HỒI THỨ CHÍN MƯƠI BA
Móng vuốt bọn mãi quốc
Ghi chú:
Thát Đát là một bộ
tộc dũng mãnh không đội trời chung với Thành Cát Tư Hãn, sau bị Mông cổ đánh
chiếm, đồng hóa. Dân chúng Hoa Nam, Đại Việt không
phân biệt được Mông cổ với Thát đát, thường dùng từ Thát đát để gọi quân
Nguyên. Kể từ hồi này chúng tôi dùng từ Thát đát để gọi Nguyên.
Vua Thái tông băng,
vua Thánh tông nhường ngôi cho con, sau là vua Nhân tông. Vua Nhân tông tôn phụ
hoàng Thánh tông lên làm Thượng hoàng. Kể từ hồi này: danh từ Thượng hoàng để chỉ
vua Thánh tông. Các phi của vua Thánh tông đều thăng lên Thái phi. Vì vậy các
Thái phi của vua Thái tông đổi thành Cao Thái phi.
Tại tòa Tổng trấn
Kinh hồ, hôm ấy, vào buổi trưa, thị vệ báo với Hành Sơn vương:
– Có hai kị mã tên Sơn
Đức, Sơn Cao xin cầu kiến.
Ý Ninh giật mình:
– Hai em này thuộc đội
Mê linh kiếm trận, được cử theo hộ tống cho Thái bảo Tạ Phương Đắc. Hôm trước
Yết Kiêu nói: sau khi thái hậu, nhà vua hàng Nguyên. Tạ bỏ về vùng Quảng. Mới đây
Tạ ứng nghĩa Cần Vương cùng Lục Tú Phu, Trương Thế Kiệt phò tá Vệ vương
lên ngôi, hiệu là Tường Hưng (đế Bính). Sao hai em lại về đây?
Sơn Đức, Sơn Cao y
phục xốc xếch, đầu tóc bơ phờ, mặt nhợt nhạt, bước vào. Vương phi hỏi:
– Hai em! Cái gì đã
xẩy ra!
– Nguyên xuất đại
quân hơn 20 vạn, chia làm 4 mũi tấn công triều Tống tại Quảng đông. Tể tướng Trương Thế Kiệt, Lục Tú Phu đem
quân chống trả. Quân tan, các tướng hầu hết tử trận. Hai em dùng hết khả năng
cứu được thầy Tạ Phương Đắc, đưa thầy về quê, rồi lên đây tìm sư tỷ.
– Còn triều đình ra
sao?
– Hai Tể tướng Lục
Tú Phu, Trương Thế Kiệt đem
nhà vua cùng nội cung, triều đình lui đến Nhai sơn thì trúng phục binh của Trương Hoằng Phạm. Trương Thế Kiệt sai đội thiết
đột cản hậu, rồi cho tất cả xuống chiến thuyền, định chạy ra ngoài đảo lánh
nạn. Nhưng Nguyên đem một hạm đội hùng hậu tấn công. Quân Tống liều chết phá được
vòng vây, thì bão ập đến. Chiến thuyền Tống bị vỡ, bị chìm gần hết. Giữa lúc đó
thủy quân Nguyên trở lại bao vây. Tể tướng Lục Tú Phu ra lệnh cho gia thuộc
nhảy xuống bể tự tử trước, rồi ôm hoàng đế Tường Hưng tự tử sau. Nội cung, triều đình, binh tướng cùng
nhảy xuống bể cả. Mười ngày sau, hơn mười vạn xác chết nổi lên, trong đó có xác
chết của hoàng đế Tường Hưng, hai Tể tướng. Nhưng không thấy thi thể Dương Thái hậu*. Hai em trải
muôn vàn khó khăn mới thoát về đây cáo với sư tỷ.
Địa Lô lấy ra một
hộp thuốc, trao cho Sơn Đức:
– Hai em vào nghỉ.
Thuốc đây, mỗi ngày các em uống ba lần, mỗi lần một viên. Chỉ trong vòng 5 ngày
thì phục hồi sức khỏe.
Hành Sơn vương thiết
lập bài vị tế hoàng đế Tường Hưng với Lục Tú Phu, Trương Thế Kiệt.
Ghi
chú,
* Do bão thổi, thi hài Tống hậu trôi dạt sang biển Đại việt.
Dân chúng vớt được, làm lễ mai táng rất hậu. Sau này dân chúng vùng Phúc kiến,
Quảng đông, Việt Nam lập nhiều đền thờ Tống hậu. Ngài rất linh. Hồi 1975-1990,
người Việt, người Hoa tại Việt Nam, khi ra khơi đánh cá, khi vượt biển thường
thắp hương khấn Tống hậu để được che chở thoát bão, thoát bị hải quân bắt và
thoát hải tặc.
Chúng tôi sưu tầm được gần 40 đền lớn nhỏ thờ Tống hậu.
Ngay tại xã Quần phương trung, huyện Hải
hậu, tỉnh Nam định cũng có một đền thờ ngài rất khang trang, gọi là đền thờ Chánh
hậu, dân chúng gọi tắt là đền Chánh. Trong thời gian bài trừ tín ngưỡng dị đoan
(1975-1990), đền bị phá đi.
Tôi xin cử ra đây ba đền lớn, được thư tịch cổ VN chép:
1. Đền thứ nhất: Dương
Quý phi từ,
Xin đừng lầm Dương quý phi này với Dương quý phi của vua
Minh Hoàng đời Đường. Đền ởÛ Hưng yên. Thần tích chép: vào thời Thiệu Bảo đời
vua Trần Thánh tông (1279-1284) có người Tống tên Du đến làm nhà trên bãi cát.
Du lập đền thờ Dương quý phi. Dân chúng tụ đến ngày một đông lập ra Hoa Dương châu. Sau châu này hợp với thôn Nhân dục thành xã Hoa Dương. Đến đời Thiệu Trị, vì kiêng húy chữ Hoa, đổi thành Hương Dương
rồi Mậu Dương.
Theo lời kể của Du, ông là nội thị triều Tống đế Bính (Tường
Hưng). Quân Nguyên đánh, nhà vua chạy ra biển Nhai sơn. Vua cùng thái hậu, phi
tần đều nhảy xuống biển tự tận. Du bám vào một thanh gỗ, gió thổi trôi vào một
bãi biển vùng Bình định ngày nay. Một hôm ông mơ thấy Dương thái hậu từ dưới đáy biển hiện lên nói rằng: bà với em là Dương quý phi được Thượng đế cho làm thần biển. Bà được cai
quản cửa biển tới Hoàn châu. Còn Dương quý phi thì cai quản ở xứ Sơn nam. Thái hậu
bảo ông đến huyện Kim động, phủ Khoái châu mà hỏi thăm tin tức. Du theo thuyền
buôn đến châu Hoan, cửa Cờn (Nghệ an) đã thấy đền thờ ở đấy. Du lạy, khóc lóc.
Dân chúng thương tình cấp hành lý, cho tiền đi Sơn nam. Đến huyện Kim động, Du
dò hỏi, dân chúng thuật trước đây có thi
thể một phu nhân trôi dạt vào. Thế là ông cư trú, lập đền thờ, lập ra thôn Hoa
dương.
Tài liệu: đều bằng chữ Hán
Hưng yên tỉnh nhất thống chí,
Hưng yên tỉnh danh tích lược biên.
Đại nam
nhất thống chí,
Bắc
kỳ giang sơn cổ tích danh thắng bị khảo.
2. Đền thứ nhì Càn hải từ.
Thường gọi là đền
Cờn ở cửa Cờn hải (Càn hải), nơi sông Hoàng mai đổ ra biển. Còn gọi là đền
Thánh mẫu, thuộc xã Phương cần huyện Quỳnh lưu, tỉnh Nghệ an. Thời Trần kiêng
chữ Càn đổi thành Cần.
Cuối niên hiệu Trùng
hưng ( 1278-1279) quân Tống bị quân Nguyên đánh ở Nhai sơn. Vua đế Bính (Tường
Hưng) đem cung quyến lên thuyền chạy ra biển. Nguyên đem thủy quân đuổi theo.
Nhà vua cùng cung quyến, quần thần nhảy xuống biển.
Tử thi Dương thái
hậu và công chúa trôi dạt vào cửa Cờn, huyện Quỳnh lưu, sắc mặt vẫn tươi như người
sống. Dân chúng thương xót chôn cất rồi lập am thờ. Hậu rất linh. Khi dân chài
ra khơi gặp gió lộng, cầu xin đều được che chở không bị gió lật, sóng vùi.
Vua Trần Anh tông đem
quân đánh Chiêm, khi qua cửa Cờn, đêm mơ
thấy một nữ thần khóc lậy:
“Thần là cung phi
nhà Tống, bị giặc bức bách, gặp sóng gió trôi dạt tới đây. Được Thượng đế cho
làm thần. Nay bệ hạ đem quân chinh phạt,
xin theo lập công“.
Vua gọi các bô lão hỏi sự thực, làm lễ kính tế
rồi lên đường. Sóng yên bể lặng, quân tiến tới Chà bàn, thắng lớn. Khi chinh
phạt trở về, vua sai quan Chính ty lập đền thờ, bốn mùa cúng tế. Phong cho làm:
Đại Càn quốc gia Nam hải tứ vị thánh nương.
Sự việc này xẩy ra
vào tháng 6 niên hiệu Hưng long thứ 20 (1312).
Thời Lê, vua Lê Thánh tông đem quân đánh Chiêm thành, khi qua đây có vào cầu đảo,
thắng lớn. Lúc hồi loan, thuyền ngự đã qua cửa Biện, thì gió lớn thổi lên, buồm
thuyền theo gió quay trở lại ngay trước cửa đền. Vua sai tu bổ đền, gia phong
phẩm trật cho thần. Ban chỉ đổi xã đó là xã Hồi chu (tức thuyền quay lại).
Trong Việt diện u linh và Lĩnh nam
chích quái có ghi thêm chi tiết khác
với thần tích: hoàng hậu vợ vua Tống và hai công chúa .
Hoàng việt dịa dư
chí ghi thêm một bà nhũ mẫu. Cả ba tài liệu đều kể thêm: khi thuyền đắm, ba mẹ
con Tống hậu bám vào mảng ván trôi dạt vào bãi biển hoang vắng. Cả ba còn sống,
được nhà sư trụ trì chùa gần đó cứu giúp chu cấp thức ăn, y phục. Mấy tháng
sau, sức khỏe hồi phục, dung nhan Tống hậu trở lại xinh đẹp. Nhà sư động lòng trần muốn tư thông. Bị cự tuyệt. Nhà
sư xấu hổ gieo mình xuống biển chết. Tống hậu khóc rằng:
“Chúng ta nhờ sư mà
sống. Nay sư vì ta mà chết, thực không đành lòng“.
Cả ba tự tử chết.
Tài liệu:Đều bằng chữ Hán
ĐVSKTT
Việt diện u linh,
Lĩnh nam chích quái,
Thiên nam vân lục,
Hoàng việt nhất
thống địa dư chí,
ĐNNTC,
Hoàng việt địa dư
chí,
Đồng Khánh địa dư
chí,
Địa dư chí,
An nam hình thắng đồ,
Nam việt địa dư chí,
Hoàn vũ ký,
Các tỉnh địa dư chí,
Nghệ an, Hà tĩnh sơn thủy vực.
3. Đền thứ ba:Tống hoàng
thái hậu từ.
Đền ở xã Ngải am,
huyện Vĩnh bảo, tỉnh Hải dương (nay thuộc
Hải phòng). Đền thờ hoàng thái hậu Tống (mẹ của đế Bính).
Đế Bính bị quân
Nguyên đuổi đánh, đem cung thất xuống thuyền tại Nhai sơn chạy ra biển. Bị thủy quân Nguyên đuổi kịp, vua
cùng thái hậu, cung thất nhảy xuống biển tự tử. Một mái tóc của thái hậu dạt
vào bờ biển Ngải am, đẩy mãi không ra xa. Dân chúng vớt lên chôn, rồi lập đền
thờ. Niên hiệu Vĩnh Thịnh triều Lê, (1705-1719) thần phù trợ cho Quế quận công đắp
được con đê ngăn nước mặn. Quận công tâu về triều, vua phong làm thượng đẳng
thần.
Tài liệu:Đều bằng chữ Hán
Bắc thành địa dư chí
lục,
Đồng Khánh địa dư
chí lược.
ĐNNTC.
Hành Sơn vương than
với vương phi:
– Triều Tống không còn nữa! Đó là lẽ
vô thường của nhà Phật. Những chức tước Tống phong cho mình, mình lưu lại trong
tâm là đủ. Bây giờ mình trở lại với những gì của Đại việt.
Vương cho hạ cây cờ đại
kỳ Tống, soái kỳ Hành Sơn đại vương Trần xuống cho kéo cây cờ Đại việt với soái kỳ:
Đông a Vũ Uy đại vương
Vương cho mời chư tướng
của hai hiệu binh Thiệu Hưng, Văn bắc lại họp. Vương nói:
– Chúng ta sang đây
là vì Tống triều. Nay thái hậu, Đức Hựu (Cung Tông), chư đại thần đều hàng
Nguyên. Ba hiệu binh của Tống là Tương giang, Trấn nam, Quảng châu phái sang
tiếp viện cho Văn thừa tướng, đều trở cờ hàng giặc. Triều đình cuối cùng với
hoàng đế Tường Hưng bị hại tại Nhai sơn. Các tuyên vũ sứ, các quan phủ đều đã
hàng Nguyên, nhận chức tước của Nguyên. Ta có chiến đấu cũng vô ích. Vậy không
biết Phùng tướng quân nghĩ sao?
Phùng Tập rơi nước
mắt:
– Không ngờ anh em Hoa kiều chúng tôi tuy
vạn dặm xa quê hương, bỏ cha mẹ, vợ con,
bỏ đời sống thanh nhàn ở Đại việt, trở về trợ Tống, mà mệnh trời không còn phù
Tống nữa, thì chúng tôi xin trở về Đại việt. Dù sao thì Đại việt cũng là quê hương
thứ nhì của chúng tôi.
Nhưng sáng hôm sau,
gia nhân của Phùng Tập cùng bốn tướng chỉ huy bốn quân của hiệu Thiệu Hưng đến
cáo với vương: đêm qua Trấn Bắc thượng tướng quân, Linh viễn đình hầu. Cùng 4
Quân trưởng được phong chức Uy viễn tướng quân. Tước Thiện tâm bá đều uống
thuốc độc tự tận. Năm người để di chúc lại: xin được theo Thái hậu, hoàng đế Tường
Hưng, các vị Tể tướng Lục Tú Phu, Trương Thế Kiệt để tỏ
nghĩa trung với Tống triều. Chư tướng xin được an táng tại cửa sông Tương, để ngày ngày được thấy hồ Động đình.
Vũ Uy vương
cùng vương phi, Dã Tượng, Yết Kiêu, các tướng trâu đến tư gia chư tướng thăm
hỏi, rồi truyền làm lễ an táng Phùng Tập theo tước vương, các quân trưởng theo
tước Công. Đem di hài chôn ngay đầu sông Tương, nơi tiếp giáp với hồ Động đình.
Có chỉ dụ
của triều đình Đại việt gửi qua:
“ Bọn Toa Đô đem quân đánh Chiêm thành. Quân Chiêm bất lợi.
Chiêm vương sai sứ sang cầu viện. Vậy hãy điều một trong hai hiệu binh Thiệu Hưng,
Văn bắc, rút về đổ lên Nam giới. Tại đây các tướng Chiêm sẽ đón tiếp. Tránh dàn
quân đánh với bọn Nguyên. Cần phân chia thành từng bách phu, ẩn vào dân chúng không
cho bọn Nguyên chiếm lương thảo“.
Vương ban
chỉ:
– Phùng hầu
cùng các quân trưởng đã tuẫn tiết. Vậy Yết Kiêu với 4 tướng trâu thay thế. Cô
gia dùng thủy quân chở toàn thể hiệu binh Thiệu Hưng vượt Trường giang ra biển
về Đại việt. Cô gia đã sai chim ưng báo cho đại đô đốc thủy quân là HưngVũ vương Quốc Nghiễn biết. Vương
sẽ sai chiến thuyền đi đón rồi đưa vào vùng Nam giới. Tại Nam giới triều đình đã
thành lập Trợ Chiêm sát Đát hành doanh,
do Hưng Nhượng vương Quốc Tảng làm Nguyên soái. Cô gia cũng đã sai chim ưng báo cho Hưng
Nhượng vương biết. Vương sẽ tiếp đón, an trí cho gia đình tướng sĩ. Việc tiến
quân vào Chiêm sẽ do Hưng Nhượng vương điều động.
Yết Kiêu
hỏi:
– Cháu nghe
nói đại đô đốc là Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư.
Sao bây giờ lại là Hưng Vũ vương?
Vũ Uy vương
thoáng một nét buồn:
– Đây là vết nhơ trong nhà ta. Khánh Dư là con
của Minh Huệ vương Trần Phó
Duyệt.
– Cháu biết!
Vương phi Ý
Ninh giảng giải:
– Minh Huệ vương Trần Phó Duyệt là con
của thái tổ thúc Trần Thủ Huy. Là em cùng cha khác mẹ với Trung Vũ đại vương Thủ Độ. Mẹ là người
Tống, vương sinh ra ở Mông cổ, thâm nhiễm cái phong hóa mọi rợ của vùng Thảo
nguyên. Sau về nước theo Nguyên tổ Trần Lý đi dẹp giặc có đại công. Vương tuẫn
quốc khi Khánh Dư mới 3 tuổi. Phụ hoàng thương tình nhận Dư làm
con, đem vào nuôi trong cung. Vì vậy khi Dư
lớn lên mới được phong Nhân Huệ vương, chức võ là Phiêu kị đại tướng
quân. Dư là người có tài cầm quân, võ công cực cao, nhưng thiếu đức. Tham dâm,
hiếu sắc, tham nhũng. Từng cưới Bạch Hoa, một ca kỹ khét tiếng Thăng long làm
tỳ thiếp. Hiện Bạch Hoa là Nguyên phi của Chí Nguyên hoàng đế. Thời Nguyên
Phong, khi Mông cổ vào nước, Dư được trao cho trấn vùng Tây Thăng long, thắng
Mông cổ liên tiếp mười trận. Hồi chúng ta tổ chức học Binh thư yếu lược, Vạn kiếp tông bí truyền thư, Dư là người
phụ trách giảng dậy. Sau đó được trao cho một trong ba chức biên cương
trọng thần.
Phi chỉ vương:
– Biên cương
có ba chức quan trọng. Một là Tây cương trao cho Vũ Uy vương. Hai là Đông cương
trao cho Hưng Ninh vương. Ba là Đại đô đốc
trấn thủ vùng biển, trao cho Dư. Hồi còn niên thiếu ở trong cung, y từng sống
gần công chúaThiên Thụy. Nay công chúa đã được gả cho Hưng Vũ vương. Trong dịp về
Thăng long dự buổi thiết triều, y vào nội cung thăm nhũ mẫu là một cung tần,
gặp đúng lúc công chúa cũng vào cung vấn an thái phi. Anh em gặp nhau vui vẻ, y cho rằng công chúa
thuận tình. Y đè công chúa ra đòi làm truyện trên bộc, trong dâu. Công chúa tri
hô kêu cứu. Y bị bắt. Luật bản triều về truyện trai gái thông dâm rất khắt khe.
Dâm phu, dâm phụ đều bị án tử hình. Y bị kết tội đánh bằng trượng cho đến chết.
Thượng hoàng nghĩ đến công lao, tài năng của y, dặn hình quan đánh nhẹ tay,
không đến nỗi chết. Y bị lột hết chức tước, tịch thu điền sản. Cũng may ấp phong
của Minh Huệ vương ở Chí linh vẫn còn. Y về đó theo bọn tiều phu đốn củi đốt
than làm kế sinh nhai. Chức Đại đô đốc được trao cho Hưng Vũ vương.
Vương ra
lệnh cho Dã Tượng:
– Cháu dùng
thủy quân chở hiệu Văn bắc dọc theo Tương giang, rồi về đóng tại Khâu bắc, Văn
sơn, Chiêu dương như cũ.
Vương ban lệnh cho Địa
Lô:
– Cháu chuẩn bị bàn
giao cho các quan Nguyên cử tới, rồi đem bộ tham mưu của mình đi bằng đường
thủy vượt Trường dang ra biển, về Thăng long. Tuyên thái phi, Trung Thành vương, hoàng hậu
Hồng Liên, công chúa An Tư, Quốc Toản sẽ về cùng cháu. Yết Kiêu với 4 tướng
trâu đặt dưới quyền Lô, cho tới khi về tới nước.
Tuyên thái phi hỏi:
– Vợ chồng con sang
Nguyên với tư cách sứ đoàn hay làm con tin?
– Thưa mẹ chú Hoảng
bây giờ là thái thương hoàng. Chú ấy ban chỉ cho con sang Nguyên làm con tin.
Con tin thì đỡ ràng buộc hơn sứ nhiều. Con sẽ mang đội Mê linh kiếm trận, đội
kị mã Long biên theo.
– Các con đi bao giờ
thì về?
Ý Ninh cảm Động:
– Thưa mẹ, Nguyên
triều hiện gồm hơn trăm sắc tộc khác nhau. Truyền thống của Mông cổ là dùng người
không phân biệt chủng tộc. Vì vậy họ trong dụng người Hán, mà dân Hán ở Trung nguyên
theo họ. Họ dứt Tống dễ dàng. Theo như Bạch Liên, Đại Hành, Hồng Nga thì Hốt
Tất Liệt rất yêu tài vợ chồng con. Ông ấy sẽ trao cho chúng con nhiều chức vụ
quan trọng. Vì thế mà chú Hoảng muốn chúng con sang làm con tin, làm quan, sẽ
có lợi cho Đại việt. Nên chúng con đi kỳ này ít ra thì dăm ba năm, lâu thì
không chừng cả đời. Bé Quốc Toản xin mẹ
gửi tới Thần quang tự cho Vô Huyền bồ tát dạy dỗ.
Vương tiếp lời phi:
– Trẻ con thì khó xa
cha mẹ. Nhưng từ khi mẹ lên đây, bé không rời bà nội nửa bước. Nó lại thám mẹ
sữa Vương Chân Phương, nên tuy có
xa vợ chồng con mà bé không đến nỗi nhớ nhung quá đáng.
Hai hiệu binh Thiệu Hưng, Văn bắc chuẩn bị lên đường. Sự kiện 5 vạn quân di
chuyển muốn rung động trấn Trường sa.
Có sứ Nguyên vượt sông sang xin yết kiến Hành Sơn vương. Sứ thần
là Phiêu kỵ đại tướng quân A Truật cùng
vợ là Hồng Nga. Vương sai mời vào trướng. Vương phi biết A
Truật sang đây để chiêu hàng. Phi nói:
– Chắc Chí Nguyên hoàng đế sai đại tướng quân với phu nhân sang đây để dẫn đường
chúng tôi về Đại đô phục mệnh phải không?
A Truật vái dài:
– Khải vương gia, vương phi; sứ giả sang Đại việt, thượng hoàng ban chỉ: đã
sai huynh trưởng là Vũ Uy vương sang làm con tin. Vì vậy Chí Nguyên hoàng đế
sai chúng tôi sang mời vương gia. Người
ban chỉ: đúng ra theo lễ cầu hiền, người phải làm xe Bồ luân nghênh đón.
Nhưng đường xa diệu vợi, xe Bồ luân không đủ chắc chắn cho hành trình dài. Người
sai chọn một chiến mã cực khỏe của Đại uyển để vương gia đi. Người lai sai đóng
một cỗ xe phượng để nghênh đón vương phi.
A Truật tiếp:
– Tôi xin đi sứ để có dịp cảm tạ vương gia, vương phi đã tác thành duyên
giai ngẫu, tôi có người vợ sắc nước hương trời, ca múa đẹp như tiên, thông minh
hơn nam tử.
Nói rồi y mở ra ba cái hộp. Đó là một hộp sâm Cao ly với 20 củ thái tử sâm, một hộp đương quy, một
hộp nhung:
– Biết rằng vương gia còn mẫu thân cao niên, nên vợ chồng tôi dâng chút ít
phương vật tiến vương gia, để vương gia báo hiếu.
Vũ Uy vương đã từng được các quan
Tống tặng vàng ngọc, nhưng vương không thích, nên nhận mà không cảm động. Hôm
nay A Truật tặng những dược phẩm trân quý để dâng mẫu thân. Vương đứng dậy chắp
tay vái một vái:
– Đa tạ tướng quân đã cho quà để Duy
này báo hiếu mẫu thân.
Vương nói thực chậm:
– Thượng hoàng Đại việt đã ban chỉ, Duy sang Nguyên làm con tin. Duy phải
tuân theo. Xin tướng quân về bên sông đem các văn võ quan sang, Duy sẽ bàn giao
thành, bàn giao đất, rồi mới lên đường được.
Khi được sai đi sứ, A Truật tuyệt không bao giờ nghĩ rằng được Vũ Uy vương
chịu đi làm con tin. Vì sứ đoàn trước do Thoát Hoan sang, đi không lại về không
trong cái bẽ bàng. Bây giờ y đi sứ, không lấy gì làm quan trọng cho lắm. Thế mà
không nhữngVũ Uy vương chấp thuận quá dễ dàng, mà còn chuẩn bị trao thành trao đất
cho, như các tướng Tống đầu hàng nữa. Y nhìn vợ, tự hỏi:
– Có thực không? Hay mình nghe lầm?
Vũ Uy vương nói với A Truật:
– Tôi hiện được coi như quốc vương vùng Kinh hồ. Sáu điều mà hoàng đế
Nguyên ban tôi xin tuân. Tôi với vương phi sẽ đem một sứ đoàn
sang sông đi Đại đô chầu hầu. Việc kê biên dân số thì tôi đã có sẵn, mời tướng
quân và các vị bồi sứ lên thư phòng tôi sẽ trao cho.
Vũ Uy vương, Địa Lô mời A Truật với ba bồi sứ cùng lên thư phòng để thực
hiện việc trao sổ đinh, sổ thuế của vùng Kinh hồ.
Lợi dụng dịp này, Hồng Nga nói với Ý Ninh:
– Từ khi khám phá ra vụ Vương Văn Thống làm nội gián, rồi Bắc liêu bị xụp đổ, Chí Nguyên bắt đầu nghi ngờ lòng trung
của những người không thuộc Thảo nguyên. Sau vợ của Đô Ngột Nhi tâu rõ rằng Trung Thành vương, chị Hồng Liên làm nội gián cho Đại Việt, tất cả
những gì hai người ấy làm, mục đích dùng Bắc liêu chống Nguyên. Khi Đô Ngột Nhi
theo Nguyên, hai người đó làm cho lực lượng Bắc liêu tan nát, khiến Nguyên không
còn gì. Chí Nguyên kinh hoàng dùng mấy Hãn gốc Thảo nguyên họp nhau định kỳ một
tháng ba lần rà soát lại lý lịch cùng hành động của các văn quan võ tướng người
Hán, người Hồi cương, người Tây vực dĩ nhiên cả các phu nhân chư tướng không phải
gốc Mông cổ. Em nghe phong phanh, hai tên thân vương khả ố Đại Việt là Vuông,
Tròn thường cung cấp tin tức cho Khu mật viện Nguyên. Nếu như hai tên này cáo
giác việc Đại Việt gửi các em sang Mông cổ thì e tính mệnh em với chị Bạch Liên khó toàn.
Ý Ninh an ủi:
– Hồi anh Nhật Duy viện Tống trở về, đã cáo sự việc hai tên Vuông, Tròn với
thượng hoàng, hoàng đế, cả hai hết sức theo dõi, nhưng chưa tìm ra một chi tiết
nào về hai tên này. Vả việc gửi các em sang Mông cổ nhà vua giữ hết sức bí mật. Rất ít thân vương biết.
Trong 7 chị thì một là chị Hoàng hiện ở trong nước, chị hai là Bạch ở Đại đô,
ba là chị Huyền ở Hoa lâm với A Lý Bất Ca, bốn là chị Thanh đã băng hà, năm là
chị Hồng hiện ở đây đang chuẩn bị về Đại việt. Sáu, bẩy là hai chị Tử, Lan hiện
đang sống với chồng ở Long lý hà. Còn năm con bé Đông hoa thì Thanh Nga đang
cùng chồng ở Đại lý, Thúy Nga đã cùng các con về Đại việt sống, Thúy Hồng với
em đang ở đây, Thúy Trang đang làm hoàng hậu Nãi man. Rút cuộc nếu truyện vỡ lở
thì bằng mọi cách em với chị Bạch tìm cách chạy về Đại việt như chị Hồng Liên.
– Thưa chị không dễ đâu! Chị Bạch không con thì dễ, chứ em một nách 4 con
thì sao trốn nổi?
– Vậy thì thế này, ngay bây giờ, việc em với chồng đi sứ thành công. Chồng
em đang vui, em xin phép chồng đem con về Đại việt thăm nhà. Đợi sóng gió qua
rồi trở về Nguyên.
– Lát nữa trong bữa tiệc chị gợi ý cho em.
– Ừ!
Vương sai làm tiệc đãi sứ đoàn. Tuyên thái phi từng là thầy dậy của Hồng
Nga. Phi dành cho vợ chồng nàng một buổi tiếp đãi riêng. Trong buổi tiếp có cả
Thúy Hồng, người bạn chí thân trong ban Đông hoa. Để cho con, cháu thêm kiến
thức, phi bầy một bàn cạnh bàn tiếp sứ, cho An Tư, Quốc Toản, bốn anh em họ
Triệu cùng ăn.
Hồng Nga, Thúy Hồng là bạn học trời thơ ấu ở phường Đông hoa, rồi được Vũ
Uy vương tuyển theo sứ đoàn. Hồng Nga trở thành vợ A Truật, do sứ của Ngột Lương Hợp Thai cầu hôn với triều đình Đại việt. Còn Thúy Hồng
trở thành vợ của Dã Tượng. Từ khi chia tay tại Côn minh, trải mười mấy năm, bây
giờ hai người gặp lại nhau. Có biết bao nhiêu biến cố đã đi qua. Hồng Nga nắm
tay Thúy Hồng:
– Em nghe nói chị được một Bồ tát thu làm đệ tử, công lực cao thâm khôn lường.
Đến đệ nhất dũng sĩ Mông cổ là Quốc uy đại tướng quân Ô Mã Nhi cũng bị chị đánh
rơi kiếm trong trận Thảo trường. Chị thực tài quá.
Thúy Hồng than:
–Trong 5 đứa thì hai đứa mình tụ hội đây rồi không chừng mai này sẽ đánh
nhau.
A Truật hiểu tiếng Việt. Y nói:
– Không có đâu! Nếu như sau này chiến tranh xẩy ra giữa Nguyên với Việt,
thì A Truật này cương quyết từ chối đem quân sang Đại việt. Hồi trước thân phụ
với A Truật từng đánh Đại việt, bị bại. Đã được Đại việt mở vòng vây cho về,
rồi lại gả Hồng Nga cho. Đại việt đại lượng đến thế là cùng. Nên A Truật với
phụ thân thề quyết không bao giờ sang đánh Đại việt nữa. Con người phải có chút
liêm sỉ chứ!
Hồng Nga chợt thấy Quốc Toản, nàng hỏi Ý Ninh:
– Chị ơi! Cháu Quốc Toản đây hả?
Ý Ninh bảo con:
– Con mau ra mắt cô đi!
Quốc Toản khoanh tay:
– Cháu xin tham kiến cô!
Quốc Toản hỏi Chân Phương:
– Má má ơi! Cô này đẹp quá. Thế cô
có biết hát như cô Thúy Hồng không?
– Có! Cô hát hay lắm.
Hồng Nga nắm lấy tay Quốc Toản:
– Cháu tôi đẹp trai thế này thì sau e sẽ bị đàn bà làm cho gian truân.
Nàng tháo sợi dây vàng, trên móc tượng Phật Di Lặc đeo vào cổ Quốc Toản:
– Cô tặng con tượng Phật Di Lặc, để ngài ban phúc cho con.
Tiệc được bầy ra. Tuyên thái phi ngồi chủ vị tiếp khách. Phi không biết nói
tiếng Hán, tiếng Mông cổ. Thành ra trong sứ đoàn, phi chỉ nói truyện được với A
Truật, Hồng Nga thôi. Mỗi khi các bồi sứ hỏi, Quốc Toản lại dịch cho bà nội.
Thấy Quốc Toản dịch nhanh, chính xác, Hồng Nga khen:
– Cháu giỏi thực.
Quốc Toản nói:
– Mỗi khi bà nội ra chợ Trường sa, cháu phải theo bà. Cháu vừa là tai, vừa
là miệng của bà. Cô ơi! Cháu nghe nói cô có 4 con. Vậy các em có biết nói tiếng
Việt không?
– Không!
– Sao vậy! Tiếng mẹ đẻ mà không biết nói thì buồn nhỉ. Hay cô đem các em về
quê mình, ông bà ngoại sẽ dạy các em nói tiếng Việt như chú A Truật.
Ý Ninh hỏi A Truật:
– Hồng Nga là người cực kỳ hiếu thảo. Hồng Nga tuân chỉ hoàng đế Đại việt
sang làm dâu Mông cổ, khi đi thì 18 tuổi, bây giờ 38 tuổi rồi. Lúc đi là một cô
gái tươi như hoa, bây giờ là mẹ của 2 trai, 2 gái. Tướng quân nên nghĩ tình
vợ chồng cho Hồng Nga dẫn con về thăm
ông bà ngoại mấy tháng. Vợ chồng Trần Quốc Kinh, Thúy Hồng sẽ hộ tống đi, về.
Hiện Đại việt đã nhận phái đoàn Đạt lỗ
hoa xích của Nguyên. Hồng Nga là phu nhân tước Công, lĩnh Phiêu kị đại tướng
quân của Nguyên về Đại việt ắt được đón tiếp trọng vọng lắm.
A Truật cực kỳ kính trọng, sủng ái vợ. Vì vậy tuy cầm quân trọng trấn, mà
không bao giờ y nạp thứ thiếp. Bây giờ trước
đề nghị của Ý Ninh, một ân nhân. Y cung kính:
– Đa tạ phi đã nhắc nhở. Sau việc ở đây, Truật sẽ chuẩn bị vàng ngọc, ngựa xe
đưa 4 trẻ với Hồng Nga sang sông, về Đại việt cùng Quốc Kinh huynh.
Quốc Toản nói với An Tư:
– Cô ơi! Nếu con của cô Hồng Nga về Đại việt mình sẽ có thêm bốn người nữa. Cô dậy chúng
con nói tiếng Việt. Cô Thúy Hồng dậy chúng con
hát, dạy chúng con tụng kinh niệm Phật. Vui lắm cô nhỉ.
Bữa tiệc vui cho tới khuya. Hôm sau sứ đoàn A Truật trở về trong niềm vui
cực kỳ.
Hơn tháng sau, có sứ từ Bắc ngạn
sang báo:
– Ngày mai, đệ thập hoàng tử của Chí Nguyên hoàng đế cùng tiểu triều đình sẽ sang bàn giao với Hành Sơn
đại vương.
Vương phi Ý Ninh hỏi:
– Hoàng tử thứ 10 tên là gì? Năm nay bao nhiêu tuổi?
– Người có tên Hán là Thành Tâm, tước phong Trường sa vương. Năm nay 21
tuổi. Mẫu thân là người vùng Trường sa. Cho nên các quan trong vương phủ Thành
Tâm hầu hết là người vùng Trường sa, Hồ
nam.
Thế rồi sứ với Địa Lô thảo luận về lễ nghi, thủ tục trong buổi bàn giao.
Thỏa thuận 9 điều. Trong sử gọi là Mông Thát cửu tỏa (chín cái khóa của Mông
cổ, Thát đát). Xin dịch nguyên văn:
1– Tất cả các
quan văn võ của vùng Kinh hồ được toàn quyền
quyết định, hoặc từ chức, hoặc ở lại. Nếu từ chức thì sẽ được lĩnh 6 tháng bổng. Khi về quê sống, các tân quan của Nguyên
không được nại lý lịch làm quan với Tống ra để kiếm truyện. Nếu ở lại được thăng
lên một cấp. Cả hai trường hợp ruộng, đất đã cấp phát, vẫn được giữ nguyên.
2– Kể từ ngày hai vương
bàn giao, trên toàn vùng Kinh hồ sẽ dùng luật Nguyên thay luật Tống.
3– Toàn vùng được
tha thuế một năm. Tha tất cả thuế thiếu những năm trước.
4– Tha tất cả tù, dù
thành án hay chưa.
5– Phàm những người
tài trí, các quan tại Hành tỉnh phải tâu về triều. Triều đình cứu xét tùy tài năng
bổ nhiệm.
6– Mọi lễ nghi tôn
giáo, phong tục địa phương vẫn giữ nguyên.
7– Tiền của Tống được
lưu hành thêm một năm. Ngay lập tức những người có tiền Tống, được quyền đến
các phủ, huyện, trấn đổi ra tiền Đại nguyên.
8– Các trường dậy văn
của làng-xã, phủ, huyện, trấn vẫn giữ nguyên chương trình học. Tuy nhiên các
thầy dậy được tăng lương gấp đôi. Việc thi cử giữ nguyên như thời Tống.
9– Các trường dậy võ
giải tán ngay kể từ ngày hôm nay. Thay vào đó những trai tráng từ 18 đến 35
tuổi sẽ được Tuyên vũ sứ tùy theo hoàn cảnh gọi đến các trấn luyện tập binh bị.
Những ngày luyện tập sẽ được nuôi ăn, phát vũ khí, y phục. Trai tráng nào có
tài, có thể lực tốt, được gửi đến các đạo
binh huấn luyện tạo thành kị binh, thành thập phu trưởng. Sau khi thọ huấn được
bổ nhiệm vào các đạo quân của các Hành tỉnh hay quân của hoàng đế.(1)
Ngay khi sứ của Trường sa vương sang sông, thủy quân nhổ neo. Hai hiệu binh
Thiệu Hưng, Văn bắc xuống thuyền rời Trường sa. Trong hạm đội chở hiệu Thiệu Hưng
có năm chiến thuyền lớn, do Địa Lô chỉ huy. Trên các chiến thuyền có Tuyên thái
phi Mai Đông Hoa, Trung Thành vương, hoàng hậu Hồng Liên, công chúa An Tư, Trần Quốc
Toản. Hồng Nga và 4 con. Bốn anh em họ
Triệu con của Kinh Nam đại vương Triệu Phương, là Triệu Nhất, Triệu Trung, Triệu Hòa và Triệu Ngọc Hoa; Yết Kiêu,
Vương Chân Phương; Cao Mang, Kha Li Đa; cùng gia thuộc của mọi người. Số người lên tới
hơn ba nghìn.
Trước khi khởi hành
một tháng, ngày nào Vũ Uy vương, vương phi cũng
dặn dò, dạy võ cho Quốc Toản . Hôm nay trước lúc lâm biệt, vương phi dặn
con:
– Năm nay con đã 11
tuổi. Hồi mới sinh, con đã được phong tước
Hoài Văn hầu, nhưng vì tuổi còn nỏ, triều đình chưa ban cho con chức văn, chức võ. Aáp phong của con là Hàm
tử. Đây là vùng trù phú, dân cư đông đúc. Đợi năm con 13 tuổi, triều đình sẽ
trao chức văn, võ cho con. Bố mẹ tuy không ở trong nước, nhưng bố vẫn là đại vương,
mẹ vẫn là trưởng công chúa. Mẹ được hưởng 300 mẫu ruộng. Mẹ cho tá tiền cấy rẽ,
thu tô rất nhẹ. Khi về nước con giữ nguyên những gì mẹ đã thiết lập giúp dân
nghèo, không nên đổi. Lãnh thổ Vũ Uy của
bố là toàn vùng Khâu bắc, Chiêu dương, Văn sơn. Mà ba vùng này đã là ấp phong
của Dã Tượng, Địa Lô, Cao Mang. Trong gia đình, ba người thuộc
vai anh con. Đối xử với
các anh phải lễ độ. Bây giờ con thay bố trong việc quản trị, phải tế nhị lắm
mới được.
Vương dặn con:
– Về võ công, bố đã
dốc túi truyền cho con. Mẹ đã dạy con nội công âm nhu và pho Mê linh kiếm pháp.
Tuy nhiên con còn nhỏ, thời gian luyện không bao nhiêu, công lực chưa đạt được
hai thành. Vậy sáng, chiều con phải cần cù luyện. Nếu gặp phó khăn thì con tới
Thần quang tự yết kiến thái sư phụ là Vô Huyền bồ tát, con sẽ được giảng dạy kỹ
hơn.
Vương phi giảng cho
Quốc Toản chi tiết việc vương, vương phi tạo ra 5 nàng Đông hoa, rồi gửi sang
Mông cổ. Sau triều đình gửi 7 nàng Tô lịch. Gần đây phi lại gửi 10 nàng Ngọc sang
nữa. Cuối cùng phi giảng cho Quốc Toản biết trong hoàng tộc có hai con rắn, âm
thầm phản bội giòng họ, phản bội xã tắc, âm thầm bán đứng đất nước, xui Nguyên đem
quân qua, sẽ làm nội ứng để được Nguyên phong cho làm An nam quốc vương. Mới đây
Bạch Liên lấy được hai bức thư của hai tên Vuông, Tròn. Phi dặn con:
– Mẹ trao cho con
ống thư này. Khi về tới Thăng long, con nhờ bà nội dẫn con vào nội cung. Đích
thân con trao ống thư này cho thượng hoàng, hoặc hoàng đế Thiệu Bảo; căn cứ vào
bút tích, truy tầm ra hai tên khả ố Vuông, Tròn đem giết đi, để trừ hậu hoạn.
Quốc Toản tỏ ra thông
minh:
– Mẹ nên báo cho thượng
hoàng hay hoàng đế niết trước, thì khi con đưa ống này ra các người mới tin.
– Mẹ đã trù liệu. Mẹ
cho chim ưng báo về cho thượng hoàng rồi!
Phi lấy thanh kiếm Đông
a mà thượng hoàng ban cho Quốc Toản khi phong tước Hoài Văn hầu, trên có chữ:
Ngự tứ thượng
phương bảo kiếm.
Hoài Văn hầu
Trần Quốc Toản
Phi tháo chuôi kiếm
ra, làm một cái chuôi bằng đồng, bỏ 2 mảnh lụa do hai tên Vuông, Tròn viết vào
trong chuôi, rồi bọc lớp bạc ra ngoài. Phi dặn con:
– Khi về Thăng long,
yết kiến thượng hoàng, tâu xin người cưa cái chuôi kiếm ra, mà lấy cái ống
trong đựng hai chiếc khân hồng, vàng. Đó là bút tích của hai tên thân vương Vuông, Tròn. Một điều tối
quan trọng mẹ cần cho con biết. Khi con mới
sinh ra, bố me đã đính ước với cô Thanh Nga, chú Ngột A Đa, sau này cô ấý sẽ gả con gái cho con. Vậy
nếu con có gặp những duyên tình nào thì phải từ chối, vì việc trăm năm, cha mẹ đã
định rồi.
Rồi cái ngày chia
tay cũng đến, Vũ Uy vương, vương phi đứng trên bến, nhìn đoàn thuyền trôi về hạ
lưu. Phải xa Quốc Toản, vương phi cố cầm nước mắt để không làm cho con đau đớn.
Bây giờ phi không giữ được nữa, òa lên
khóc.
Hai vị trở về tòa
Tổng trấn, chuẩn bị hôm sau, khi bàn giao rồi sẽ lên đường đi Đại đô.
Một
trang sử lật qua.
Lênh đênh trên biển hơn tháng, đoàn chiến thuyền đã đi vào hải phận Đại
việt. Bấy giờ bộ tư lệnh hải quân Đại việt đóng ở Tiên yên. Cách đây hơn tháng
Vũ Uy vương đã sai chim ưng báo về căn cứ Tiên yên. Nên đoàn thuyền vừa vào
vịnh Hạ long thì hơn mười chiến thuyền đã dàn ra chờ đợi. Soái thuyền ghé vào
thuyền của thái phi. Một võ quan nhảy sang, vào khoang hành lễ:
– Thần Đô thống Võ Văn Sáu, thống lĩnh hạm đội Bạch đằng tuân chỉ Hưng Vũ vương
kính ra mắt Tuyên thái phi. Xin chờ chỉ dụ của thái phi.
Địa Lô nói với Sáu:
– Tất cả thuyền vừa trải qua hành trình dài. Xin đô thống cho cập bến để tiếp tế nước ngọt, lương thực, rồi sẽ về
Thăng long. Còn những chiến thuyền chở quân xin Đô thống dẫn đường tới trấn
Thanh Hóa. Hưng Nhượng vương sẽ chỉ định nơi đồn trú cho hiệu binh Thiệu Hưng.
Võ Văn Sáu đưa ra một trục giấy:
– Hưng Nhượng vương đã hội với Hưng Vũ vương. Hai vị quyết định cho hiệu
Thiệu Hưng đổ bộ lên vùng biển Nghi sơn, Biện sơn thuộc trấn Thanh hóa rồi di
chuyển tới đồn trú tại Nam giới. Nam giới là vùng đất mầu mỡ, giáp biển có
nhiều hải sản, rất thuận tiện cho binh sĩ vừa trấn thủ biên giới vừa canh tác vừa
đánh hải sản.
Sáu đưa ra một trục giấy:
– Đây là lệnh chỉ của Hưng Ninh vương.
Các thuyền đều được dẫn vào cảng thủy quân. Quốc Toản đang ở tuổi chạy,
nhảy, bây giờ phải ngồi trong khoang với bà nội suốt một tháng. Trong tháng đó nó được Địa
Lô dạy những lý thuyết y học, áp dụng vào khí công, ngoại công như: học thuyết
âm dương, học thuyết ngũ hành, học thuyết kinh lạc, học thuyết tạng phủ, nên
cũng không đến nỗi chán nản.
Tuyên thái phi dẫn cháu lên khoang thuyền nhìn vào bờ. Quốc Toản hỏi:
– Bà ơi mình về tới nước mình rồi phải không?
– Đúng đó.
– Trong bờ kia là Thăng long hay Thiên trường?
– Thăng long, Thiên trường còn hơn một ngày nữa mới tới. Đây là trấn Tiên
yên.
Thuyền cập bến. Đám trẻ An Tư, Quốc Toản, Triệu Nhất, Triệu Trung, Triệu
Hòa, Ngọc Hoa, 4 con của Hồng Nga được lên bờ. Chúng reo lên vui mừng.
Hưng Vũ vương, vương phi ra tiếp đón thái phi tại bến cảng. Từ bến cảng tới
dinh khá xa. Vương phi là công chúa con của vua Thái tông, thái phi là mẹ trẻ
của công chúa. Phi cũng là thầy dậy nhạc cho công chúa, nên hai vị có nhiều kỷ
niệm, nhiều thâm tình.
Hưng Vũ vương là trưởng nam, Yết Kiêu là dưỡng tử của Hưng Đạo vương. Hai
anh em gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Yết Kiêu không dùng vương lễ, mà dùng gia
lễ. Vương Chân Phương nắm lấy tay vương
phi:
– Cách đây mấy năm được tin công chúa hạ giá với Quốc Nghiễn. Nhưng đường
Thăng long tới Trường sa, xa vạn dặm. Anh chị muốn gửi quà về mừng đám cưới hai
em mà không được.
Vương phi cảm động:
– Em cũng chia buồn với chị về vụ bá phụ bị Hốt Tất Liệt hại. Cũng như vụ
Liêu đông bị phá. Thôi thì chị nên coi Đại việt như quê hương thứ nhì.
Hưng Vũ vương phi truyền làm tiệc mời Tuyên thái phi, gia đình Yết Kiêu
v.v.
Tiệc tàn, công chúa An Tư xin thái phi cho đám trẻ đi một vòng phố chợ.
Thái phi ban chỉ cho đám trẻ:
– Nhà mình lấy dân làm gốc, vậy các con xem phố chợ phải hết sức lễ phép
với người già, nhũn nhặn với dân chúng nghe.
Đám trẻ gồm 10 người là An Tư, Quốc Toản, 4 anh em họ Triệu, 4 con của Hồng
Nga; do hai Thị vệ dẫn đường vào phố chợ. Hưng Vũ vương phi là chị ruột của
công chúa An Tư. Phi tát yêu An Tư rồi trao cho một xâu tiền:
– Em cầm tiền này theo, lỡ ngã vào hàng bánh đa còn đền người ta.
Trong 10 trẻ thì ba anh em họ Triệu đã trên 13 tuổi. Thời bấy giờ 13 tuổi
là tuổi trưởng thành. Ba người đều đeo kiếm. Nhớ lời mẹ dặn: thanh Thượng phương
bảo kiếm là của ông nội ban cho. Chuôi
có đựng mật thư, Quốc Toản đeo kiếm theo.
Trường sa với Đại việt quá khác nhau. Đối với đám trẻ, cái gì cũng mới,
cũng lạ cả. Nhất là hoa quả và hàng quà. Cái gì chúng cũng hỏi làm hai viên Thị
vệ cứ phải luôn miệng giải thích.
Có tiếng rao lớn:
– Phơ ơ ơ ở.
Triệu Nhất hỏi bằng tiếng Hoa:
– Quốc Toản! Họ rao gì vậy?
– Mình không biết. Huynh hỏi cô An Tư đi.
An Tư đáp:
– Phở là món ăn dân dã rất ngon. Giống mì ở Trường sa. Có nhiều loại phở:
phở gà, phở bò. Phở bò lại chia ra phở tái, phở chín, phở tái nạm, phở tái sách
v.v.
Triệu Trung hỏi:
– Có phở cá, phở lợn không?
– Hình như có đấy, nhưng không ngon, nên chả ai làm phở lợn, phở cá cả.
Bên kia đường của gánh phở, có hai con ngựa đang gặm cỏ. Ông hàng phở mời:
– Các cô các cậu xơi phở đi. Một đồng một bát nhỏ. Một đồng rưỡi một bát
lớn. Phở gà trứng non thì hai đồng một bát.
Đám trẻ vừa ăn cơm xong, nhưng sau khi đi nửa vòng phố, bụng đã vơi vơi.
Mùi nước dùng thơm nực bốc lên, đám trẻ nuốt nước bọt liên tiếp.
Quốc Toản đề nghị:
– Chúng ta ăn phở đi.
Triệu Nhất sờ túi:
– Chúng mình không có tiền Việt, lấy gì trả cho nhà hàng?
An Tư vỗ túi:
– Chị tôi có trao cho tôi một xâu tiền đây. Xâu tiền tới 100 đồng. Chúng ta
tha hồ ăn.
Nhà hàng bán phở có ba người. Một người đàn ông, một người đàn bà và một đứa
trẻ. Phở được nấu trên một cái xe, xe treo thịt bò đỏ hỏn, một con gà luộc đã
tiêu thụ một nửa. Nhanh nhẹn đứa trẻ kéo ghế, xếp hai bàn lại, thành 10 chỗ. Mười
đứa trẻ ngồi xuống. An Tư thành thạo nói với hai Thị vệ:
– Này hai huynh! Mời hai huynh xơi
phở với chúng tôi nghe.
– Đa tạ công chúa ban thưởng.
An Tư nói với ông hàng phở:
– Chúng tôi có 10 đứa nhỏ, hai người lớn. Cho chúng tôi mười bát phở tái
chín nhỏ.
Nàng chỉ vào hai Thị vệ:
– Hai bát lớn cho hai vị này.
Nhà hàng làm phở rất nhanh. Không đầy một khắc 12 bát phở đã bầy ra. Được ăn món lạ
miệng, đám trẻ xì xụp thoáng một cái đã
hết. Đâu đó có tiếng hát. Một người đàn ông kéo nhị, một người con gái đánh
trống mảnh, tới trước đám trẻ:
– Mời các cô các cậu nghe hát.
An Tư hỏi:
– Hai người hát điệu gì nào?
– Điệu gì chúng tôi cũng biết hát. Mỗi bài cô cậu cho chúng tôi năm đồng.
– Được! Xin hát cho chúng tôi nghe một bài theo điệu Quan họ.
Người đàn ông kéo nhị, người con gái đánh trống mảnh. Cô nàng cất tiếng
hát. An Tư kinh ngạc, vì nàng từng nghe mẫu thân cũng như các ca nhi của triều đình
hát. Đó là những giọng hát điêu luyện, mà sao tại ngôi chợ biên trấn này lại có
người hát dạo giọng tốt không thua gì ca nhi hoàng cung!
Bài hát vừa dứt, An Tư móc túi đưa ra 10 đồng:
– Tôi trả tiền cho hai người năm đồng, thưởng cho 5 đồng nữa.
Người đàn bà tiếp tiền. Thình lình bà ta cầm cây củi đun phở đang cháy dở
quét vào chân Quốc Toản. Kinh hoảng Quốc Toản tung mình lên cao, thì nhanh như
chớp người đàn ông tung ra cái túi chụp Quốc Toản vào trong. Hai Thị vệ quát
lên một tiếng, vung đao tấn công hai con hát. Người đàn ông đưa cái túi ra đỡ đao.
Hai Thị vệ kinh hoảng thu đao về, thì hai người con hát tung mình lên hai con ngựa gần đó rồi ra roi.
Hai con ngựa vọt lên như bay. Hai Thị vệ chạy theo được mấy bước, nhưng ngựa đã
đi xa.
Bị chụp vào trong túi, ngựa phi vù vù. Biết nguy hiểm, Quốc Toản dùng tay
chọc thủng vải, định xé cái túi ra thì hầu thấy trong túi có mùi thơm thơm, rồi
mê man không biết gì nữa.
Cứ như vậy không biết bao nhiêu lâu, Quốc Toản từ từ tỉnh dậy, thấy mình
nằm trên một cái giường gỗ, chăn chiếu sạch
sẽ. Bốn góc có bốn con hạc bằng đồng. Trên mỗi lưng hạc, một ngọn nến to hơn cổ
tay chiếu ánh sáng khắp phòng. Trong phòng còn một cái án thư, trên để đầy
sách. Thanh Thượng phương bảo kiếm dựng trên cái án thư. Hầu moi trí nhớ lại:
mình đi chơi ở phố chợ Tiên yên, đang ăn phở thì có cặp trai gái đến hát, rồi mụ
đàn bà cầm thanh củi đang đun phở quệt vào chân Hầu. Hầu vọt mình lên tránh thì
bị gã đàn ông tung ra cái túi chụp hầu vào trong. Trong túi có thuốc mê, làm
cho hầu bị mê không biết gì. Hầu nghĩ thầm:
– Bọn này bắt ta với mục đích gì, ta chưa biết, nhưng chúng đã nghiên cứu
kỹ về ta. Chúng biết mặt ta. Chúng biết võ công ta cao, nên dùng củi phóng vào
chân, khiến ta nhảy lên rồi tung túi chụp ta. Ta phải bình tĩnh.
Có tiếng bước chân người lại gần, cửa mở. Gã đàn ông bước vào. Gã chính là
người tung túi bắt hầu tại chợ Tiên yên. Gã cười:
– Hoài Văn hầu! Hầu có biết tôi là ai không?
– Ta biết mi là tên hèn nhát, dùng thủ đoạn ám toán bắt ta. Mi muốn gì?
– Hầu đừng vội nổi nóng. Hầu nói đúng. Tôi là đứa nô bộc hèn hạ, được chủ
nhân sai mời hầu về đây với mục đích gì tôi
không biết. Hầu mê man đã nửa ngày, một đêm chắc đói lắm rồi phải không? Nô tài
xin mời hầu xơi cơm đã. Nô tài tên là Kiến Đao.
Một thiếu nữ mở cửa bước vào, tay bưng cái khay. Trên khay có đĩa giò, một đĩa
chả trứng, một bát cá nấu ám, một liễn cơm. Thị lễ phép để khay xuống bàn, rồi
ra ngoài.
Gã nô bộc chỉ khay cơm:
– Thỉnh hầu dùng bữa.
Nói rồi y ra khỏi phòng, có tiếng lách cách. Cửa bị khóa lại. Quốc Toản
biết mình có nổi nóng cũng vô ích. Hầu đến bên cái bàn, xới cơm vào bát rồi cầm
đũa ăn. Bụng đói, Hầu ăn rất ngon. Aên xong hầu đi lại trong phòng suy nghĩ:
– Chúng bắt ta với mục đích gì? Eùp cha mẹ ta phải tuân phục điều kiện do
chúng đưa ra chăng? Bọn này không thể là bọn Nguyên. Dù bọn Nguyên có tài đến đâu
cũng không dám tổ chức bắt cóc ta ngay trên đất Việt này. Vậy bọn bắt ta hẳn là
bọn gian, có thế lực. Ta phải bình tĩnh.
Có tiếng mở khóa, Kiến Đao bước vào:
– Thỉnh hầu đi gặp chủ nhân tôi!
Nói rồi y tỏ ý mời hầu đi trước. Quốc Toản đeo thanh Thượng phương bảo kiếm
lên hông ra khỏi căn nhà, phóng mắt nhìn: đây là ngôi trang trại nằm dưới chân
một ngọn núi. Trang trại rộng mênh mông. Ngôi nhà giam hầu là một căn nhà nhỏ. Phía
trước, một dinh thự lớn cao tới bốn tầng. Phía trái có hơn mười dẫy nhà, phía
phải có 20 dẫy. Ngôi dinh thự kiến trúc rất lạ, hơi giống một ngôi chùa. Bốn
tầng có 4 mái cong chồng lên nhau. Hai
bên hông của dinh thự là hai cái ao nhỏ. Trong ao có một đàn ngỗng đang bơi. Vườn
cảnh trước dinh trồng rất nhiều hoa, cây cảnh tỉa cắt rất công phu. Phía trái
của dinh là một cái cổng, có cửa tam quan, có lính gác. Xa xa có mấy khu sân
rộng. Thấy ba con ngựa chiến đang gặm cỏ trong sân, Quốc Toản nghĩ:
– Mình phải tìm cách tẩu thoát mới được.
Nghĩ là làm, hầu giả vờ vấp vào một mô đất, rồi ngã lăn đi hai vòng, nằm
oằn oại không ngồi dậy được. Gã Kiến Đao
kinh ngạc hỏi:
– Sao! Sao vậy?
Gã cúi xuống định nâng hầu dậy. Chỉ chờ có thế, Hầu phóng tay điểm đến véo một tiếng vào ngực y. Y
ngã lăn ra. Để ăn chắc, hầu điểm thêm vào các huyệt đại trùy, khúc trì, dương lăng
tuyền của y. Người y cứng như khúc gỗ. Hầu
tung mình lên con ngựa đang ăn cỏ, dùng chân thúc vào bụng nó. Hầu điều khiển
cho ngựa chạy ra cổng. Tên binh gác cổng cầm đao trấn ở cửa. Y hô lớn:
– Dừng lại.
Rồi y vung đao tấn công hầu. Hầu nghiêng người dùng một chiêu cầm nã thủ, đoạt thanh đao dễ
dàng, rồi ném ra xa. Ngựa ra khỏi trang trại. Trước trang trại là con đường
rộng. Bất biết đường đi đâu, hầu thúc ngựa phi về phía trái. Hầu nghĩ thầm:
– Kẻ bắt cóc ta khám phá ra tên Kiến Đao bị điểm huyệt ắt cho bộ hạ đuổi
theo. Vậy ta nên rẽ vào đường nhỏ.
Phi khoảng chục dặm có con đường rẽ, hầu cho ngựa chạy vào. Nhìn xa xa thấy
phía trước có ngọn núi thấp. Dưới chân núi có ngôi đền đài. Hầu ruổi ngựa chạy
tới. Cổng đền có chữ 7 đại tự:
Đại cồ Việt Đinh
Tiên hoàng từ.
Xuống ngựa, hầu nhủ thầm:
– Thì ra đây là vùng Hoa lư. Mẹ ta thường nói: đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng ở dưới chân núi Long triệu, thuộc trấn Trường yên. Đây
là ấp phong của Đại Hành. Ta phải tìm đại tư, để ông ấy đưa ta về Thăng long.
Dù sao ta cũng đã biết mình đang ở đâu.
Thấy một thiếu niên xuống ngựa, ông từ cung kính hỏi:
– Cậu đi ngoạn cảnh hay lễ đức vua?
Quốùc Toản hỏi:
– Ông ơi! Tôi là em họ của Tuyên uy đại tướng quân Côi sơn hầu Đại Hành. Tôi muốn gặp đại tư của người.
– Cậu thực may mắn!
Phu nhân của hầu đang lễ đức vua ở đây. Tôi xin báo cho phu nhân.
Nói rồi ông vào
trong, lát sau một thiếu phụ trẻ ra hỏi:
– Em là anh em thế
nào với anh Đại Hành? Sao chị chưa gặp em bao giờ.
Quốc Toản hỏi:
– Có phải chị khuê
danh là Cẩm Nhãn không? Trước đây chị bán bánh tôm ở Hồ tây phải không?
– Đúng như em nói.
– Em có tin tức của
anh Đại Hành cho chị. Nhưng không nói ở đây được.
Cẩm Nhãn vẫy tay gọi
hai con hầu:
– Thôi chúng ta về
nhà đi.
Quốc Toản dắt ngựa
theo Cẩm Nhãn đi vào trong trang. Dinh của Đại Hành không lớn, nhưng khá đẹp.
Vào nhà, Quốc Toản thuật lại tất cả những gì Đại Hành đã làm ở Mông cổ, bây giờ
ở Đại đô. Hầu tóm lược thân thế mình, rồi thuật lại vụ bị bắt cóc.
Cẩm Nhãn than:
– Người chủ trương
bắt cóc em chắc chắn không phải là bọn Nguyên, mà là bọn gian. Chúng bắt cóc
em, để làm áp lực với Vũ Uy vương, cũng có thể với triều đình. Em dùng ngựa tới
đây, thì chúng tìm ra em ngay.
– Em cũng nghĩ thế.
Có thể một trong hai tên thân vương Vuông, Tròn đã
hành động. Chúng sợ em về Thăng long sẽ cáo với thượng hoàng, với nhà vua nên
chúng phải bắt em. Nếu đúng như vậy chúng sẽ giết em để tuyệt hậu hoạn.
– Chưa chắc. Có khi
chúng bắt em, để áp lực với song thân em, không được tố giác việc làm của
chúng.
– Nhưng bố mẹ em
cũng chưa biết chúng là ai.
Nói đến đây hầu chợt
nhớ:
– Mẹ ta đã bỏ hai
tấm lụa vào một cái ống bạc. Trong ống đựng 2 tấm lụa có bút tích của hai tên
Vuông, Tròn. Vì vậy chúng bắt ta để lấy hai tấm lụa đó, hầu phi tang. Nếu như
ta bị chúng tra khảo, ta nói khi đi trên biển, ống đó bị rơi mất rồi.
Nhưng hầu kinh
hoảng:
– Mẹ ta làm việc này
chỉ có ba người biết là bố ta, mẹ ta, ta. Thì sao hai tên Vuông, Tròn biết mà đón
đường bắt ta?
Cẩm Nhãn hỏi:
– Nơi em bị giam có
phải ở giữa là một ngôi dinh thự 4 tầng không?
– Thưa chị đúng.
– Lạ nhỉ. Chỗ ấy là
một trường học rất lớn tên là Lạn kha.
– Trường này dạy gì
vậy?
– Trường dậy cả văn
lẫn võ. Nguyên vào thời Lý, thủa hàn vi, Linh Nhân hoàng thái hậu được hai vị
Bồ tát Viên Chiếu và Minh Không thu làm đệ tử. Nên ngài lấy khu đất ở dưới chân
Côi sơn, xây một ngôi chùa 4 tầng cúng dàng, làm nơi thanh tu cho hai ngài.
Phía sau chùa ngài xây một giếng cạn, sâu đến 5 trượng (10 m), đường kính rộng 4 trượng, dưới giếng có những hang động
để hai vị nhập thiền. Gần đây triều đình biến nơi này thành một trường học.
Trong khuôn viên xây đến mấy chục dẫy nhà làm nơi ăn ở cho học sinh. Trường
chia làm 4 khoa: văn, võ, binh bị, cai trị. Trường thường trực hơn 2 nghìn học
sinh.
Cẩm Nhãn nhăn mặt:
– Tại sao em lại bị
bắt giam vào trường Lạn kha? Tước của em là hầu, là con của một đại vương uy
quyền nghiêng nước, mẹ tước phong công chúa. Chị nghĩ có thể đây là việc tranh quyền
trong hoàng tộc. Vậy chị đề nghị em tới An phủ sứ Trường yên, xin hộ tống về Thăng
long, thì trắng đen rõ rệt.
Vừa lúc đó có ba
tiếng trống, rồi một hoàng nam vào cung tay với Cẩm Nhãn:
– Thưa phu nhân, có
một ngũ thị vệ tới cổng xin vào trong trang bắt một tên gian tế Nguyên. Họ xin
yết kiến phu nhân.
– Cho họ vào.
Ngũ trưởng thị vệ
hành lễ:
– Tiểu nhân tên
Trịnh Long, thuộc đội thị vệ của tòa tổng trấn Trường yên. Thưa phu nhân! Bọn
Nguyên gửi Tế tác sang ta. Chúng bắt cóc Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản, giết
chết, quẳng xác xuống biển. Bây giờ chúng cho một tên Tế tác giả làm hầu. Y bị
tòa Tống trấn Trường yên bắt giam. Y vượt ngục, ăn cắp ngựa rồi chạy đến đây.
Y chỉ con ngựa Quốc
Toản cỡi:
– Thưa phu nhân, đây
là con chiến mã mà tên nhãi Nguyên ăn cắp.
Y chỉ Quốc Toản:
– Tên nhãi Tế tác là tên này.
Quốc Toản cãi:
– Nói láo. Ta là
Hoài Văn hầu!
Hầu rút thanh Thượng
phương bảo kiếm ra:
– Đây là kiếm của tổ
Thái tông ban cho ta.
Trịnh Long không chờ
cho Quốc Toản nói hết. Y vẫy
tay, bọn thị vệ xông vào bắt Quốc Toản.
Nhấp nhô một cái Quốc Toản đã rút kiếm gạt
thanh đoản đao của một thị vệ, chít một tiếng, thanh đoản đao bị tiện
làm hai. Hầu tung mình ra sân. Trịnh Long vọt theo. Y cầm cây côn sắt tấn công
hầu. Quốc Toản quát lớn:
– Thị vệ! Các người
tuân lệnh ai mà dám bắt ta? Ta là con của Vũ Uy vương, tước phong Hoài Văn hầu.
Cái tên nào sai anh em bắt ta mới chính là kẻ gian.
Nghe Quốc Toản nói,
lại thấy hầu xử dụng võ công Đông a chính tông, đám thị vệ không dám tấn công
hầu. Trịnh Long bổ một côn vào đầu Quốc Toản. Hầu dùng kiếm đỡ. Chít một tiếng,
cây côn bị tiện đứt. Tên Trịnh Long
luống cuống với nửa cây côn thì gã Kiến Đao tới. Y hừ một tiếng rồi xuyên tay vào, y đã đoạt được
kiếm của Quốc Toản. Y điểm huyệt hầu. Thị vệ trói hầu lại. Y nói:
– Tên Tế tác con.
Nếu mi là con của Vũ Uy vương, thì mi hãy đi theo ta về Thăng long gặp các vị
trong hoàng tộc thì trắng đen rõ rệt.
Trịnh Long nói với
Cẩm Nhãn:
– Xin phu nhân tiểu
tâm. Hiện bọn Nguyên gửi nhiều Tế tác sang ta. Khi thì chúng xưng là hoàng
thân, quốc thích. Khi thì chúng xưng là anh em họ hàng với quân hầu. Khi gặp
những tên này, phu nhân sai hoàng nam bắt giải về trấn hoặc về huyện ngay, để ở
đây sẽ phân biệt chân giả.
Tên Kiến Đao trói
Quốc Toản lại, giam vào cái cũi, trên cỗ xe. Bọn Trịnh Long theo hai bên xe.
Kiến Đao cười khì khì:
– Cậu bé! Không ngờ
cậu còn nhỏ tuổi mà mưu, trí võ công đã hơn đời. Mỗ sơ hở một chút, mà bị cậu điểm
huyệt. Nhưng cậu ơi, cậu không thể hiểu tại sao, cậu chạy xa như vậy mà ẫn bị
mỗ truy ra, rồi bắt cậu. Chắc cậu ấm ức lắm thì phải? Cậu tự kiêu là con một vị
vương tài trí nhất Đại việt. Nhưng cậu đã bị lọt vào tay chủ nhân mỗ thì tính
mạng cậu không đáng giá bằng con gà, con chó. Bây giờ mỗ sẽ giam cậu với thú
rừng, để cậu hết cái kiêu khí đi.
Xe vào trang trại, rồi rẽ về phía chân núi xa
xa. Có tấm bảng:
Đây là cấm địa
nguy hiểm. Bất cứ người, thú vật nào vào đây sẽ bị chết oan.
Đị khoảng ba dặm, Kiến Đao chỉ vào một bức tường
bằng đá cao khoảng một trượng:
– Đây là nơi mà Linh Nhân hoàng thái hậu xây để cúng dàng
cho Bồ tát Minh Không luyện công. Chủ nhân mỗ ưu ái cho cậu ở, biết đâu cậu
không thành Bồ tát?
Bức tường đá hình
tròn đường kính ước hơn 4 trượng, bên trong là một cái giếng sâu ước 5 trượng.
Giếng không có nước. Bờ giếng bằng đá nhẵn bóng. Giữa giếng có tượng một con trâu,
một người đàn ông, một người đàn bà và 10 người con trai.
Hai tên Thị vệ thả
xuống cái thang bằng dây. Kiến Đao nhắc Quốc Toản lên, rồi theo thang dây xuống
đáy. Y cởi trói cho hầu:
– Chủ nhân mỗ giam
cậu vào đây, thì dù cậu có bản lãnh nghiêng
trời lệch đất cũng không ra khỏi cái giếng này. Trừ khi cậu tìm được bộ Lĩnh
Nam vũ kinh, rồi luyện thành công.
Thấy Kiến Đao không đề
phòng, Quốc Toản vận công, phát chiêu Đông hải lưu phong đánh vào ngực y. Binh
một tiếng, chưởng trúng ngực y. Y cười khà khà. Còn Quốc Toản cảm thấy trời
long đất lở, tai phát ra tiếng vo vo không ngừng. Kiến Đao cười đểu:
– Cậu học được mấy
cái múa mèo cào mà định đánh mỗ ư? Khó lắm. Nếu cậu thắng được mỗ, thì mỗ sẽ
thả cậu ra ngay.
Biết bản lĩnh mình
muôn ngàn lần không bằng đối thủ, Quốc Toản cãi:
– Ta mới 11 tuổi,
thời gian luyện tập không làm bao thì đương nhiên võ công ta không bằng mi.
Kiến Đao chỉ vào ba
thiếu niên đứng trên bờ giếng:
– Nếu mỗ đấu với cậu
thì chẳng hóa ra lớn bắt nạt nhỏ ư? Thôi, trên kia mỗ có ba tên đệ tử. Một tên
học sơ cấp, một tên học trung cấp, một tên học cao đẳng. Nếu như cậu có thể
thắng được ba tên học trò này thì mỗ sẽ thả cậu ra. Tên chúng là Cả, Hai, Ba.
Y hướng lên gọi:
– Ba người xuống đây.
Ba thiếu niên theo
thang dây xuống giếng. Kiến Đao chỉ vào tên nhỏ nhất:
– Thằng Ba. Mi hãy
nói cho tên ôn con Tế tác Nguyên biết rằng bản lĩnh của y vô dụng.
Thằng Ba bái tổ,
hành lễ rồi cười:
– Tên Nguyên kia! Chơi
với ta một keo đi.
Quốc Toản nghĩ thầm:
– Ta đường đường là
hầu tước! Ta không thể nói như bọn đầu đường xó chợ.
Hầu bái tổ rồi phát
chiêu Phong ba hợp bích trong Đông a chưởng tấn công. Thằng Ba cũng phát chiêu
chống lại. Bộp một tiếng, cả hai đều
bật lui. Kiến Đao khen:
– Giỏi.
Thằng Ba lại phát
chiêu tấn công. Hầu nhận ra đó là chiêu võ phái Sài sơn. Hầu trầm người xuống
tránh rồi quét chân, thằng Ba ngã lộn đi một vòng. Hầu phi thân theo tung một cước
vào mặt nó thì thằng Hai đã dùng một đòn chân tấn công vào ngực, đầu Hầu. Bắt
buộc Hầu phải di chuyển thân hình sang trái
tránh đòn. Thế là thằng Hai với Hầu thi diễn cuộc. Qua lại hơn hai chục chiêu,
thằng Hai bắt đầu yếu thế. Cứ mươi chiêu nó chỉ tấn công được có ba chiêu. Hầu hít một hơi tung ra chiêu Phong đáo sơn đầu
của Đông a chưởng pháp. Binh một tiếng
thằng Hai ngã lộn đi hai vòng. Thằng Cả vọt tới tấn công liền hai chiêu. Hầu đang
chơi vơi thì nó túm ngực hầu nhắc lên rồi điểm huyệt. Nó ném hầu xuống đất, đạp
chân lên ngực:
– Nhãi Tế tác
Nguyên. Nếu tao nhả kình lực thì ngực mày sẽ bẹp dí.
Hầu vẫn không khuất
phục:
– Tuổi tao còn nhỏ.
Mày lớn hơn tao nhiều, mày lại ra tay nhân lúc tao đang đấu với thằng Hai. Tao
không phục.
– Tao không cần mày
phục.
Tên Kiến Đao vẫy
tay. Ba tên Cả, Hai, Ba leo thang dây ra khỏi giếng.
Còn lại một mình,
Quốc Toản nhìn thành giếng thẳng đứng bằng đá. Đá nhẵn bóng. Hầu nghĩ:
– Tên Kiến Đao nói đúng.
Vách thế này thì leo lên sao được?
Kiến Đao đứng trên
bờ giếng chỉ vào một cái hang, có song sắt:
– Cậu sẽ ở trong
này. Đây là Thiền thất mà xưa kia Bồ tát Minh Không từng ở. Trong có ổ rơm cho
cậu nằm. Hằng ngày mỗ sẽ cho người đưa cơm cho cậu xơi.
Y chỉ vào ba cái
hang:
– Trong ba cái hang
kia, một cái giam đôi hổ. Một cái giam đôi báo. Một cái giam con đười ươi. Ban đêm
cửa được mở cho cọp, báo ra ngoài đề phòng có kẻ tới cứu cậu. Ban ngày thì cửa
mở cho đười ươi ra canh phòng. Cậu muốn yên thân thì ở trong động. Còn như cậu
mở cửa ra ngoài nếu không bị hổ, báo xơi thịt thì bị đười ươi quật chết. Con đười
ươi này nghe, hiểu tiếng người. Hằng ngày nó sẽ đem cơm cho cậu ăn, rồi lấy bát
đĩa cất đi. Cậu muốn gì cứ sai nó.
Quốc Toản tò mò, vào
trong động. Động khá rộng, trong có cái bồ đoàn, một cái ổ rơm, xung quanh cạp
bện rơm rất đẹp. Vách động cũng bằng đá. Trên các viên đá khắc chữ chằng chịt. Kiến
Đao chỉ vào cái án thư:
– Dưới án thư này có
mấy chục cây nến. Đêm cậu có thể đánh lửa đốt nến lên mà đọc sách.
Nói dứt, y cung cung
kính kính trao trả thanh Thượng phương bảo kiếm cho Quốc Toản rồi ra khỏi động,
leo thang dây lên trên. Tới nơi y kéo cái thang, rồi cười đểu:
– Cậu mau vào động,
bằng không cọp xơi thịt bây giờ.
Miệng nói tay y kéo
một cái cần. Cửa sắt của một hầm mở ra. Có tiếng gầm gừ, rồi hai con cọp từ
trong hang bước ra. Thấy Quốc Toàn, chúng quật đuôi xuống đất rồi nhảy lại vồ. Quốc Toản lùi vào trong động đóng song
sắt lại. Đôi cọp đứng trước song sắt gầm gừ, miệng đỏ lòm tỏ vẻ thèm khát. Cài
then cửa lại, Quốc Toản quan sát động. Khác với vách ngoài thẳng, trơn. Đá
trong động chỗ lồi chỗ lõm. Hầu nghĩ thầm:
– Truyền thuyết nói
rằng xưa Linh Nhân hoàng thái hậu xây một thiền viện và một hang đá để cúng
dàng 2 sư phụ là Bồ tát Minh Không, Viên Chiếu . Thiền viện đó có một cái động đá nằm trong núi Côi để tĩnh
tâm nhập thiền. Không chừng tên Kiến Đao này nói thực cũng nên. Cái bọn khả ố
nào bắt ta, bắt để làm gì? Ta đoán chừng y phải là một nhân vật lớn trong nhà
ta, mới sai phái được thị vệ, mới có ngựa chiến. Trong khi chờ đợi tên lãnh
chúa xuất hiện, ta hãy luyện công đã.
Hầu ngồi lên trên bồ
đoàn vận khí luyện Đông a tâm pháp. Luyện không biết bao nhiêu lâu thấy có
tiếng khọt khẹt, Hầu mở mắt ra thấy một
con vượn lông mầu trắng như tuyết đang bưng một cái khay đứng trước song cửa.
Tay nó vời hầu. Hầu đến gần cửa nhìn: trên khay có liễn cơm, một lát cá hấp tương
với miến, một đĩa thịt heo (lợn) kho trứng. Biết người tiếp tế cơm, sai con vượn
đem cho mình. Hầu thò tay ra cửa mang từng món ăn vào. Con vượn gật gật đầu
chào rồi ra ngoài sân. Thức ăn của nó là hai củ đậu, một nải chuối. Nó đang tước
vỏ đậu ra, rồi ăn. Nhìn những thức ăn của mình, Hầu nghĩ thầm:
– Cái tên khả ố nào đó
bắt cóc mình tuy là phường vô lại, nhưng chúng cũng cho mình ăn tử tế đấy chứ.
Gắp cá ăn, hầu nhủ
thầm:
– Tên đầu bếp này
giỏi hơn đầu bếp ở vương phủ Trường sa. Y hấp cá với tương vừa đủ mặn. Miến
ngấm mùi cá, tương ăn rất ngon.
Aên xong, hầu mang
bát, đũa ra cửa để. Con vượn chạy lấy bỏ vào khay mang đi. Trong suốt 7 ngày,
sáng, chiều có người mang đồ ăn tới, ròng dây thả xuống cho con vượn. Nó mang
cho hầu ăn. Còn hai bon hổ, báo thì cứ chiều xuống khi chúng được thả ra thì
con vượn lại vào chuồng, rồi đóng cửa lại. Người ta quẳng thịt sống xuống cho
hổ, báo ăn.
Đến ngày thứ tám,
vào một buổi sáng sớm, khi đôi hổ, báo bị giam lại, con vượn bạch được thả ra,
Kiến Đao xuống giếng. Y mỉm cười nói với Quốc Toản:
– Tôi tuân lệnh chủ
nhân xuống đây nói truyện với hầu.
Y chỉ vào cái ghế
dài cạnh những bức tượng:
– Mời hầu an tọa.
Quốc Toản lạnh lùng
ngồi xuống. Kiến Đao cười:
– Chủ nhân của tôi
muốn biết một số tin tức, nên phải bắt giam hầu. Câu hỏi đầu tiên là: khi hầu
từ biệt Vũ Uy vương; vương phi có trao cho hầu một cái ống bạc. Trong ống đựng
hai giải lụa mầu vàng, và mầu hồng. Thế cái ống đó hầu để đâu?
Quốc Toản rúng động
tâm tư:
– Thì ra chủ nhân
của tên là là thân vương Vuông, Tròn thực.
Chúng có thể là chú, là bác ta. Cũng có thể là vai ông chú, ông bác ta. Chính
vì vậy chúng không dám lấy thanh Thượng phương bảo kiếm của ta.
Hầu trả lời rất
nhanh:
– Đúng như người
nói, bố mẹ ta có viết một bài biểu tâu lên thượng hoàng. Nhưng trong khi di
chuyển trên thuyền, sóng gió vật mạnh, cái ống đó rơi xuống biển mất rồi.
Nếu còn thì khi người bắt ta, đã thấy
trong người ta.
– Có thể nào ống đó
do Tuyên thái phi giữ không?
– Bà nội ta không
biết truyện này. Người không giữ vật đó.
– Câu hỏi thứ nhì
là: cậu có biết trong ống bạc đó đựng gì không?
– Mẹ ta thấy ta còn
con nít, nên không cho ta biết. Người chỉ dặn ta rằng khi về Thăng long, yết
kiến thượng hoàng hay nhà vua thì dâng lên mà thôi.
– Thôi được! Tôi cứ tạm tin lời cậu.
Y trao cho hầu một
cái bọc:
– Trong bọc này có
ba bộ y phục để cậu thay đổi.
Nói dứt y tung mình
lên thang dây, ra khỏi giếng.
Quốc Toản bừng tỉnh:
– Thì ra một trong
hai tên thân vương Vuông, Tròn đã ra
tay trong vụ này! Nhưng mẹ ta làm việc mật quỷ không biết, thần không hay. Tại
sao chúng biết được?
Thấy con Bạch Viên đến
ngồi cạnh, Hầu hỏi nó:
– Này Bạch Viên! Người
cũng bị giam như ta đấy à?
Con vượn gật đầu.
– Người bị giam ở đây
lâu chưa?
Bạch Viên dơ mười
ngón tay lên, rồi gật gật một cái. Như vậy nó bị giam đã mười năm? Hay mười
tháng! Thấy nó hiền, dễ thương, hầu vuốt má nó. Nó cũng nắm lấy tay hầu rồi vẫy
vẫy, tỏ ý thân mật .
Thấy sân khá rộng,
hầu đi một bài quyền cho dãn gân cốt. Hầu ngạc nhiên khi con vượn cũng đi bài
quyền đó, không sai tý nào. Ngạc nhiên hầu đi bộ chưởng trấn môn Đông a chưởng pháp.
Tuy công lực hầu không làm bao, nhưng
cũng có gió vù vù. Con Bạch Viên cũng múa theo, gió lộng ào ào, rõ ràng công lực
nó rất thâm hậu. Khi hầu dừng lại thì con Bạch Viên cũng ngừng lại.
Hầu tự hỏi:
– Con vượn này của
ai? Tại sao lại bị giam vào đây? Dường như nó cũng biết võ công. Nên nó chỉ
nhìn mà xử dụng được bộ Đông a chưởng!
Tối hôm đó hầu mới để
ý đến những chữ khắc trên các viên đá
trong hang. Nhìn qua, do bút tự hầu nhận ra, chỉ có một người viết, nét khắc
khá sâu, chứng tỏ nội lực người viết phải cao thâm lắm:
Một tảng đá viết bài
kinh Bát nhã ba la mật đa tâm kinh. Kinh
này hầu thuộc làu. Gần như ngày nào hầu cũng đọc với bà nội sau một khóa lễ.
Một tảng đá nữa viết một bài kệ, ngụ ý rằng cuộc đời là vô thường. Một tảng nữa
viết:
“Ta nay tuổi đã cao, thân xác đang mục. Ta cùng với Bạch
Viên vào đây, tìm lấy yên tĩnh để nhập diệt.
Khi ra đi ta sẽ nằm yên trên tảng đá. Ta cũng chép tất cả tinh hoa học
thuật Đại việt để cạnh ta. Kẻ hậu thế có túc duyên tìm được, dùng học thuật mà
bảo vệ con đỏ tộc Việt“.
Quốc Toản nghĩ thầm:
– Có thể đây là bút
tích của ngài của Bồ tát Minh Không hay Viên Chiếu. Theo như ý trong tảng đá
này thì phía sau động này có cánh cửa. Sau cánh cửa có cái động nữa.
Quốc Toản cầm nến
soi khắp vách đá, hầu tìm thấy trên vách
có khắc hình vuông. Dường như đây là cánh cửa. Hầu đứng trung bình tấn, vận sức
vào tay đồi đẩy. Cái cửa chỉ hơi nhúc nhích. Hầu reo lên:
– Đây là cánh cửa.
Nhưng cửa nặng quá sức ta không đẩy được.
Biết mình không đủ
sức đẩy cánh cửa, hầu bỏ cuộc, lên bồ đoàn ngồi kiết già luyện một thức khí
công rồi ngủ lúc nào không hay. Tiếng chim rừng hót véo von vọng vào, làm Quốc Toản
tỉnh giấc. Ngoài sân con Bạch Viên đang đi một lộ chưởng. Hầu nhận ra đó là một
lộ chưởng của phái Tiêu sơn. Hầu tỉnh ngộ:
– Thì ra con Bạch
Viện này đã từng theo hầu Bồ tát Minh Không, nên nó luyện được Thiền công, công
lực của nó thâm hậu, nên nó chỉ nhìn sơ mà cũng xử dụng được bộ Đông a chưởng pháp.
Hầu mở cửa ra sân,
con vượn chắp tay hành lễ với hầu, rồi nó chỉ vào 13 pho tượng đồng trong sân,
miệng khọt khẹt như muốn nói gì với hầu. Chợt hầu nhớ lại, một lần bà nội thuật
cho hầu nghe:
“Bồ tát Minh Không sang Tống, trị bệnh cho vua Tống Thần
tông. Vua ban thưởng gì ngài cũng không nhận. Ngài chỉ xin vua cho vào kho chọn
lấy mấy thanh đồng để về đúc tượng. Vua Thần tông sai quan đưa ngài vào kho.
Ngài lựa lấy mấy cân đồng bỏ vào một túi nhỏ. Khi ngài rời kinh đô thì quan giữ
kho tâu: đồng trong kho biến mất hết. Triều đình nghị rằng ngài Minh Không đã
làm phép lấy hết kho đồng. Nhà vua sai thị vệ đuổi theo. Khi tới bờ bể thì thấy
ngài đang tìm thuyền. Nhìn đoàn thị vệ, ngài mỉm cười rồi ném cái mũ tu lờ
xuống biển. Cái mũ hóa ra một con rồng lớn. Ngài đứng trên lưng con rồng. Rồng
bơi ra khơi. Đoàn thị vệ chắp tay hành lễ:
– Nam mô Minh Không đại Bồ tát.
Trở về Đại việt, ngài dùng số đồng đó đúc thành An Nam tứ
đại thần khí. Một là một tượng Phật Quỳnh lâm, cao hai trượng. Hai là một cái vạc nặng ba vạn cân. Ba là một cái chuông Ngân
thiên. Bốn là đỉnh tháp Báo-thiên. (1)
Ngài treo chuông lên tháp Báo thiên rồi đánh ba hồi. Tiếng
chuông ngân lên, con Kim ngưu nằm trong lòng núi Thái sơn, nghe tiếng mẹ gọi,
vùng dậy chạy về Đại việt. Không thấy mẹ đâu, nó lồng lộn, vết chân của nó
thành nhiều hồ ở Thăng long. Ngài nhắc cái chuông ném xuống hồ rồi nguyền rằng:
nhà nào một vợ, một chồng đẻ ra 10 con trai thì kéo được con trâu vàng này“.
Hầu suy nghĩ:
– Theo bố ta giảng thì lời nguyền của ngài hàm chứa ý tứ cao siêu, khó mà
hiểu được. Nhưng tại sao ngài lại đúc tượng trâu, cặp vợ chồng và 10 đứa con
trai ở đây?
Hầu quan sát kỹ: tượng người đàn ông tay phải nắm đuôi trâu. Tay trái đưa ra
sau. Tượng người đàn bà thì tay phải dơ ra trước, tay trái dơ ra sau. Tính tinh
nghịch, hầu móc tay phải người đàn bà vào tay trái người đàn ông. Kẹt một tiếng
nhỏ, tay người đàn bà chuyển động, thì ra cánh tay với thân không dính liền, mà
có khớp. Hầu reo lên một tiếng, rồi móc tay trái người đàn bà vào tay phải người
con trai lớn nhất. Không đầy một khắc, hầu đã móc tay hai vợ chồng và 10 đứa
con. Hầu cầm tay trái đứa con út kéo mạnh. Lập tức cả 13 pho tượng đều chuyển động,
rồi tảng đá dùng làm ghế tụt xuống, hiện
ra một cái hố sâu, có bậc đá đi xuống. Hầu reo lên, nghĩ thầm:
– Thì ra Bồ tát Minh Không đúc tượng để
cơ quan mở ra một đường hầm.
Hầu vào động lấy cây nến đốt lên rồi
theo bậc đá đi xuống. Đó là một đường hầm. Đi khoảng 10 trượng thì lại có bậc đi
lên rồi hiện ra một căn hầm rộng. Giữa hầm có tảng đá bằng phẳng. Trên tảng đá
có tượng một nhà sư ngồi kiết già. Hầu sờ vào pho tượng: tượng không phải bằng đá,
hay đồng mà là những lớp lụa quấn quanh một xác người, bên ngoài sơn mấy lớp sơn
dầy. Cạnh pho tượng có tấm đồng với hàng chữ:
“ Nhục thể Bồ tát
Minh Không. Sau khi viên tịch, được bọc lụa 20 lớp, rồi sơn bên ngoài. Kẻ nào
có đại duyên, đại phúc thì được thấy tượng ngài. Đệ tử của ngài là Sa môn Tuyết Phúc xây mật thất này“.
Trước tượng có cái hộp gỗ. Trong hộp có nhiều thẻ đồng. Hầu cầm lên đếm được
90 cái. Cái thứ nhất khắc chữ:
Lĩnh nam vũ kinh,
Bảo quốc trấn Bắc bình Nam.
Cạnh đó ghi :
Biên tập giả: Phụ quốc Thái úy Lý Thường Kiệt.
Những người tham dự:
Bồ tát Viên Chiếu,
Mộc tồn vọng thê hòa
thượng,
Tiên nương Bảo Hòa,
Phò mã Thân Thiệu
Thái ,
Vua bà Bắc biên Bình
Dương,
Kinh nam vương Trần Tự Mai,
Trưởng công chúa Huệ
Nhu.
Chùa Phổ-minh
Hầu cầm thẻ thứ nhì, trên thẻ chép phép luyện Vô ngã tướng thiền công của phái Tiêu sơn. Thẻ thứ
ba chép phép luyện nội công Âm nhu của phái Mê linh. Thẻ thứ tư chép phép
luyện nội công Đông a, phá Huyền âm độc chưởng của phái Liêu đông và Nhật hồ độc
chưởng của Hồng thiết giáo.
Xem hết 90 thẻ đồng, hầu muốn nghẹt thở:
– Ta nghe bố ta nói: thời vua Lý Nhân Tông, niên hiệu Anh
vũ chiêu thắng, Tống Thần Tông sai Quách Quỳ, Triệu Tiết mang quân nghiêng nước sang đánh Đại việt. Bị
quân Đại việt phá tan. Giữa lúc chiến thắng, Linh Nhân hoàng thái hậu ban chỉ:
« Bây giờ là
lúc võ học đang rực rỡ, xin các tôn sư họp nhau lại chép tất cả tinh hoa võ
thuật thành bộ Lĩnh Nam vũ kinh để lưu truyền. Vì có thể một mai, thất truyền
thì thực đáng tiếc.“
Thế rồi Thái úy Lý
Thường Kiệt cùng vua bà Bắc biên Bình Dương đứng ra biên chép. Sau khi biên
xong, truyền khắc vào 90 cái thẻ đồng.
Mỗi phái giữ một bản. Bản của phái Tiêu sơn do Minh Không bồ tát giữ. Cuối đời
không biết ngài vân du đâu, coi như thất lạc. Đến cuối thời Lý, loạn lạc liên
miên. Bản của phái Tản viên, Mê linh bị mất đầu tiên. Bản của phái Sài sơn bị
thất lạc trong trận đánh giữa Quách Bốc với quân của trấn Thanh hóa. Bản của
phái Đông a bị mất khi Nguyên tổ Trần Lý tử trận. Thì ra bản của phái Tiêu sơn để
tại đây.
Hầu kính cẩn quỳ gối trước tượng hành đại lễ:
– Nam mô Minh Không bồ tát. Đệ tử là Trần Quốc Toản có duyên may được vào đây
chiêm ngưỡng di thể của Bồ tát. Lại được bộ Lĩnh Nam vũ kinh. Đệ tử nguyện đem
hết tài trí để bảo quốc trấn Bắc, bình nam.
Hầu lậy tám lậy, rồi mang 90 cái thẻ đồng ra khỏi hầm. Lên mặt hầm, hầu gỡ
13 tượng ra như trước. Tảng đá cửa hầm từ từ khép lại.
Nhớ lời dặn của phụ thân:
“Phàm luyện võ, trước luyện khí công để có
công lực. Công lực cao thì bất cứ ngoại công nào cũng xử dụng được.“
Hầu nghĩ thầm:
– Đây là tất cả tinh hoa võ học của Đại việt. Về nội công
thì phái Đông a nhà mình xuất phát từ Thiền công của phái Tiêu sơn, rồi các tổ
sau cải biến đi. Nội công phái Tản viên, Sài sơn thì hoàn toàn dương cương. Nội
công phái Mê linh thì cương nhu hợp nhất. Trong tất cả các pho nội công thì pho
Vô ngã tướng thiền công là dễ luyện nhất, lỡ có sai, cũng không bị tẩu hỏa nhập
ma. Vả từ nhỏ, ta luyện nội công Đông a. Mà nội công Đông a phát xuất từ Thiền
công, bây giờ ta luyện Vô ngã tướng thiền công dễ dàng hơn.
Hầu cầm cái thẻ đồng chép về Vô ngã tướng thiền công lên đọc:
“ Thiền công xuất
phát từ nhà Phật, là một nội công chính đại quang minh. Thiền công lấy yếu chỉ
từ kinh Kim cương, Lăng già, Bát nhã ba la mật. Muốn luyện Vô ngã tướng thiền công,
phải hiểu thấu các kinh Kim cương, Lăng già.“
Hầu mỉm cười:
– Gì chứ ba kinh này mình đã được mẹ sữa Chân Phương
giảng cho nhiều lần. Rồi lại được cô Thúy Hồng giảng yếu chỉ.
Hầu đọc tiếp:
“ Muốn luyện Vô ngã
tướng thì cần nhất bỏ ra ngoài Lục căn. Trong bốn tướng: ngã tướng, nhân tướng,
chúng sinh tướng, thọ giả tướng. Bỏ ra được
một thì thành công“.
Hầu nhớ lại:
– Cô Thúy Hồng từng giảng: khi không có ta, tức vô ngã tướng thì làm gì có người? Tức
vô nhân tuống. Khi không có người thì làm gì có chúng sinh tướng!
Hầu ngồi nghiêm chỉnh lại, trước hết bỏ nhãn, rồi nhĩ, rồi
tỵ, rồi thiệt, rồi thân, cuối cùng bỏ ý. Chân khí trong người Hầu cuồn cuộn
chạy về đơn điền. Đến đây hầu như mê đi không biết gì. Có tiếng động ngoài cửa,
hầu giật mình trở về thực tại. Trong người cảm thấy sảng khoái không bút nào tả
siết. Hầu đứng dậy vận khí thì đơn điền trống không. Hầu đọc thẻ đồng:
“ Khi luyện, mà nội
tức biến đi là đã thành công rồi vậy“.
Thế rồi, hầu cứ luyện ngày, luyện đêm. Trải qua 2 tuần trăng
vào một đêm thì luyện xong. Hầu mở cửa ra sân, vận khí phát một chiêu trong Đông
a chưởng pháp đánh vào bức tường, không thấy gió, nhưng âm thanh truyền đi rất
xa. Biết đã thành công, hầu nhảy nhót reo mừng, thấy thân thể nhẹ nhàng, người vọt
lên cao. Hầu kinh ngạc:
– Sao ta nhảy cao thế này?
Trở vào động, hầu lấy tấm thẻ đồng luyện nội công Âm nhu
:
– Đây là nội công trấn môn của phái Mê linh. Mẹ ta nói:
“Muốn luyện được Mê
linh kiếm pháp thì trước phải luyện nội công Âm nhu.“.
Ta có hỏi:
“Con nghe nói nội công Âm nhu và Mê linh kiếm pháp là hai pho võ công trấn
quốc. Vậy ai là người sáng tạo ra?
Mẹ ta giảng:
“ Xưa, thời vua An Dương, Tần Thủy Hoàng muốn đem
quân đánh Âu Lạc, để dò biết tình hình võ học, y đòi vua An Dương cống một đội
võ sĩ. Nhà vua cử Vạn Tín hầu Lý Thân dẫn theo 18 võ sĩ sang Hàm dương. Tất cả 18 võ sĩ đều
là đệ tử của hầu. Tới Hàm dương, Thủy Hoàng truyền các võ sĩ trong đội thị vệ đấu
với các võ sĩ Việt. Vạn Tín hầu lệnh cho chư đệ tử đấu cầm chừng, không thắng
không bại. Tối về hầu cùng chư đệ tử nghiên cứu chiêu thức nội công của Trung
nguyên, tìm ra phá cách. Hôm sau tái đấu, tất cả võ sĩ Việt đều thắng. Trong
khi nghiên cứu Hầu nhận ra nội công các thị vệ thuộc chín nguồn khác nhau, đều
thuộc dương cương. Hầu cùng đệ tử chế ra nội công âm nhu. Hầu lại nhận thấy đao,
kiếm của các thị vệ đều thuộc kiếm khí, rất dũng mãnh. Hầu chế ra pho kiếm lấy
mau thắng chậm, dùng kiếm chiêu thần tốc. Khi về nước hầu truyền cho đồ tử, đồ
tôn. Đồ tử đồ tôn của ngài lập ra phái Long biên. Pho nội công đó mang tên Âm
nhu. Pho kếm mang tên Long biên kiếm pháp. Phái Mê linh là hậu duệ của phái
Long biên. Nội công Âm nhu với Long biên kiếm pháp chỉ truyền cho người chưởng
môn. Mẹ tuy là đệ tử yêu của Vô Huyền bồ tát mà cũng không được truyền hết. Vả
hai pho võ công này lưu truyền lâu đời đã bị tam sao thất bản. Nếu tìm được bộ
Lĩnh Nam võ kinh thì có đầy đủ“.
Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét