến lúc gần tắt thở vẫn còn mắng chửi Lộc
Sơn.
(7)
Vương
Công Kiên, tướng
nhà Tống trấn thủ Điếu ngư. Xin xem các hồi 81 đến 88, trong AHĐA–GTHT này.
(8)
Nguyễn Văn Lập, tướng phụ trấn Điếu ngư. Xem hồi
81-88, trong AHĐA–GTHT
này.
(9)
Cốt Ngại Ngột Lang, tức Ngột Lương Hợp Thai, đại
công thần Mông cổ, con của thân vương Tốc Bất Đài. Y là Thái sư Mông cổ, đem quân
đánh Đại việt lần thứ nhất (1257), bị đánh bại.
(10)
Cân Tu Tư, tiên phong của Ngột Lương Hợp Thai, có công
đầu trong việc đánh Đại lý. Bị tử trận.
(11) Bài hịch nhắc lại việc sứ nhà Nguyên là
Sài Thung, khi vào đến cửa Dương Minh vẫn ngoan cố, không xuống ngựa ;
khi Thượng tướng Trần Quang Khải đến sứ quán tiếp, Sài Xuân vẫn nằm dài không
dậy.
(12)
Tể Phụ là những viên quan, quyền cao, chức trọng, giúp vua điều khiển công việc trong cả nước.
(13)
Thế Tổ nhà Nguyên tên Hốt Tất Liêt.
(14)
Bài hịch nhắc việc, Mông Cổ sai sứ sang bắt nước ta, phải hàng năm cống nộp
tiền tệ, sau lại sai sứ thần là Lương Tăng sang
dụ vua Nhân Tông sang chầu, nếu không sang phải nộp vàng ngọc thay thế và cống nộp người
hiền tài, mỹ nữ, thợ v.v….
Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét