Thứ Năm, 19 tháng 7, 2012

Anh hùng Đông A - Gươm thiêng Hàm Tử - Hồi 100

Tượng nàng Tô Thị tại quận Đồng Đăng, tỉnh Lạng sơn, ghi lại di tích người chinh phụ bế con chờ chồng, rồi hóa đá
HỒI THỨ MỘT TRĂM


Cầm tù quốc tặc anh hùng nộ,
Thúc bá gian hùng bất khả dung.
(Cầm tù giặc nước anh hùng giận,
Chú bác gian cùng cũng chẳng tha)


Vũ Minh vương sai mang vào một tảng đá lớn. Thượng hoàng vung kiếm lên, sột một tiếng, tảng đá bị chẻ làm đôi như chẻ củ chuối. Ngài lại mở khăn nhiễu phủ thanh kiếm lớn: thanh kiếm khá trầm trọng. Ngài tuyên chỉ:
– Trẫm đặt tên cho hai thanh kiếm này. Thanh lớn mang tên Trấn bắc. Thanh nhỏ mang tên Bình nam. Ngày mai trẫm sẽ đem thanh lớn ra treo ở cửa Bắc, thanh nhỏ ra treo ở cửa Nam thành Thăng long. Trẫm sẽ khấn liệt tổ Đại việt: Các vương, hầu, tướng quân nào đi qua cửa Nam khiến cho thanh kiếm di động thì sẽ được phong làm Bình nam đại tướng quân. Sẽ trao cho làm nguyên soái các trận đánh phương Nam. Còn ai đi qua cửa Bắc mà thanh kiếm di động, sẽ phong làm Trấn bắc đại tướng quân, trao cho nhiệm vụ trấn thủ Bắc cương.
Hôm sau, giờ thìn, xa giá Thượng hoàng, hoàng đế Thiệu bảo cùng tới cửa bắc thành Thăng long. Các vương, hầu, đại tướng quân tề tựu.
Lễ nghi tất.
Ngay chính giữa cửa thành, một bàn thờ Quốc tổ, liệt tổ giòng họ Đông a khói hương nghi ngút. Trên cửa thành treo lủng lẳng thanh kiếm Trấn bắc. Thượng hoàng đến trước bàn thờ thắp hương quỳ xuống khấn:
– Trần Hoảng đức bạc, lĩnh nhiệm vụ giữ nước, chăm lo cho trăm họ lấy làm lo lắng. Việc nước có hai nhiệm vụ quan trọng là trấn bắc, bình nam. Nhưng không biết ai là người có đủ tài lĩnh nhiệm vụ trọng đại này. Xin liệt tổ chọn cho người xứng đáng.
Các vương theo thứ tự đi qua, thanh kiếm bất động. Tiếp theo chư tướng, thanh gươm cũng không mảy may chuyển di. Cuối cùng tới các tước hầu danh tiếng như Dã Tượng, Yết Kiêu, Cao Mang, Địa Lô, Trần Tú Hoãn, Trần Quang Kiện, Trần Quốc Kiện, Trần Bình Trọng thanh kiếm vẫn không chút chuyển di. Đến lượt các tước hầu trẻ, khi Hoài Văn hầu đi qua, thì tự nhiên có tiếng vi vu như sáo diều, rồi thanh Trấn bắc quay thành vòng tròn thực đẹp.
Trên từ Thượng hoàng, hoàng đế Thiệu bảo, chư vương, đến chư tướng kinh hãi cùng quỳ xuống. Thượng hoàng hô lớn:
– Hoài Văn hầu Quốc Toản quỳ xuống.
Ngài hướng bàn thở  gỡ thanh kiếm Trấn bắc rồi khấn:
– Tuân theo thánh chỉ của Quốc tổ, của Liệt tổ, xin phong cho Trần Quốc Toản chức Trấn Bắc đại tướng quân, nhận thanh linh kiếm này.
Ngài trao thanh Trấn Bắc cho Quốc Toản.
Xa giá lại tới cửa nam. Hoàng đế Thiệu bảo quỳ xuống khấn:
– Trần Khâm tài hèn, đức bạc, được phụ hoàng nhường ngôi. Tuổi trẻ khó đảm được trọng trách. Nay treo tranh kiếm Bình nam. Nếu chư vương, hầu, tướng nào xứng đáng lĩnh nhiệm vụ bình nam; xin liệt tổ cho kiếm di động.
Các vương, hầu đi qua, kiếm không rung. Chư tướng hầu hết đi qua, kiếm cũng im lìm. Đến Phạm Ngũ Lão vừa tới thì có tiếng vi vu như sáo diều phát ra, rồi thanh Bình nam quay tròn.
Thiệu Bảo hoàng đế hướng bàn thờ bái lậy, gỡ kiếm xuống, ngài hô:
– Phạm Ngũ Lão quỳ xuống.
Phạm Ngũ Lão quỳ xuống hướng bàn thờ lậy tám lậy. Thiệu Bảo hoàng đế trao kiếm cho Phạm Ngũ Lão. Ngài tuyên chỉ:
– Tuân thánh chỉ của Quốc Tổ, kể từ lúc này Phạm Ngũ Lão được lĩnh ấn Bình nam đại tướng quân; mang thanh linh kiếm Bình nam.
Phạm Ngũ Lão lĩnh kiếm.
Tại ấp phong Hàm tử tối hôm đó, Hoài Văn hầu thiết tiệc mời thân hữu. Hai người điều khiển nhà bếp là Tuyên cao thái phi Mai Đông Hoa, Ôn Từ Thánh mẫu Hồng Liên nhũ danh Vũ Nguyệt Hương. Ba nàng Hoàng, Bích, Hồng Phương cùng các bộc phụ, phụ giúp. Chủ tọa là Thái sư thượng phụ Trung Thành vương. Khách gồm Hưng Vũ vương, Hưng Nhượng vương, Hưng Hiếu vương, Hoài Nhân vương. Công chúa An Tư.  Vũ sơn công Tạ Quốc Ninh và phu nhân Hoàng Liên. Bốn trong Thiên trường Ngũ Ưng: Dã Tượng, Yết Kiêu, Cao Mang, Địa Lô và các phu nhân. Các di thần Tống triều: ba anh em Triệu Nhất, Triệu Trung, Triệu Hòa, công chúa Ngọc Hoa; các tướng Tống: Mạnh Khánh Nguyên, Lưu Thâm,  Tôn Thắng Phu. Thái tử Chiêm Bổ Đích, công chúa Nang Tiên; đề đốc Võ Văn Sáu.
Khai mạc, Tuyên cao thái phi Mai Đông Hoa đứng lên cảm ơn tất cả quan khách tới dự tiệc để Quốc Toản chính thức nhận ấp phong Hàm tử. Phi nhấn mạnh:

“Già này theo hầu đức Thái tông trên 40 năm, sinh hai con, một nam, một nữ. Nam là Vũ Uy vương, từng trấn thủ Bắc cương, viện Tống, làm con tin Mông cổ, lập không biết bao nhiêu công lao với xã tắc. Vợ chồng chỉ có một con trai là Quốc Toản, đã bị những cái lưỡi ác độc vu cho là gian tế của Thát đát, mưu giết. Già này mong Thượng hoàng sớm diệt trừ bọn vô lại hung bạo.  Nếu không thì từ nơi xa xôi vạn dặm Vũ Uy vương, vương phi Ý Ninh sẽ về tru diệt chúng. Nếu như Vũ Uy vương không về tru diệt thì mong các vị hiện diện hôm nay sẽ giúp Quốc Toản phục thù“.

Phi nói với Quốc Toản:
“ Sách có nói: Quân tử trả thù 10 năm chưa muộn. Nay võ công cháu cao. Cháu có thanh linh kiếm Trấn Bắc. Cháu có thể chặt đầu chúng“.

Lời nói của phi tuy nhẹ nhàng, nhưng mọi người đều cảm thấy rờn rợn. Không biết bao nhiêu cái đầu sẽ rơi! Không biết bao nhiêu máu sẽ chảy!

Hôm sau, Hồng Liên tâu  với Tuyên cao thái phi:
– Trước đây khi Quốc Toản sinh ra, Vũ Uy vương, vương phi có đính ước với Thanh Nga, Ngột A Đa rằng nếu hai người sinh con gái thì sẽ gả cho Quốc Toản.  Sau quả hai người sinh ra cháu gái. Không biết Vũ Uy vương có tâu với phi không?
– Có, tôi vẫn ghi nhớ điều đó. Hôm rồi được tin đạo quân chống Hốt Tất Liệt ở Đại lý bị bại. Ngột A Đa với Thanh Nga dẫn tàn quân xin vào kiều ngụ ở Bắc cương. Triều đình phong Ngột A Đa tước vương, trao cho phụ trấn với Hưng Ninh vương. Tôi đã sai sứ lên gặp Thanh Nga nhắc lại ước cũ. Vì Quốc Toản đã 16 tuổi. Con gái của Thanh Nga cũng 15 tuổi rồi, rất xinh đẹp, nhu mì. Võ công cao, bút mặc văn chương quán chúng. Tên là Trần Đại Như Vân.
– Tâu phi, vì lòng dạ nhân từ, Hoài Nhân vương với Hoài Văn hầu đã cứu ba thiếu nữ bị cha mẹ dâng cho bọn Thát đát làm đồ chơi. Thượng hoàng ban ba cô gái đó làm tỳ nữ cho Quốc Toản. Thế nhưng ba nàng đã vượt quá địa vị của mình, muốn chiếm Quốc Toản. Muốn đoạt địa vị phu nhân. Thần đã can thiệp, nhưng ngọn lửa vẫn âm ỉ, chưa tắt hản. Ba nàng đó được Quốc Toản hứa gả cho anh em họ Triệu. Thần đã khuyên bảo, ba nàng rất vui lòng kết hôn với họ Triệu. Nhưng còn Ngọc Hoa!
Phi than:
– Con bé này cùng chơi với Quốc Toản tại Trường sa suốt thời thơ ấu. Bây giờ nó theo Quốc Toản vào Chiêm dự trận. Nó với Quốc Toản khăng khít với nhau như đôi chim. Mình phải làm sao? Cưới Ngọc Hoa cho Quốc Toản thì bỏ ước cũ, điều không thể được. Còn cưới con gái Thanh Nga thì không dễ gì gỡ Quốc Toản ra khỏi Ngọc Hoa.
Hồng Liên cười lớn:
– Xin phi cho Quốc Toản thu nhận cả Ngọc Hoa với con gái Thanh Nga. Trai năm thê bẩy thiếp là sự bình thường.
– Sợ hai cô không chịu mới khổ. Mà Quốc Toản cũng khó mà chịu được một lúc hai cô. Một cô có nền giáo dục Trung thổ, một cô chịu nền giáo dục Thảo nguyên. Tính khí cương cường!
– Thôi thì mình đành chờ sứ đi Bắc cương về xem con của Thanh Nga ra sao, rồi ta liệu. Cùng quá, cứ đem Như Vân về Hàm tử, rồi trao quyền phu nhân. Tự nhiên Ngọc Hoa phải bỏ đi.

Theo chỉ dụ của Tuyên cao thái phi, Hoài Nhân vương, Hoài Văn hầu cùng bốn anh em họ Triệu, tổ chức một buổi gặp riêng nhau. Cùng ăn với nhau bữa cơm gia đình trước khi lên đường bắt Di Ái. Hồng Liên cho ba nàng Phương trang điểm thực lộng lẫy. Trong tiệc Hồng Liên đứng lên nói:
– Ba vị Thế tử . Ba vị thuộc giòng dõi Tống đế. Lại là những người tài trí, văn võ kiêm toàn. Nhất là phong lưu tiêu sái. Từ ngày nhập Việt đã cùng các cựu văn thần Tống mở trường dậy học, khiến học phong Bắc cương như trăm hoa đua nở. Bây giờ ba vị thống lĩnh ba hiệu binh Thiệu Hưng, Văn Thiên Tường, Tường  Hưng, hùng mạnh vô cùng. Tôi  đáng tuổi thân mẫu ba vị. Tôi thấy ba thế tử tuổi đã trên 20, cần yên bề gia thất. Cần có người sớm khuya bầu bạn. Không biết ba thế tử nghĩ sao?
– Đạ tạ thánh mẫu, đã lo toan cho anh em thần.
– Khi lên đường vào Chiêm gần năm trước. Hoài Văn hầu hứa gả ba cô Hoàng cho ba thế tử. Ba thế tử đã bằng lòng rồi phải không?
– Dạ, anh em thần rất vui mừng được Hoài Văn ban cho ân huệ. Nhưng không biết ba đài gương Phương có  soi đến dấu bèo không?
Nghe đến đây, ba nàng Phương quỳ gối:
– Ba đứa con gái bị cha mẹ đẩy vào đường ô trọc, được Hoài Nhân vương, Hoài Văn hầu ra tay nghĩa hiệp. Sau được Thượng hoàng chiếu cố mà có ngày hôm nay.
Ba nàng lạy Hồng Liên, lạy Tuyên cao thái phi, Hoài Nhân vương, lạy Hoài Văn hầu, mỗi người bốn lạy.
Hoài Nhân vương móc trong bọc ra cái túi nhỏ, trong túi có một con phượng bằng bạc trên dát bốn viên hồng ngọc, một đôi xuyến dát kim cương và một dây chuyền móc tượng Phật ra. Vương trao cho ba nàng:
– Trong trận đánh đèo Trưởng, công chúa Nang Tiên thu được mấy bảo vật này của bọn Thát đát. Công chúa ban thưởng cho tôi. Nay nhân ba em vu quy, tôi tặng cho ba em.
Vương cài con phụng lên tóc Hoàng Phương. Đeo dây chuyền vào cổ Bích Phương. Đeo xuyến vào tay Hồng Phương.
Tuyên cao thái phi, Thánh mẫu Hồng Liên, Hoài Văn Hầu đều tặng quà cho ba nàng. Thế rồi mấy hôm sau, chọn ngày tốt, Thánh mẫu tổ chức một bữa tiệc thực long trọng tiễn dâu. Chiều hôm đó, trong khi toàn dinh làm cỗ đưa dâu, ba nàng sắp xếp y phục, tư trang lên đường. Nàng Bích thấy Quốc Toản qua phòng mình, thì nắm lấy áo kéo vào trong, cài then cửa lại:
– Anh! Anh thực vô tình quá. Từ ngày về đây, em tự hứa trao thân cho anh, mà không bao giờ anh chú ý đến em. Bây giờ có Ngọc Hoa rồi, anh tống em đi cho rảnh mắt phải không?
Quốc Toản là đấng đại anh hùng thời Đông a, hầu phân trần:
– Không phải thế. Lúc nào anh cũng nghĩ em là em anh. Nên anh tuyển cho em người chồng tài trí, phong lưu, tiêu sái. Em thử nghĩ xem. Nếu như em còn ở Trường yên thì may lắm là kết hôn được với một thầy đồ trong xã là cùng.
– Em yêu anh, em muốn dâng thân mình cho anh, mà anh không nhận. Bây giờ anh phải đứng im, em muốn thay y phục cho anh một lần này nữa thôi.
Quốc Toản hoàn toàn tê liệt. Bích Phương thay y phục cho hầu, rồi ôm lấy hầu. Hương thơm trinh nữ làm hầu mê mê, tỉnh tỉnh. Thình lình nàng ghé miệng cắn vào vai hầu một miếng:
– Em cắn anh, ghi lại trên người anh một cái thẹo, để không bao giờ anh quên em.
Nàng kéo Quốc Toản ngã xuống giường:
– Người vô tình với ta. Nhưng ta phải làm vợ người đêm nay, ta nhất định trao thân cho người. Ta nhất định ngắt nhụy hoa trinh nữ dâng cho người. Nào! Người nhận đi chứ.
Quốc Toản năn nỉ:
– Không phải em không đẹp, không hấp dẫn. Nhưng em ơi! Trước sau anh vẫn yêu em như cô em gái. Em sắp làm vợ họ Triệu. Anh em họ Triệu là bạn với anh. Muôn ngàn lần anh không thể để đóa hoa lan bị hoen ố .
– Không! Người phải yêu ta như cô vợ.
Quốc Toản điếng người, trong lòng hầu nổi lên cơn bão tố:
– Ừ! Người đẹp dâng cho ta! Tội gì không hưởng?
Nhưng lòng kiêu hãnh nổi dậy:
– Anh em họ Triệu là bạn thời thơ ấu củ ta. Ta không thể làm ô uế tấm thân của vợ bạn mình. Ta là Hoài Văn hầu! Là con của anh hùng Vũ Uy vương! Là cháu một hoàng đế có tâm Phật! Không! Không!
Hầu vội gỡ tay nàng, mở cửa bỏ chạy ra ngoài sân thì đụng Hoàng Phương. Hoàng Phương nắm lấy áo hầu, chỉ vào gốc cây:
– Chỗ này là chỗ năm trước anh đã ôm em. Em đã ôm anh. Anh còn nhớ không?
– Nhớ chứ, quên sao được.
– Nhớ, mà anh tống em ra khỏi ấp, làm vợ Triệu Hòa. Nhớ gì mà lạ quá. Bây giờ anh trả lời cho em đi.
– Trước sau anh vẫn coi Phương như cô em. Anh hứa sẽ tìm đấng quân tử gả chồng cho em. Bây giờ anh thực hiện đúng lời hứa rồi còn gì nữa!
– Anh vô lương tâm thực. Trước sau anh không hề yêu em bao giờ!
– Đúng! Anh vẫn coi em như cô em gái mà thôi!
Nàng òa lên khóc:
– Anh tàn nhẫn thực! Em cũng đẹp, cũng nhu mì như Ngọc Hoa mà anh không hề yêu em! Tàn nhẫn!
Thình lình nàng cắn vào môi hầu một cái, đau thấu tâm can.  Môi hầu chảy máu. Nàng lấy khăn lau máu cho hầu:
– Em sẽ giữ cái khăn máu này bên cạnh suốt đời để nhớ anh.
Quốc Toản đang tìm cách thoát khỏi nàng Hoàng thì có tiếng Hồng Phương kêu lên lanh lảnh trong phòng bên cạnh. Hầu chạy vào hỏi:
– Cái gì vậy?
Hồng Phương mặc bộ  quần áo tứ thân của cô dâu đang ôm chân:
– Em bị con bọ cạp cắn vào chân.
Rồi nàng ngồi lên bên cạnh dường, ôm lấy chân rên rỉ:
– Anh hút nọc độc cho em đi.
Quốc Toản ngay thực, vén váy nàng lên, tay xoa vào chỗ nàng chỉ:
– Chỗ này phải không?
Nàng Hồng Phương rên hừ hừ:
– Đau quá! Anh ơi em đau đến chết mất.
Hầu ngỡ ngàng, choáng vàng, như ngây như dại, vận khí ra tay xoa lên bắp chân nàng. Nhưng hầu chợt để ý, bắp chân nàng không hề có vết do bọ cạp cắn.
Quốc Toản bừng bừng như người say rượu, muốn chạy ra sân, mà lại không muốn. Hầu nhắm mắt hít hương thơm trinh nữ của nàng. Cứ như vậy hơn khắc hầu mới bừng tỉnh, chạy ra sân.
Hầu than:
– Mình vì lòng tốt, cứu giúp ba nàng mà sinh ra ba mối oan nghiệt. Mẹ mình dậy: Quân tử phải nhớ đạo Trung dung. Không nên để cái gì quá. Bây giờ mình tốt quá mà thành mối hận tình cho ba cô gái.
Hầu lững thững chậm bước quanh hồ sen thì gặp Hồng Liên. Hồng Liên tát yêu hầu:
– Giỏi! Con đã thoát khỏi ba cái lưới của ba nàng rồi phải không?
Quốc Toản se sẽ gật đầu:
– Nguy thực!

Chiều hôm đó, ba chiếc kiệu hoa, có đoàn tráng đinh Hàm tử hộ tống, có ban nhạc đưa ba kiệu chở các nàng Phương ra con thuyền lớn. Thuyền nhổ neo đi Bắc cương. Dù không yêu nàng nào trong ba nàng, nhưng Quốc Toản cũng cảm thấy như mất một cái gì. Ngược lại kiêu khí về cha mẹ, về ông bà nội, Quốc Toản nhủ thầm:
– Mình đã tạo được hạnh phúc ít nhất cho sáu người. Đêm nay bộ ba Triệu Nhất, Triệu Trung, Triệu Hòa; ba nàng Hoàng, Bích, Hồng Phương xuân tình phơi phới, hạnh phúc tràn ngập. Mẹ mình thường nói:  đừng bao giờ hỏi người thân làm gì cho mình; mà phải hỏi: mình đã làm được gì cho ngươi thân?

Hai hôm sau, ba tướng Mạnh Khánh Nguyên, Lưu Thâm,  Tôn Thắng Phu, cùng theo Hưng Nhượng vương lên vùng Tây Bắc cương. Quốc Kiện, Quốc Toản, Nang Tiên, Ngọc Hoa sẽ di sau cùng ba anh em họ Triệu.
Công chúa An Tư nói với Quốc Toản:
– Cháu được Thượng hoàng trao cho nhiệm vụ đón bắt gian thần tặc tử Di Ái, diệt Sài Thung. Cháu cho cô cùng dự trận được không?
Quốc Toản lễ phép:
– Cô là đệ tử của Vô Huyền bồ tát, kiếm thuật thần thông, thì cô ra trận sẽ giúp cháu chiến thắng dễ dàng.
Dọc đường ba anh em họ Triệu luôn miệng thuật lại mấy ngày hạnh phúc cùng ba nàng Phương. Triệu Hòa kể:
– Anh Quốc Toản này, mình xin với anh một việc!
– Việc gì vậy?
– Vợ mình (Hoàng Phương) thuật rằng: bố nàng là Đinh Thành Trân được Nhân Hòa vương sung vào sứ đoàn. Còn mẹ nàng thì bỏ bố nàng theo Sài Thung. Trong lần xuất trận này, nếu anh có bắt được bố mẹ nàng, thì xin nhẹ tay một chút. Vậy mình xin với anh trước!
Quốc Toản nhận lời:
– Mình hứa. Nhưng trên mình còn Hưng Nhượng vương, còn cô An Tư. Hưng Nhượng vương thì có thể xin nới tay. Chứ  cô An Tư thì e khó đấy. Mình hiểu bà cô đẹp như tiên nữ này của mình lắm. Tuy nhiên mình sẽ cố gắng.
Hầu hỏi An Tư:
– Cô! Cô có vì Triệu quốc công mà nới tay không?
An Tư mở to mắt phượng:
– Đối với bọn gian thần tặc tử thì cần thẳng tay, không khoan nhượng. Ngay Di Ái, là chú ruột của cô. Nếu bắt được chú, cô sẽ giam vào cũi như chó, rồi chở đi khắp nơi cho dân chúng xem. Còn cái gã Đinh Thành Trân, tuy là cha của Hoàng Phương, nhưng Thượng hoàng đã phế bỏ quyền làm cha rồi, thì ta phải trị tội như những tên quốc tặc khác. Còn mẹ nàng, chạy theo dâng xác cho tên Sài Thung, ta phải cho voi dầy, cho ngựa xé mới đúng tội.

Hưng Nhượng vương họp bộ Tư lệnh chiến dịch trên một soái thuyền của hạm đội Bạch đằng, đậu tại bãi biển Tiên yên. Tất cả nghe Cao Mang báo tình hình:
– Đại Hành gửi thư báo cho biết, bọn Di Ái từ Đại đô đã vượt qua sông Trường giang, đang ở thành Trường sa. Trường sa là nơi Thoát Hoan đặt Chinh tiễu An nam hành doanh (Bộ tư lệnh chiến dịch chinh tiễu An nam). A Lý Hải Nha tuyển cho Sài Thung một Thiên phu thiết kị thiện chiến nhất. Ngoài thiên phu Thiết kị, bọn tùy tùng kể cả Sài Thung, có  72 người, đi trên 160 ngựa và 100 xe chở lương thực, vật dụng. Ước tính, bọn này đi từ Trường sa, vượt Ngũ lĩnh tới Côn luân phố mất 10 ngày. Chúng nghỉ ở Côn luân phố một ngày, rồi vượt núi Hỏa giáp vào thung lũng Ngọc tuyền. Từ núi Hỏa giáp xuống Ngọc tuyền, Đại giáp không có lính Nguyên đồn trú. Tới Ung châu mới có một Vạn phu kị binh và 2 vạn phu bộ binh người Quảng.
Trước đây Tôn Thắng Phu là một sư trưởng của hiệu binh Quảng Tây nam lộ Tống, từng đồn trú tại Côn luân. Ông trải lên bàn một tấm lụa vẽ chi tiết địa hình từ Côn luân tới Ung châu. Ông trình bầy:
– Đây là núi Hỏa giáp, Đại giáp . Hai núi  nằm dài theo hướng Đông-Tây. Con đường từ Côn luân phốâ đi Ung châu phải băng qua hai ngọn núi này. Từ chân núi Đại giáp bên này sang bên kia dài 60 dặm. Đường đi ngoằn ngèo men theo sườn núi, chỗ cao nhất khoảng 1.500 trượng. Từ núi Hỏa giáp đến núi Đại giáp là thung lũng Ngọc tuyền dài 250 dặm. Trong thung lũng dân chúng sống bằng nghề chăn nuôi, hầu hết nuôi cừu, bò, trâu, gà, vịt, ngan.
Triệu Hòa tiếp:
– Tại Côn luân phố, cũng như thung lũng Ngọc tuyền, mình có đến 10 toán nghĩa quân rất trung thành. Mình có thể nhờ họ hướng đạo. Quân sĩ của Tôn tướng quân đều là người vùng này. Tướng quân Lưu Thâm từng trấn tại Côn luân phố.
Hưng Nhượng vương ban lệnh:
– Quốc công Triệu Hòa làm trưởng đoàn, phó là tướng quân Lưu Thâm, ẩn tại Côn luân phố. Thông báo tình hình của bọn Sài Thung cho Hành doanh khi chúng tới đây, cũng như khi chúng khởi hành.
Vương hỏi Nguyễn Địa Lô:
– Trung lang tướng, Văn sơn hầu cung cấp cho Hoài Nhân vương một số thuốc đủ để đánh thuốc 1100 ngựa, sao cho ngựa ăn vào giờ sửu thì đến giờ tỵ, ngọ sẽ bị đau bụng, mất hết sức lực. Liệu trong ba ngày có chế kịp không?
Địa Lô cung kính:
– Thuốc đó chỉ cần một ngày thần sẽ chế xong.
Vương gọi:
– Mời, Hoài Nhân vương, công chúa Nang Tiên, Quốc công Triệu Nhất, Đại đởm đại tướng quân Nguyễn Thiên Sanh, tướng quân Mạnh Khánh Nguyên nhận lệnh.
5 người đứng dậy. Vương tiếp:
– Đoàn người ngựa của Sài Thung khi vượt qua Tiểu giáp sẽ ngừng lại qua đêm tại thung lũng Ngọc tuyền, sáng hôm sau lên đường sớm. Quốc công Triệu Nhất làm trưởng đoàn, tướng quân Mạnh Khánh Nguyên làm hướng đạo, có  Hoài Nhân vương, Đại đởm đại tướng quân, công chúa Nang Tiên trợ chiến. Quốc công âm thầm di chuyển vệ Đại đởm đến ẩn tại thung lũng Ngọc tuyền giả làm dân chúng. Bọn Kị binh Mông cổ thế nào cũng bắt dân chúng tắm ngựa, cung cấp cỏ cho ngựa ăn. Các đại đởm, các chiến sĩ Cần vương ngoan ngoãn phục vụ cho chúng. Âm thầm cài hỏa khí vào các xe chở người, chở lương thảo của chúng. Sáng sớm,  giờ sửu trộn thuốc vào cỏ, vào nước cho ngựa của chúng ăn uống. Khi  đoàn xe lên đỉnh núi Đại giáp, giữa lúc chúng ta tấn công chúng thì ra tay châm ngòi cho các xe nổ tung.
Vương hỏi Lưu Thâm:
– Có con đường nào từ biên giới Hoa-Việt tới Đại giáp mà không qua các thị trấn, có quân Nguyên đóng không?
Lưu Thâm chỉ vào tấm vải:
– Đây, có con đường này. Nếu đi từ biên giới Hoa-Việt tới Đại giáp phải mất bốn ngày.
– Quốc công Triệu Trung làm chánh tướng, tướng quân Tôn Thắng Phu làm phó tướng dẫn 2 nghìn chiến sĩ Cần vương. Có Hoài Văn hầu, công chúa Ngọc Hoa, công chúa An Tư, thượng tướng quân Cao Mang theo trợ chiến . Phục trên núi Đại giáp, đợi cho đoàn quân của Sài Thung lên tới đỉnh núi, người ngựa trúng độc mệt mỏi thì lăn đá, cung tên tấn công. Tướng quân không phải đối thủ của Trần Di Ái. Việc tấn công vào sứ đoàn Việt để cho Hoài Văn hầu, công chúa Ngọc Hoa, công chúa An Tư. Đối phó với Sài Thung để cho tướng quân Cao Mang.
Sau một thời gian xa quê hương, bây giờ các chiến sĩ Cần vương Tống được về đánh giặc trên quê hương. Người người đều bừng bừng niềm vui không bút nào tả siết. Họ âm thầm, len lỏi vào làng xóm lên đường tới Đại giáp.
Bộ chỉ huy Hành doanh của Hưng Nhượng vương đi theo cánh quân của Triệu Trung. Khi đến chân núi Đại giáp, Tôn Thắng Phu quen địa hình, địa vật dẫn vương, Triệu Trung, Cao Mang, Quốc Toản, Địa Lô leo núi nghiên cứu địa thế.
Triệu Trung với Tôn Thắng Phu chia ba vệ cần vương phục làm ba khu: khu đỉnh cao trao cho Địa Lô, Quốc Toản, An Tư, Ngọc Hoa. Với lệnh: khi đám xe cộ, người  ngựa của Di Ái tới thì bắn pháo thăng thiên, lăn đá tấn công. Đợi cho ngựa của chúng bị bệnh nằm ẹp xuống, mới đổ đồi trực tiếp tấn công. Khu phía nam đồi trao cho Cao Mang. Khi đạo quân đồ đồi, thế nào Sài Thung cũng đi đầu. Khi thấy pháo thăng thiên của Địa Lô  bắn lên thì lăn đá chặn đường, tấn công. Tuyệt đối không cho một người một ngựa chạy thoát. Khu phía bắc chính Triệu Trung chỉ huy. Khi thấy hỏa pháo của Địa Lô bắn lên, thì lăn đá chặn đường rút lui rồi tấn công.

Sáng hôm sau khi bình minh ló dạng, ánh sáng ban mai chiếu chói trang trên thung lũng Ngọc Tuyền, thì Sài Thung được Thúy Vi đánh thức. Y sang lều của Di Ái, đã thấy Di Aí, Lê Tuân, Lê Mục, Đinh Thành Trân đang ăn điểm tâm. Sài Thung hỏi viên hướng đạo:
– Người nói phía trước mặt ta là núi Đại giáp. Muốn vượt qua núi phải mất 3 giờ. Bây giờ là giờ thìn. Vậy sang giờ mùi chúng ta mới đi vào địa phận Ung châu phải không?
– Vâng! Khâm sứ với Quốc vương vào thành Ung nghỉ. Ngày kia sẽ lên đường lúc giờ dần, thì giờ ngọ sẽ vào địa phận An nam.
Sài Thung gọi viên thiên phu trưởng:
– Chúng ta phải chuẩn bị nhiều nước cho ngựa. Vì con đường sắp đi sẽ phải băng qua núi, trên núi không có nước.
Viên thiên phu trưởng trình:
– Dân chúng thung lũng này rất ngoan. Hôm qua chúng cử ra hơn 100 người cắt cỏ, tắm cho ngựa. Bọn tráng đinh tắm ngựa rất giỏi. Sáng nay chúng cắt nhiều rau cho ngựa ăn, lại múc nước đầy các bầu đeo trên lưng, để ngựa qua núi có nước uống.
Đinh Thành Trân thắc mắc:
– Hôm qua, tôi chú ý đến bọn trai tráng tắm ngựa, thấy hình như chúng không phải người vùng này. Người vùng này da trắng, mắt một mí. Đây da chúng cháy đen. Lại nữa chúng khỏe mạnh, cử chỉ linh hoạt khác thường. Coi chừng Khu mật viện  Thăng long gửi người lên đây dò la, theo dõi sứ đoàn cũng nên!
Di Ái mắng:
– Người đa nghi quá. Ta cũng thấy thế, nhưng những tên tráng đinh này là nông dân thì da đen, khỏe mạnh  là sự thường. Người khéo lo bò trắng răng.
Từ hồi cống vợ cho Sài Thung, gã Đinh Thành Trân được Di Ái  lệnh cho Trần Văn Lộng thăng y từ Đại tư lên An phủ sứ Nho quan. Y lại được Di Ái sung vào sứ đoàn. Di Ái hứa kỳ này về làm vua Đại việt sẽ thăng y lên chức Tuyên vũ sứ. Cho nên Đinh Thành Trân mặt trai mày đá, xum xoe nịnh bợ ngày ngày nhìn vợ ăn nằm với Sài Thung, mà y hãnh diện ra mặt.
Sài Thung ra lệnh cho thiên phu trưởng:
– Trong các tráng đinh, người tuyển lấy mấy trăm tên khỏe mạnh, đem theo để phụ sức ngựa đẩy xe lên dốc núi.
Một lát thiẽn phu trưởng trở lại báo:
– Bọn trai tráng vui  vẻ giúp Kị binh. Chúng chỉ xin cho ăn no là đủ. Tất cả 150 đứa.
Sài Thung lên ngựa, cùng viên hướng đạo dẫn đầu đi về hướng nam. Phía sau y, một thiên phu Kị binh nối đuôi nhau trên một giải đồng mênh mông. Các xe dành cho Di Ái và tùy tùng đi giữa đoàn quân. Bọn trai tráng thung lũng Ngọc tuyền bị bắt làm lao binh, tay bám vào thành xe, rảo bước theo sau.
Ngựa của Kị binh là chiến mã Mông cổ, nhưng đi trên con đường gồ ghề, núi dốc, chúng cũng phải bước từng bước rất khó khăn. Bốn  bách phu đã lên tới đỉnh đèo, rồi từ từ đổ đèo. Bách phu thứ năm theo đoàn xe của sứ đoàn, xe chở lương thực. Đám này ỳ ạch lên dốc. Năm bách phu đi đoạn hậu. Đám trai tráng bị bắt làm phu theo, ghé vai đẩy phụ với ngựa kéo. Khi chiếc xe chở Di Ái, Lê Tuân, Lê Mục, Thúy Vi, Đinh Thành Trân vừa tới đỉnh núi, thì Di Ái ra lệnh ngừng lại nghỉ. Mã phu tháo xe ra khỏi ngựa. Người ra khỏi xe, hít thở không khí trong lành của đỉnh núi.
Di Ái vui vẻ nói với Lê Mục:
– Chỉ nội ngày mai trẫm sẽ về tới Thăng long. Thiên sứ phế thằng Khâm, thằng Hoảng xuống. Trẫm sẽ lên ngôi vua. Vì chúng là con cháu, trẫm không nỡ giết, mà cho chúng về Thiên trường làm ruộng. Trẫm sẽ phong cho khanh làm Bình chương chính sự. Tước Quốc công. Còn Tuân, trẫm sẽ phong cho làm Tham tri chính sự, tước Công. Đinh Thành Trân sẽ được phong tước hầu, ban cho chức Tuyên vũ sứ Trường yên.
Cả bốn cười ha hả, khoái trá cực  điểm.
Thình lình có tiếng nổ xé không gian, rồi một cái pháo thăng thiên vọt lên cao, nổ đùng một tiếng, tỏa ra hình con chim ưng chân cặp thanh kiếm. Di Ái kinh hoàng:
– Pháo lệnh của Đại việt.
Rồi đá từ đỉnh núi lăn xuống ầm ầm. Tên bay vi vu. Máy bắn những tảng đá khổng lồ bay xuống con đường đi. Ngựa bị trúng tên, bị đá lăn phải, hí inh ỏi. Kị binh ngã lổng chổng. Không hổ là đoàn Kị binh vô địch Mông cổ, Kị mã biết bị trúng phục binh. Chúng bỏ ngựa, núp vào các ụ đá, dương cung hướng lên sườn núi. Trên đỉnh núi có cây cờ Tống bay phất phới. Một tướng đang cầm cờ chỉ huy.
Viên bách phu kị binh kêu:
– Bọn Cần vương Tống.
Di Ái nói bằng tiếng Việt:
– Bọn quân Việt! Không phải Tống.
Ông ta vừa than dứt thì đám tráng đinh bị bắt làm phu cùng nhau đánh đá châm lửa đốt lên. Những chiếc xe của sứ đoàn, xe chở lương thực phụt cháy, phát ra những tiếng nổ kinh thiên động địa. Có những chiếc xe tuột dốc, ầm ầm đụng vào đám Kị mã dưới dốc núi.  Phục binh đổ đồi chém Kị binh phầm phập.
Trong đám phục binh, con Bạch Viên xử dụng cây côn sắt. Mỗi chiêu nó đánh ra là một Kị mã tan xương nát thịt. Di Ái cùng bọn Lê Tuân, Lê Mục nép mình vào các hốc tránh đá, tránh tên. Khi những chiếc xe đã bị nổ hết, ông ta đứng dậy thì đám lao phu đã biến vào rừng.
Đứng nhìn đám Kị binh đang chiến đấu tuyệt vọng, ông cảm thấy như trời sập: cái mộng làm vua Đại việt tan ra như cát bụi. Mà lạ lùng thay, đám ngựa chiến đang nằm ẹp xuống đất, nước mắt dàn dụa, tỏ ra đau đớn. Viên bách phu chỉ vào ngựa nói:
– Ngựïa của chúng tôi bị trúng độc.
Di Ái nhìn lên đỉnh núi: người đang cầm cờ chỉ huy là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng. Cạnh Quốc Tảng là Địa Lô, Quốc Toản. Ông ta chợt hiểu: đoàn của ông bị trúng phục binh của quân Việt. Ông ta nghĩ rất nhanh:
– Thôi rồi! Cái bọn lao binh chính là bọn Đại đởm, chúng đánh thuốc độc ngựa. Chúng cài, đốt chất nổ phá xe chở lương thực! Muốn thoát chết hôm nay, thì phải khống chế Quốc Tảng, Địa Lô.
Hưng Nhượng vương hô lớn:
– Hãy bắt tên phản quốc, phản nhà Di Ái.
Di Ái tung mình lên đỉnh núi, thì Bạch Viên cầm ngang cây côn sắt cản đường. Nó hướng đỉnh đầu ông  dáng một chiêu. Ông rút kiếm gạt. Choang một tiếng, kiếm suýt vuột khỏi tay ông. Ông múa kiếm đấu với Bạch Viên. Kể về chiêu số thì ông bỏ xa Bạch Viên. Nhưng công lực của Bạch Viên cao hơn ông. Đấu được hơn 20 chiêu thì có tiếng hú của Hoài Nhân vương gọi. Bạch Viên ôm côn hướng nơi có tiếng gọi lao tới.
Di Ái vọt lên sát với chỗ Hưng Nhượng vương đứng chỉ huy. Tay ông ta rút kiếm chỉ vào mặt vương:
– Thằng ôn con kia. Đến bố mi là Quốc Tuấn, thấy trẫm cũng phải kính trọng, hành lễ. Mà mi hỗn láo với trẫm ư? Mi có biết rằng trẫm được thánh Thiên tử phong cho làm An Nam quốc vương. Trẫm đang trên đường về nước lên ngôi. Mi có ra lệnh thu quân không?
Hưng Nhượng vương cười rất lễ phép:
– Khi có người chú phản lại cháu. Khi có một tước vương phản nước thì có đứa cháu coi ông chú như thú, như vật.
Vương hô:
– Hãy bắt sống tên phản quốc Di Ái!
Di Ái giận cành hông. Ông ta vung kiếm tấn công Hưng Nhượng vương bằng một chiêu kiếm hung hiểm. Kình lực rít lên đến véo một tiếng. Quốc Tảng nhảy lùi lại sau tránh, thì Di Ái phát một chiêu Đông a chưởng mạnh như bài sơn đảo hải. Hưng Nhượng vương kinh hãi xuất một chiêu đỡ. Binh một tiếng, vương bật tung về sau. Tai phát ra tiếng vo vo không ngừng. Di Ái không nhân nhượng, ông ta đánh một chiêu định kết liễu tính mệnh vương, thì một chiêu kiếm thúc vào sườn ông, nhanh không thể tưởng tượng được. Ông trầm người xuống tránh thì kiếm theo ông như bóng với hình chĩa vào cổ ông. Ông vọt người lên cao, thoát khỏi vòng kiếm quang. Choang một tiếng, áo giáp của ông bị trúng kiếm. Tuy kinh hoảng, nhưng ở trên cao, ông nhìn xuống, thì thấy người tấn công mình là một thiếu nữõ  sắc nước hương trời mặt còn non choẹt. Ông đá gió một cái, người vọt ra xa, rơi xuống sau tảng đá. Tảng đá ngăn cách ông với thiếu nữ. Ông thoát nạn.Thiếu nữ nhảy tới xỉa kiếm vào ngực ông. Ông vung kiếm đỡ. Choang một tiếng, kiếm của thiếu nữ  vuột khỏi tay nàng.
Thiếu nữ tấn công Di Ái là công chúa An Tư. Tuy An Tư được chân truyền Mê linh kiếm pháp. Nàng ra tay trước nên chiếm được tiên cơ. Nhưng vì chưa có kinh nghiệm chiến đấu, nàng bị văng mất kiếm.
Căn bản của Mê linh kiếm pháp là lấy mau thắng chậm, lấy động chế tĩnh. Thế nhưng công lực của nàng không làm bao, mà để kiếm mình chạm vào kiếm Di Ái. Côâng lực Di Ái cực kỳ thâm hậu, nên kiếm của nàng bị hất văng ra xa.
Hưng Nhượng vương thoát chết, lại tiếp tục cầm cờ chỉ huy. Di Ái bỏ An Tư tấn công Hưng Nhượng vương. Một thiếu niên đứng cạnh vương phát chưởng đỡ chiêu của Di Ái. Chưởng phong như có, như không. Hai chưởng lực gặp nhau, Di Ái cảm thấy công lực của mình biến mất. Chân tay bải hoải
 Thiếu niên đó là Quốc Toản.
Kinh hoảng, Di Ái biến chiêu tấn công Quốc Toản  bằng chiêu trấn môn của phái Đông a tên Đông hải lưu phong. Chưởng phong như bài sơn đảo hải chụp lên đầu Quốc Toản. Quốc Toản kinh hãi nhủ thầm: phen này mình tan xương nát thịt. Nghĩ vậy hầu dùng cả hai tay phát đại một chiêu, đó là chiêu Nhân ngưu câu vong trong Tán lạc tiêu hồn chưởng, một chiêu rất thô kệch  đỡ. Lạ thay chưởng phong của Di Ái như bị biến mất. Trong khi kình lực của Quốc Toản làm Di Ái cảm thấy đau nhức không thể tưởng tượng được. Cả hai cùng bật lui gườm gườm nhìn nhau.
Sự thực, tuy Quốc Toản có cơ duyên học được bộ Tiêu hồn chưởng, nhưng công lực không làm bao. Trong khi Di Ái đã có trên 50 năm công lực. May mắn nội công phái Đông a xuất phát từ thiền công. Còn nội công của Quốc Toản là Vô ngã tướng thiền công, một loại nội công cao nhất của nhà Phật. Chiêu của Quốc Toản là Nhân ngưu câu vong, nên chân khí của Di Ái bị hút mất.
Lợi dụng lúc Quốc Toản bàng hoàng, Di Ái vọt tới chụp lấy vai hầu, định bóp cổ cho chết. Kinh hãi, Quốc Toản chụp lấy hai cổ tay ông ta. Vô ngã tướng thiền công hút công lực của Di Ái. Ông ta dồn ra bao nhiêu, bị hút hết bấy nhiêu. Thấy công lực bị hút mất, Di Ái buông Quốc Toản ra. Quốc Toản không nhân nhượng, hầu phát chiêu Kỵ ngưu quy gia tấn công. Di Ái vòng tay đỡ. Binh một tiếng, cả hai lảo đảo lùi lại. Quốc Toản rút thanh Trấn bắc chĩa vào cổ Di Ái, hầu hô:
– Đầu hàng bằng không ta nhả kình lực.
Lòng Di Ái nguội như tro tàn. Y cau mặt hỏi:
– Thiếu niên này là ai? Ta tự thị võ công cao nhất Đại việt,  hôm nay bại về tay người mà lòng ấm ức.
Có tiếng thanh thoát trả lời:
– Người này là Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản.
– À thì ra tên ranh con, con của thằng Nhật Duy với Ý Ninh. Người thấy ông mà không chịu quỳ gối hành lễ ư? Đồ mất dậy.
 Di Ái lại phát chiêu tấn công Quốc Toản. Quốc Toản không đỡ, mà phát chiêu Kiến tích dã ngưu, đánh thẳng vào người y. Binh một tiếng, Di Ái loạng choạng lùi lại. Y giẫm phải viên đá, trượt chân ngã ngồi xuống, quằn quại không bò dậy được. Y thều thào:
– Ôi tuổi già! Chỉ trượt chân ngã, mà không dậy nổi.
Quốc Toản thương tình thu kiếm lại, cúi xuống đỡ Di Ái. Chỉ chờ có thế, Di Ái xỉa tay phát một chiêu, trúng ngực Quốc Toản. Thân hình Quốc Toản bay tung lên cao, rồi rơi xuống. Di Ái xê dịch tới xả một chiêu kiếm mong kết liễu tinh mạng hầu. Quốc Toản rút thanh Trấn bắc đỡ. Chịt một tiếng, kiếm của Di Ái bị cụt tận chuôi. Ông ta phát một chiêu chưởng đánh xuống đầu hầu. Thình lình có tiếng quát muốn vỡ màng nhĩ:
– Coi chưởng này!
Rồi một người bịt mặt từ hốc đá xuất một chiêu hướng Di Ái. Chưởng phong cực kỳ ác liệt, trọn đời y chưa từng nghe, từng thấy. Di Ái nghiến răng đỡ, binh một tiếng ông ta bật lùi ba bước. Người kia đánh chiêu thứ nhì, Di Ái nghiến răng đỡ, ông ta bật lui bốn bước người lảo đảo, ông ta ọe một tiếng, miệng phun máu ra. Người kia đánh chiêu thứ ba, Di Ái bị bật tung lên cao, rơi xuống, nằm đứ đừ. Người kia phóng ba chỉ điểm huyệt đại chùy, dương lăng tuyền Di Ái. Người ông cứng đơ. Ông ta bị Địa Lô trói lại.
Quốc Toản thoát chết, nhờ Vô ngã tướng thiền công hút công lực Di Ái, nên hầu chỉ đau nhức nhẹ nhàng. Hầu nhìn người cứu mình, tuy không thấy mặt, nhưng thân hình rất thân ái, rất quen thuộc. Chợt hầu kêu lên:
– Bố! Bố đến đây bao giờ vậy?
Quả người ấy là Vũ Uy vương. Vương tung mình chạy. Quốc Toản đuổi theo, xuống dưới sườn núi thì Vũ Uy vương dừng lại gỡ khăn bịt mặt ra. Một thiếu phụ đang ngồi chờ ở đó, chính là vương phi Ý Ninh. Tuy Quốc Toản đã 16 tuổi, nhưng xa mẹ từ hồi 11 tuổi, ngày đêm nhớ nhung. Hầu không tự chủ được, nhảy vào lòng mẹ, ôm lấy mẹ, khóc nức nở:
– Mẹ ơi!  Con nhớ mẹ quá!
Ba người cùng khóc.
– Mẹ ơi! Từ hồi xa bố mẹ, con nhớ bố, nhớ mẹ ngày đêm. Con khóc hết nước mắt. Thôi bây giờ con không về nước nữa đâu. Con đi theo bố mẹ.
Hầu nằm yên trong lòng mẹ, hai tay ôm lấy lưng mẹ, khóc nức nở. Nước mắt vương phi Ý Ninh nhỏ trên mặt hầu. Hầu càng khóc to hơn như trẻ 5, 6 tuổi.
Vũ Uy vương không dám nhìn vợ, nhìn con khóc. Vương quay nhìn xuống thung lũng. Để cho vợ con khóc một lúc, cạn nước mắt vương mới lên tiếng:
– Thôi! Đủ rồi! Con buông mẹ ra đi. Con đã 16 tuổi, không còn nhỏ nữa.
Vương bảo Quốc Toản:
– Đứng thẳng lên cho bố nhìn nào? Chà cao hơn mẹ một cái đầu rồi!
Ba người ngồi xuống ba tảng đá. Vũ Uy vương bảo Quốc Toản:
– Con thuật cho bố nghe tất cả những gì xẩy ra từ khi rời bố mẹ về Đại việt đến giờ.
Quốc Toản tỷ mỷ thuật chi tiết từ lúc bị bắt cóc ở Tiên yên, đưa về  giam ở giếng đá Trường yên, gặp cơ duyên tìm được bộ Lĩnh nam vũ kinh, khám phá ra Di Ái mật họp với bọn Tuyên phủ ty. Sau khi đoàn tụ với bà nội, trở về Thăng long nhận ấp phong. Được cử làm Khâm sai đại thần kinh lược mặt trận Chiêm. Được trao thanh linh kiếm Trấn Bắc. Cuối cùng được trao nhiệm vụ phục kích bắt Di Ái, đánh bọn Sài Thung.
Vương phi Ý Ninh dặn con:
– Mẹ nghe, con cứu ba cô gái khốn  nạn khỏi cảnh nhơ  nhớp ở Trường yên. Thượng hoàng ban 3 cô cho con làm tỳ nữ. Cọn ạ! Con còn trẻ, lòng dạ quá tốt. Vì vậy ba cô trèo cao, muốn leo lên địa vị phu nhân. Cũng may cô Hồng Liên cứu con. Bây giờ ba cô đã thành vợ của ba anh em họ Triệu; thì con lại vướng vào Ngọc Hoa. Mẹ nhắc cho con biết, hồi con một tuổi thì cô Thanh Nga đẻ ra đứa con gái tên Như Vân. Mẹ đã đính ước với cô Thanh Nga gả Như Vân cho con. Bây giờ Như Vân với con đã lớn. Cô Thanh Nga hiện dẫn Như Vân về Bắc cương. Mẹ sẽ sai sứ về tâu với bà nội. Bà nội với Trung Thành vương sẽ làm chủ cho cuộc hôn nhân của con.
Quốc Toản kinh hãi:
– Nhưng con với Ngọc Hoa đã như đôi chim liền cánh với nhau mấy năm qua, con không xa Ngọc Hoa được đâu.
– Hồi rời Trường sa, mẹ đã cho con biết vụ này rồi, mà sao con lại quên. Con mà không tuân lời mẹ thì mẹ không nhìn mặt con nữa đâu!
Là con chí hiếu, sợ mẹ giận, Quốc Toản đánh trống lảng thuật lại vụ được ban cho thanh kiếm Trấn Bắc. Thuật xong, hầu nói:
– Thôi bây giờ Hốt Tất Liệt đem quân đánh Đại việt, thì không cần bố làm con tin nữa. Bố mẹ về nước cùng các chú chống giặc.
Vương phi Ý Ninh vuốt tóc con:
– Cái vụ Trần Di Ái được phong An nam quốc vương, đã là ngọn núi ngăn không cho bố mẹ về Đại việt nữa.
– Sao? Tại sao?
– Con mới hút được năm mươi năm công lực của ông Di Ái. Con phải nhắm mắt nhập thiền một khắc, quy liễm chân khí lại, rồi hòa hợp với nhau thì Phật tính mới sáng, ma tính mới mờ đi; rồi suy nghĩ kỹ thì biết tại sao!
Tuân lời mẹ, hầu ngồi kiết già, nhập tĩnh luyện Vô ngã tướng thiền công. Một khắc trôi qua, hầu mở mắt ra, thấy lòng trong sáng vô cùng. Hầu chợt hiểu:
– Con biết rồi!
– Con thử nói ra xem có đúng ý mẹ không?
– Bố là con trưởng của ông nội. Tài trí nhất trong 8 anh em, được ông nội tin tưởng nhất. Công lao bố cũng cao nhất. Đời Đường, Tần vương Lý thế Dân là con thứ nhưng công lao lớn mà được ngôi vua. Nhưng ông nội không nhường ngôi cho bố, vì bà nội xuất thân là ca nhi. Ông nội biết chú Hoảng từ tâm thuật cho tới tài trí, công lao thua bố xa, mà ông phải nhường ngôi cho chú ấy, vì chú ấy là cháu ngoại của vua Lý Huệ Tông!
– Giỏi.
– Trong trận giặc thời Nguyên phong, bố lập công đầu, anh hùng thiên hạ đều hướng về bố. Bố lại cầm quân nghiêng nước. Vì vậy ông nội phải cử bố sang Mông cổ làm con tin, để có thể nhường ngôi cho chú Hoảng, mà không sợ bố tranh dành. Như Dường Thái tông với Thái tử Kiến Thành.
– Giỏi.
– Không ngờ bố đi làm con tin, mà lại kết thân với anh hùng Đại lý, Tây tạng, Hồi cương, Cao ly, Lý Đảm. Được Tống nể vì trả 3 châu về cho Đại việt. Hầu hết tướng sĩ, nhân tài văn võ đều xuất ra từ cửa của bố. Bố, mẹ oai rúng Trung nguyên, Đại việt. Như vậy ông nội sợ khi người băng, bố chỉ trở tay một cái là đoạt được ngôi vua. Chú Hoảng cũng lo lắng không yên. Ông nội tuy yêu thương bố, mà vì sự nghiệp Đông a phài tìm cách cho bố xa quê hương.
– Giỏi.
– Vì vậy khi Tống cầu viện, ông nội phải cử bố đem quân giúp Tống, hầu chú Hoảng nắm được anh hùng thiên hạ.
– Giỏi.
– Bố giúp Tống thành công vĩ đại. Tống phong cho bố tước Hành sơn vương. Ông nội biết, chức Hành sơn vương chỉ để trấn thủ cho Tống. Tống yên thì Việt mới yên. Nên ông nội đồng ý cho bố sang Tống lĩnh vùng Kinh hồ. Chú Hoảng mới yên tâm.
– Giỏi.
– Tống mất. Nếu bố muốn, bố thống lĩnh anh hùng Kinh hồ thành một nước lớn hơn Đại việt, hùng mạnh hơn Đại việt. Bố chỉ dơ tay ra là thống nhất Kinh hồ, Đại việt thành một nước. Vì vậy chú Hoảng mới kiến nghị bố bỏ Kinh hồ. Bỏ đất linh của tổ tiên sang Đại đô làm con tin.
– Giỏi.
– Nguyên phong Di Ái làm An nam quốc vương. Di Ái không tài, thiên hạ không phục. Nên chú Hoảng mới đánh tan được. Bây giờ bố là Bình Tây đại vương của Nguyên. Tước này lớn hơn An nam quốc vương nhiều. Nếu bố về nước thì chú Hoảng ngồi vào đâu? Vì vậy bố mẹ không về, để chú ấy yên tâm.
– Giỏi.
Vương phi Ý Ninh vuốt tóc con:
– Con đã 16 tuổi rồi! Không còn nhỏ nữa. Bây giờ con phải về nước, giúp chú Hoảng chống Nguyên. Sau này nghìn năm lịch sử sẽ ghi tên con.
Vương bảo con:
– Để cho chú Hoảng yên tâm. Ngay khi rời đây về Thăng long, con làm biểu tâu lên triều đình xin trả ruộng triều đình ban cho mẹ con. Xin trả ấp ông nội phong cho bố. Trong biểu con nại lý do: bố hiện ở quá xa Đại việt, đang là quan của Nguyên. Xin trả ấp để triều đình phong cho người khác.
– Con hiểu!
– Con thử nói xem có đúng ý bố không nào?
– Nếu bố mẹ còn ấp phong thì có nghĩa là bố-mẹ có thể trở về nước. Còn như bố mẹ trả ấp phong, có nghĩa là bố mẹ quyết lập nghiệp tha phương. Như vậy chú Hoảng sẽ yên tâm hơn.
Vũ Uy vương bảo con:
– Con luyện Vô ngã tướng thiền công, nội công âm nhu, lại luyện cả Huyền âm ngũ độc chưởng. Con vừa hút 50 năm công lực của Di Ái. Vậy con hãy ngồi vận theo vòng Đại chu thiên 72 vòng để hòa hợp các luồng chân khí với nhau.
Quốc Toản ngồi kiết già, nhắm mắt vận công đủ 72 vòng rồi mở mắt ra thì không thấy cha mẹ đâu nữa. Hầu biết cha mẹ bảo mình luyện công, để ra đi, hầu tránh cho cả hai bên khỏi đau lòng. Can đảm, hầu đứng dậy dùng khinh công lên đỉnh núi, thì thấy Hưng Nhượng vương, Địa Lô, Cao Mang, các tướng Tống cùng chư quân Cần vương đang thu nhặt vũ khí, lừa ngựa của Nguyên.
Ngọc Hoa nói với Quốc Toản:
– Trọn vẹn thiên phu Kị binh bị giết quá nửa, một số bị bắt làm tù binh. Mình thu được hơn nghìn ngựa. Không biết bao nhiêu vũ khí cho quân Cần vương. Bắt sống sống Di Ái và tùy tùng hơn trăm tên.
– Còn Sài Thung?
– Y đấu tiễn thủ với Cao Mang. Y bị bắn mù một mắt. Cao Mang tha cho y về Kinh hồ rồi.
Quốc Toản thấy Di Ái, Lê Tuân, Lê Mục, Đinh Thành Trân, Thúy Vi bị trói để ngồi bên đường trông thực thảm thiết.
 Triệu Nhất nói với Hưng Nhượng vương:
– Vương gia! Chỉ dụ của Thượng hoàng là không được giết Di Ái mà thôi. Tại sao ta không chặt hai chân, hai tay, khoét mắt y, rồi giam vào cũi chó giải về Thăng long?  Nếu trong tộc Đông a có trách cứ, thì vương gia nói rằng anh em chúng tôi làm, có sao đâu?
Quốc Toản nói với anh em họ Triệu:
– Thượng hoàng, hoàng đế, Hưng Đạo vương, Hưng Ninh vương, Chiêu Minh vương đều muốn duy trì tình thân tộc Đông a, nên không muốn giết, không muốn làm nhục ông ta. Chúng tôi là vai cháu ông, lại càng không nỡ xuống tay với ông. Mình đóng cũi giải về Thăng long cho dân chúng xem như xem thú vật cũng đủ nhục nhã lắm rồi. Sống cũng như chết vậy.
Hưng Nhượng vương nới với Quốc Toản:
– Mọi sự đã xong. Anh phải về Đông triều đự giỗ ông nội là An sinh vương. Địa Lô, Cao Mang xin phép anh về thăm trang ấp phong Văn sơn, Chiêu dương. Vậy em với Quốc Kiện giải tù binh về Thăng long. Dù nói cách nào, Di Ái cũng ngang vai với ông nội chúng mình. Vậy dọc đường nên cung phụng ăn uống cho ông ấy đầy đủ.
Triệu Nhất, Triệu Hòa phân phối các tướng hiệu Tường Hưng tại Quảng Tây:  Mạnh Khánh  Nguyên kháng chiến ở Liễu châu. Lưu Thâm kháng chiến ở vùng Côn luân. Tôn Thắng Phu kháng chiến ở vùng Ung châu.
Hai người nói với ba tướng:
 – Tôi cần trở về Đại việt, để xin cho hiệu Văn Thiên Tường rời Tây Bắc cương sang Vân nam kháng chiến. Mọi sự, ba tướng liên lạc, cứu ứng lẫn nhau.
Dọc đường ba anh em họ Triệu luôn ở cạnh Đại đởm đại tướng quân Nguyễn Thiên Sanh để học hỏi kinh nghiệm Đại đởm chiến của lão tướng. Cả ba người luôn nhắc nhở đến công lao của ông trong lần viện Tống, được Tống triều phong cho chức tước Đại đởm, đại tướng quân, Minh tâm, dũng lược, duệ mưu công thần,Nam phương, thần vũ Quốc công. Còn Ngọc Hoa thì đi cạnh Nang Tiên, Quốc Kiện, Quốc Toản.
Vắng Hưng Nhượng vương, Địa Lô, Cao Mang, tự nhiên Quốc Kiện cảm thấy mình là người lớn. Vương quyết định tất cả mọi sự.
Mặc dù Hưng Nhượng vương dặn Quốc Kiện, Quốc Toản cho bọn tù ăn uống tử tế. Nhưng Nang Tiên, An Tư cực kỳ ghét bọn nội phản, nên mỗi bữa nàng chỉ cho chúng một bát cơm với một con cá khô bằng ngón tay. Chúng đói quá van xin, nàng cũng không cho thêm.
Theo đề nghị của công chúa An Tư, Quốc Kiện sai đóng cũi giam Di Ái, Lê Tuân, Lê Mục, Đinh Thành Trân, Thúy Vi, mỗi người vào một cái cũi riêng biệt, bỏ lên xe chở về Thăng long phục mệnh. Cũi rất đặc biệt: chỉ đủ chỗ cho ngồi, mà phải cúi xuống, không đủ chỗ cho nằm. Trong mỗi cũi, giam thêm hai con đười ươi. Riêng cũi của mụ Thúy Hòa thì giam chung với một con dê đực cực lớn, hôi hám vô cùng. Dọc đường khi qua một thôn, một thị trấn, Nang Tiên xui Quốc Kiện sai lính đánh trống gọi dân chúng ra xem bọn phản dân, hại nước.
Khi về tới trấn  Lạng sơn, đây là vùng trấn nhậm của Hưng Hiếu vương. Vương thống lĩnh hiệu binh Tả thánh dực. Vương thân cùng văn võ quan ra tận biên giới đón. Tuy Quốc Kiện tước là vương, nhưng chưa được phong chức văn, chức võ gì . Hơn nữa Hưng Hiếu vương là biên cương trọng thần; vương là con thứ Hưng Đạo vương, trong tộc Đông a là vai anh của Quốc Kiện, Quốc Toản. Cả hai phải hành lễ với vương.
Lễ nghi tất.
Hưng Hiếu vương là người tình cảm, dễ dãi, vương dùng gia lễ tiếp Quốc Kiện, Quốc Toản:
– Có truyện trọng đại sắp xẩy ra. Các em đã biết chưa?
– Không! Chúng em xa Thăng long hai tháng qua, nên không biết gì cả.
– Triều đình ban chỉ triệu hồi tất cả các vương, hầu, tướng cầm quân tụ về Bình than nghị kế chống Nguyên.  Để bảo mật, hội nghị sẽ tổ chức trên một con thuyền. Có lẽ các em sẽ được Khu mật viện báo cho biết.
Vương nói với Hoài Nhân, Hoài Văn:
– Hôm trước anh Quốc Tảng về qua, có nói đến hai em. Anh ấy không tiếc lời khen hai em trong lần kinh lý nam thùy, thu phục nhân tâm, kéo được hơn vạn lính Nguyên, gốc Tống về với chính nghĩa; lại thành lập được hiệu binh Tường Hưng. Bây giờ thành công phá một thiên phu Kị binh Nguyên, bắt gian vương Di Ái.
Vương phi hành lễ với công chúa An Tư:
– Cháu xin bái kiến cô. Không ngờ đại giá cô cũng xông vào chốn gươm đao.
– Cô không phải là người đầu tiên  xung trận đâu! Chị Ý Ninh mới thực đáng kính.
Vương phi nắm tay Ngọc Hoa, Nang Tiên, hỏi:
– Hai tiên nữ này ở cung nào trên Thiên đình giá lâm đây?
Quốc Toản cười lớn:
– Chị thử đoán xem?
Vương phi chỉ Nang Tiên:
– Tiên này mắt to, mũi cao, dáng mảnh khảnh, chắc là người miền nam Đại việt.
– Giỏi!
Vương chỉ Ngọc Hoa:
– Còn tiên này ngực nở, lưng thon, mắt trong đen thì là tiên ở Giang nam. Có đúng không?
An Tư giới thiệu hai nàng.
Hưng Hiếu vương cười tỏ vẻ hài lòng:
– Trong nhà mình, thời Lý có Quốc mẫu Thanh Mai, có tổ cô Côi sơn công chúa Thanh Nguyên. Tổ Tự Mai kết hôn với công chúa Huệ Nhu. Ba vị đó oai trấn Chiêm, Việt, Tống, Tây hạ. Đó là một thời. Sau này Tuyên minh Thái hoàng thái hậu, Linh Từ quốc mẫu cùng các tổ khai sáng ra triều Đông a, từng làm rung động giang sơn Mông cổ. Hiện có thím Ý Ninh, một gươm cùng chú Vũ Uy khiến tướng sĩ Mông cổ kinh hồn táng đởm. Hiện trong nhà mình đã có chị Khâm Từ tuy là hoàng hậu, nhưng cũng là một võ tướng. Gần đây chị Thủy Tiên, kết hôn với Bình nam tướng quân Phạm Ngũ Lão, mà tài quá trượng phu.
Vương chỉ hai nàng:
– Hai em xuất thân cành vàng lá ngọc, sắc nước hương trời, thế mà thanh gươm, yên ngựa xông pha vào chốn muôn  ngàn đao. Anh phải gửi biểu về triều, xin triều đình cử sứ sang Chiêm, cầu đức vua Chiêm gả Nang Tiên cho Hoài Nhân. Còn Ngọc Hoa ư? Anh xin Tuyên cao thái phi cử sứ lên Tây Bắc cương, cầu Triệu vương phi gả Ngọc Hoa cho Quốc Toản.
Chợt nhớ một truyện, vương phi hỏi:
– Quốc Toản này! Chị nghe nói, hồi còn trấn thủ Trường sa, thân mẫu Toản đã giao ước với phu nhân Phó tể tướng Mông cổ, xin đính ước con gái của bà cho Toản. Vụ này thực hư ra sao?
– Vụ này rất kín, sao chị biết?
– Chính phụ vương (chỉ Hưng Đạo vương) tiết lộ. Phụ vương nói: khi Vũ Uy vương, vương phi trên đường sang Mông cổ làm con tin. Phi có tuyển 5 ca nhi Đông hoa, cực kỳ xinh đẹp theo. Trong đó ca nhi Thanh Nga sắc nước hương trời. Phi gả Thanh Nga cho Phó tể tướng Mông cổ là Ngột A Đa. Hai người hạnh phúc vô cùng tận. Thanh Nga nhớ ơn ấy, khi nghe vương phi sinh Toản thì hứa rằng nếu bà sinh gái sẽ gả cho Toản để đền ơn. Sau quả bà sinh gái. Bây giờ Toản có Ngọc Hoa. Truyện này sẽ ra sao?
– Em nghe nói ông Ngột A Đa theo A Lý Bất Ca, thống lĩnh binh Mông cô ở Vân nam, Tây tạng chống với Hốt Tất Liệt. Mới đây bị bại. Không biết sống chết thế nào?
Hưng Hiếu vương lắc đầu:
– Quân tan, ông bà ấy cùng bộ hạ thân tín chạy vào Khâu bắc lánh nạn. Khâu bắc là ấp phong của anh Dã Tượng. Quân Nguyên truy rất gắt. Mà Dã Tượng là người tình của Thanh Nga. Dã Tượng đem hiệu binh Văn bắc dàn ra đánh truy binh, cứu ông bà Ngột A Đa. Phụ vương nghe tin này người sợ anh Dã Tượng, chị Thanh Nga gặp nhau, e lửa tình bùng cháy lại. Lập tức người sai sứ lên đem Ngột A Đa với bộ hạ sang vùng Tiên yên, kiều ngụ nhờ bác Hưng Ninh. Hôm qua ông bà Ngột A Đa trên đường về dự đại hội Bình than có qua đây, ghé thăm anh. Bà ấy muốn thăm nàng Tô thị. Không chừng lát nữa em thăm nàng Tô thị sẽ gặp ông bà ấy.

Nhìn đám tù binh, Hưng Vũ vương cau mặt:
– Hai em đem bọn ngợm này về làm gì? Để anh quẳng vào chuồng cho cọp ăn thịt chúng cho rồi!
Trần Di Ái vẫn già họng:
– Uổng cho mày là con của Quốc Tuấn mà không biết một chút lễ nghi. Dù sao, trẫm cũng là em của anh Liễu. Chúng mày phải gọi trẫm bằng ông mà vô phép như vậy đấy! Trẫm được Thánh thiên tử phong cho làm An nam quốc vương. Trẫm là vua Đại việt. Chúng bay phải quỳ gối bái lậy. Thế mà chúng bay bất kính giam trẫm vào cũi thế này ư?
Công chúa An Tư không dễ bắt nạt như Quốc Kiện, Quốc Toản. Mắt phượng quắc lên, công chúa chỉ vào mạt Di Ái:
– Này tên phản quốc. Bởi xưa kia Tuyên minh thái hoàng thái hậu trong một lần đi săn, bắn chết một con chồn hôi. Con chồn hôi đầu thai vào đức Thái tổ nhà ta (chỉ Trần Thừa) mà sinh ra ngươi! Nên ngươi phản anh, hại nước, cúi đầu trước váy của đám phi tần Hốt Tất Liệt, Thoát Hoan để giặc cho về quê hương hại Tổ tiên, hại dân. Mi hãy câm họng lại, bằng không con bé cứng đầu này sẽ đem mi ra giữa chợ, sai một nghìn mụ đàn bà tốc váy đái vào đầu mi cho biết thân.
– À! Mi là con nhãi do mẹ là ả ca nhi Đông Hoa đẻ ra phải không? Mẹ mày thấy trẫm cũng phải cúi đầu lậy sứt trán, mà mày hỗn với trẫm ư. Mày phải biết rằng Thánh Thiên tử đã phong cho trẫm làm An nam quốc vương. Bọn mày phải khấu đầu lạy trẫm. Kể  cả thằng Hoảng!
An Tư nói với Nguyễn Thiên Sanh:
– Tôi nghe, xưa kia già mồm như Tô lịch thất tiên, bọn giáo chúng Hồi giáo, mà đại tướng quân còn trị được. Vậy tướng quân có cách nào cho tên gian này câm mõm được không?
Nguyễn Thiên Sanh cười ha hả:
– Khải công chúa điện hạ không khó. Thần sẽ biến những tên gian này thành khỉ đột nhảy múa như công chúa Nang Tiên đã biến tên gian vương Chiêm phản quốc Bác Câu La Chế Đa. Xin điện hạ cứ chờ. Đợi vào thành, thần sẽ có cách khuất phục y.
Gã Đinh Thành Trân hỏi Quốc Toản:
– Tôi nghe Hoài Nhân vương với hầu bắt con gái tôi đem về Thăng long. Vậy bây giờ con gái tôi hầu dấu đâu?
Quốc Toản chưa kịp trả lời thì Hoài Nhân vương đáp:
– Con gái người là ai? Bị chúng ta bắt bao giờ?
Đinh Thành Trân chỉ vào mụ Thúy Vi:
– Nó tên Đinh Thúy Hòa. Nó là con của tôi với Thúy Vi.
Hoài Nhân vương mắng:
– Mi cam tâm dâng vợ cho rợ Thát đát, lại còn táng tận lương tâm dâng con gái cho giặc nữa. Chúng ta đã cứu Thúy Hòa mang về Thăng long. Thượng hoàng ban chỉ truất quyền làm cha, mẹ của mi rồi. Thúy Hòa là tỳ nữ của Hoài Văn hầu. Hầu đã gả chồng cho nàng rồi. Chồng nàng là một tước công của Tống triều, văn võ toàn tài, khí phách ngất từng mây. Nàng đang là đại phu nhân ở Bắc biên.
Hoài Nhân vương chỉ Triệu Hòa:
– Kia là Triệu công, chồng của Thúy Hòa.
Triệu Hòa hướng Hoài Nhân vướng xá một xá:
– Vương gia, dầu sao hai vị này cũng là đấng sinh thành của Thúy Hòa. Nói cách nào, tôi cũng là rể của người. Tôi xin vương gia nới cho hai người một chút.
Nói rồi Triệu Hòa mở cũi thả con dê giam chung với mụ Thúy Vi ra. Công bưng một cái khay, trên khay có hai bát cơm, hai đĩa thịt kho, hai đĩa dò, một bát nước vối lớn  trao cho vợ chồng Đinh Thành Trân:
– Thay Thúy Hòa, con xin dâng nhạc phụ, nhạc mẫu bát cơm này.
Thúy Vi nói lớn:
– Thì ra con gái tôi đã được gả chồng! Thế mà Văn Chiêu hầu Trần Văn Lộng nói rằng Hoài Nhân vương, Hoài Văn hầu bắt con gái của tôi đem về làm truyên tồi bại. Láo thực.
Công chúa An Tư nạt:
– Con mi được cứu ra khỏi chốn hôi tanh. Giờ sang sống hạnh phúc, mà mi không biết ơn. Vợ chồng mi là quốc tặc, ta sẽ đem về Trường yên lột da, lóc gân mới xứng tội.
Triệu Hòa xá công chúa An Tư:
– Xin điện hạ nể mặt Hòa, mà bớt khắt khe với ông bà Đinh.
Vào trong dinh Tổng trấn, Hưng Hiếu vương truyền làm tiệc đãi khách.
 Cũi giam tội nhân để trên bãi cỏ trước sân. Còn tù binh Mông cổ thì trao cho tòa Tổng trấn Bắc cương giam. Nắng buổi trưa hừng hực bốc hơi nóng. Hai tên thân binh bưng thức ăn cho tù nhân. Di Ái, được ăn món bánh tôm Hồ tây. Món này chỉ có hai cái. Món thứ nhì là thịt nai ướp muối nướng. Y được ăn hai xâu. Món thứ ba là rùa ram muối. Cuối cùng là món chả trứng. Từ hôm bị bắt đến giờ, mỗi bữa Di Ái chỉ được ăn một bát cơm với con cá khô nướng. Hôm nay y được ăn 4 món đặc biệt. Có điều món nào cũng mặn. Mặn kệ mặn, thấy ngon miệng y cứ ăn cho đầy bụng. Ăn xong thấy khát nước, y kêu:
– Đem nước cho trẫm.
Thân binh không thấy đâu, chỉ thấy năm sáu Đại đởm đang bưng bát nước chanh pha đường nhâm nhi từng hớp một. Nắng nóng rừng rực, ăn mặn bị khát nước. Di Ái gào:
– Đem nước cho trẫm. Trẫm là hoàng đế Đại việt đây.
Một Đại đởm đem bát nước chanh sát tới cũi:
– Mời hoàng thượng ngự nước.
Nhưng viên Đại đởm không cho lão uống, mà lại nhấp nhấp mấy hớp làm lão càng khát thêm. Lão hét:
– Nước đâu? Đem nước dâng cho trẫm.
Công chúa An Tư xuất hiện:
– Nước ư? Người có yêu nước đâu mà đòi nước?
Bấy giờ Di Ái mới biết sở dĩ mình được cho ăn ngon, toàn những món cực mặn, để cho khát nước.
Tay lão run run, chìa ra ngoài cũi:
– Cho trẫm uống nước! Khát chết mất!
– Người còn dám mạ lỵ Thượng hoàng nữa hay không?
– Trẫm là vua Đại việt! Không có Thượng hoàng, Hạ hoàng  nào cả.
Nguyễn Thiên Sanh bưng một thau nước dội lên đầu lão. Lão hớp được một hớp. Lão khoan khoái cùng cực.
Nguyễn Thiên Sanh hỏi Di  Ái:
– Tên mãi quốc cầu vinh kia! Mi có chịu khuất phục tên Sanh méo này không?
– Mi là tên thất học, vô thuật, nhỏ bằng hạt vừng, hạt đậu, trẫm  mà không bị trói thì chỉ cần búng tay một cái mi đã mất mạng.
Nguyễn Thiên Sanh bưng bát nước chanh tới trước cũi:
– Mi khuất phục thì ta cho mi uống bát nước này?
Khát quá, Di Ai khô cổ, chân tay run run cực kỳ khổ sở. Thiên Sanh cứ nhâm nhi bát nước chanh trước mặt lão. Khoảng hơn khắc, khát quá lão đành xuống nước:
– Đại đởm đại tướng quân! Trẫm xin khất phục.
– Trẫm ư! Phải nói rằng: xin cho tên tử tội một bát nước!
– Không! Mi phải dâng nước cho trẫm.
Khoảng hơn khắc sau, Di Ái khát quá, y thều thào:
– Thôi! Lão phu xin nhận là tội nhân! Lão phu không dám xưng là vua nữa.

Đến đó Hưng Hiếu vương tới. Vương bưng cho lão một bát nước chanh pha đường thực lớn. Lão cầm lên uống một hơi hết sạch, rồi dựa lưng vào cũi thiu thiu ngủ. Hưng Hiếu vương truyền đem cũi để vào chỗ bóng râm, rồi vào trong dinh. Vương  hỏi thăm tình hình cuộc chiên ở núi Đại giáp.
Hoài Nhân vương thuật xong kết luận:
– Việc phục binh diệt một nghìn Kị binh thực giản dị. Duy hai cuộc đấu của Quốc Toản với ông Ái, của Cao Mang với Sài Thung là kinh khủng. Ông Di Ái thấy không thắng được anh Quốc Toản, ông ta giả bị kiệt sức ngã xuống. Anh Quốc Toản động lòng trắc ẩn đỡ ông dậy. Bấy giờ ông mới ra tay ám toán. Nếu là người khác thì đã mất mạng. Nhưng nhờ anh Quốc Toản luyện Vô ngã tướng thiền công, nên chân khí của ông bị hút hết. Cũng may, bấy giờ bác Vũ Uy vương xuất hiện, đánh ba chưởng, ông bị ngã, bị bắt.
Quang Kiện hỏi:
– Trấn này có núi Tô thị phải không?
– Phải!
Nang Tiên hỏi vương phi Hưng Hiếu:
– Em có nghe anh Quang Kiện nói đến nàng Tô thị chờ chồng hóa đá. Có phải núi Tô thị là nơi dựng tượng Tô thị không?
– Đúng vậy. Lát nữa chúng ta cùng đến lễ người xưa, để tỏ lòng thương xót người chinh phụ.
Công chúa Ngọc Hoa hỏi:
– Hoa nghe nói vịt quay xứ Lạng là đặc sản  nổi tiếng trời nam. Chúng ta nên mua xôi, vịt quay, rồi ngày mai cùng lên núi cúng nàng! (1)
Hưng Hiếu vương phi nói:
– Tôi đã đặt tại nhà hàng nổi tiếng nhất trấn làm 10 con vịt quay, mười cân xôi để công chúa đi hành hương Tô thị.
Ngọc Hoa thắc mắc:
– Vịt nào cũng là vịt. Vị xứ Lạng ngon là do cách quay, hay giống vịt ngon?
– Do giống!  Do cách nuôi vịt. Vị ở đây thả ở suối, chúng ăn cá suối, nên ít mỡ, thịt chắc lắm.
Quốc Kiện hỏi:
– Hôm trước, sau buổi triều hội, Thượng hoàng truyền làm yến cho thân vương, hoàng tộc ăn. Tôi được ăn món măng nứa xứ Lạng. Vậy rừng nứa ở đâu?
– Không xa đây lắm. Nhưng măng nứa chỉ mọc vào mùa xuân. Bây giờ măng thành nứa hết rồi.  Chú muốn xơi thì chỉ có dưa măng thôi.

Đoàn người leo lên núi Tô thị. Núi không cao, (2) mà người nào cũng có cõ công cao, nên thoắt một cái đã tới nơi. Trước tượng nàng Tô thị là khu đất bằng phẳng dài rộng ước 10 trượng (20m), đã có một người đàn bà kéo nhị, người đàn ông đánh trống mảnh. Người đàn bà đang hát. Mọi người im lặng, không dám nói, sợ làm khinh động, gián đoạn bài hát. Ngọc Hoa, An Tư bầy lễ vật ra trước tượng. Nghe tiếng hát, Quốc Toản kinh ngạc, vì giọng hát quá ngọt ngào, quá điêu luyện, theo điệu chầu văn:

Con cò bay lả bay la,
Bay ra ruộng lúa, bay vào Đồng đăng.
Đồng đăng có phố Kỳ lừa,
Có nàng Tô thị, có chùa Tam thanh.
Ai lên phố Lạng cùng anh,
Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em.
Tay cầm bầu rượu nắm nem,
Mải vui quên hết lời em dăn dò,
Gánh vàng đi đổ sông Ngô,
Đêm đêm tơ tưởng đi mò sông Thương .

Ca dứt, lại biến sang điệu Quan họ, rồi ru em mượt mà, thê lương. Cuối cùng là điệu hát Xẩm.
Quốc Toản khen:
  Đây là điệu hát Xẩm. Tôi tưởng trên đời này không ai có thể hát hay hơn bà nội với bản sư của tôi. Không ngờ giọng ca bà này muốn ngọt hơn, dịu hơn. Hơi của bà cũng dài hơn!
Người đàn bà mỉm cười:
– Đa tạ thiếu gia khen! Không biết bà nội với bổn sư của thiếu gia là ai, mà thiếu gia đem ra so sánh với tiếng hát như lệnh vỡ của tôi?
Nhìn sắc diện người đàn bà, Quốc Toản khen:
– Người xưa nói: có  đi ra thiên hạ mới biết ngoài bầu trời này còn có bầu tời khác. Trước tôi cứ tưởng trên đời này mẹ tôi là người đẹp nhất, rồi tới Ngọc Hoa. Bây giờ thấy dung nhan bà tôi mới biết rằng không phải.
Người đàn ông hỏi:
– Ngọc Hoa là ai?
Quốc Toản chỉ Ngọc Hoa:
– Là vị cô nương này.
Người đàn ông nhìn Ngọc Hoa rồi khen:
– Kể về sắc diện thì Ngọc Hoa đẹp thực. Cứ nhìn tướng, cùng bước đi thì cô nương này là người luyện võ công Hoa sơn đến trình độ hiếm có trong thế gian.
Giọng nói của ông lơ lớ, không sõi. Hoài Nhân nghi ngờ:
– Ông này nói tiếng Việt không sõi. Dường như ông là người ngoại quốc. Ta phải cẩn thận.
Vương hỏi:
– Sao ông biết Ngọc Hoa luyện võ công Hoa sơn?
– Tôi từng giao chiến với hàng trăm tướng Tống. Họ đều xử dụng võ công Hoa sơn. Nên chỉ nhìn bước đi tôi cũng biết. Đó chẳng qua là kinh nghiệm mà thôi! Chứ tôi không có tài kinh thiên động địa gì cả
Quốc Kiện tò mò:
– Ông tinh thông võ như vậy, mà ông khiêm tốn quá. Nhất định ông là một võ học danh gia. Ông thuộc võ phái nào?
– Đông a chính tông.
– Đông a chính tông? Như vậy ông là người nhà của tôi. Ông thuộc chi nào trong nhà tôi, mà tôi không biết, kể cũng lạ. Vậy ông có biết chiêu này không?

––––––––––––––––––––––––––––––


(1). Cho đến nay (2003) vịt quay Lạng sơn vẫn còn giữ được truyền thống. Vịt quay xứ Lạng thơm ngon hơn vịt quay Đồng tháp, vị quay Cà mau đã đành, mà còn hơn cả vịt quay Bắc kinh nữa. Độc giả nào không tin, cứ du lịch Lạng sơn, rồi ra chợ thưởng thức với xôi. Coi chừng ngon quá nuốt cả lưỡi vào đấy.

(2).Ngày nay leo núi Tô thị dễ hơn, vì có những bậc đá của ngôi thành cổ bên cạnh. Thành này do di đảng của giặc Mạc Đăng Dung xây để lại.
Nguyên giặc Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, dân chúng không phục. Minh sai tướng đem quân đánh. Mạc sợï quá cắt đất dâng cho Minh để được tồn tại. Sau nhà Lê trung hưng được, con cháu giặc Mạc cúi đầu xin Minh bao che cho giữ đất Cao bằng, Lạng sơn. Chúng xây thành trên núi Tô thị. Nay còn di tích.
Về vụ việc này sách Khâm-định Việt-sử thông giám cương mục (KĐVSTGCM), phần Chính-biên, quyển 27 chép:

Canh Tý, năm thứ 8 (1540). (Mạc, năm Đại-Chính thứ... Minh, năm Gia-Tĩnh thứ 19)
...
Tháng 11, mùa đông, Mao Bá Ôn nhà Minh đóng quân ở ngoài cửa ải. Mạc Đăng-Dung đến cửa quân tướng Minh, xin hàng và đem đất 5 động hối lộ nhà Minh.
Trước kia, tướng Minh là bọn Cừu Loan và Mao Bá-Ôn đã đến Quảng-tây, trưng tập các lang binh của thổ quan ở các tỉnh Lưỡng-Quảng, Phúc-kiến và Hồ-quảng. Lại truyền hịch đi Vân-nam sai tập họp binh lính, để chờ đợi nhật kỳ xuất quân.
Bọn Cừu Loan lại bàn:
"Chia chính binh làm ba đội tiến binh, từ Quảng-tây đi các xứ Bằng-tường, Long-châu và Tư-minh.
Chia kỳ-binh làm hai toán tiểu binh: Toán xuất phát từ châu Quy-thuận gọi là Sơn-tiểu, toán xuất phát từ núi Ô-lôi gọi là Hải-tiểu.
Kể cả chính binh và kỳ binh trên đây cộng 22 (ChbXXVII, 32)  vạn người.
Lại chia quân Vân-nam ở ghềnh Liên-hoa làm ba toán Tiểu binh, mỗi toán gồm 21.000 người. Tất cả đều lên đường  đồng thời xuất phát".
Lại truyền hịch sang ta dụ bảo về nghĩa phục hưng nước đã mất, nối lại dòng họ đã tuyệt, sự đánh dẹp chỉ nhằm một mình cha con Đăng Dung là kẻ có tội; còn ai biết đem quận huyện nào ra hàng, thì liền được trao cho chức quan ở quận huyện ấy để cai quản. Ai bắt hay chém cha con Đăng Dung mà ra hàng, thì cứ tính theo từng tên tội nhân một, mỗi tên là được thưởng 2 vạn nén vàng và được cho làm quan đến phẩm trật cao sang.
Tướng Minh lại dụ bảo cha con Đăng Dung nếu tự trói nộp mình đợi tội, thành khẩn dâng hết các sổ sách về đất đai và nhân dân thì được tha cho tội chết.
Bọn Bá-Ôn đóng quân dựng đồn ở gần  nơi biên giới.
Bấy giờ Đăng Doanh chết rồi, Đăng Dung được tin, cả sợ, sai sứ giả đến cửa quân tướng Minh, trần tình, nguyện xin ra khỏi bờ cõi, đầu hàng, và kính cẩn vâng theo lịnh trên phân xử.
Lời lẽ của Đăng Dung rất là khiêm nhún, thiết tha. Bọn Bá-Ôn vâng theo lời chiếu của vua Minh, ưng thuận, hẹn đến mồng 3 tháng 11  cho Đăng Dung sang làm lễ đầu hàng.
Bọn Bá-Ôn thiết lập MaÏc-phủ và tướng-đài ở Nam-quan chờ đợi. Đến kỳ đã định, Đăng Dung để Phúc-Hải ở lại coi giữ việc nước, còn mình cùng với người cháu là Văn Minh cùng bè đảng là bọn Vũ Như-Quế hơn 40 người do đường Nam-quan đi sang: ai nấy buộc dây thao vào cổ , đi chân không, gieo mình vào nơi Mạc-phủ tướng Minh, khúm núm, phủ phục, khấu đầu lạy, dâng tờ biểu xin hàng, nộp trình sổ sách, đất đai và nhân dân do mình cai quản.
Đăng-Dung lại xin dâng đất các động Tỳ-phù, Kim-lặc, Cổ-sâm, Liễu-cát, La-phù, An-lương thuộc châu (ChbXXVII, 33) Vĩnh-an ở Yên-quảng để lệ thuộc vào Khâm-châu nhà Minh. Lại xin nhà Minh ban cho chính sóc và ấn chương đã ban từ trước để Đăng Dung coi giữ việc nước trong khi chờ đợi mệnh lệnh có thay đổi hoặc quyết định ra sao.
Bọn Bá-Ôn vâng theo lời chiếu của vua Minh dụ bảo Đăng Dung hãy cho đái tội, về nước, chờ đợi mệnh lệnh phân xử sau.
Đăng-Dung lại sai Văn Minh và Nguyễn Văn Thái đem tờ hàng biểu sang Yên-kinh.
Lời cẩn án
 - Sử cũ chép đầu hàng nhà Minh, xin nộp các động Ty-phù, Kim-lặc, Cổ-sâm, Liễu-cát, La-phù và An-lương thuộc châu Vĩnh-an ở (ChbXXVII, 34) Yên-quảng cho lệ thuộc vào Khâm-châu. Nay xét Khâm-châu chí của nhà Thanh, chỉ thấy chép đời Gia-Tĩnh (1522-1566), Đăng Dung nộp trả năm động Ty-phù, La-phù, Cổ-sâm, Liễu-cát và Kim-lặc mà thôi, chứ không thấy nói đến động An-lương. Lại tra cứu đến Quảng-yên sách thì thấy động An-lương hiện nay là phố An-lương thuộc châu Vạn-ninh nước ta. Có lẽ về động An-lương, Đăng Dung chưa từng dâng nộp, mà chỉ là do sử cũ chép sai sự thật đó chăng?
Lại xét
- Trong năm Mạc Minh-Đức thứ 2, tức là năm Minh Gia-Tĩnh thứ 7 (1528), sử cũ chép Đăng Dung sợ nhà Minh hỏi tội, bèn tính chuyện cắt đất đem dâng hai châu Quy, Thuận: vua Minh nhận. Từ đó, Nam, Bắc lại cho sứ giả đi lại thông hiếu. Nhưng, nay tra cứu bản đồ nước ta thì có Quy-hóa châu và Thuận-châu. Hai châu này hiện nay thuộc tỉnh Hưng-hóa. Trong Đại-Thanh nhất thống chí tuy có chép châu Quy-thuận nguyên thuộc phủ Trấn-an tỉnh Quảng-tây nhà Thanh đấy thật, nhưng hai châu mà sử cũ gọi là Quy, Thuận có lẽ tức là Quy-hóa và Thuận-châu đó thôi.
Lại xét
- Minh sử thông giám kỷ sự: hồi năm Mạc Đại-Chính thứ 9 (1538), Mạc Đăng-Dung được tin quân Minh sang đánh, cả sợ, sai sứ xin hàng, nói dối là họ Lê không có người kế tự, cha con Đăng-Dung có công với nước, được mọi người suy tôn. Còn Đăng-Dung sở dĩ không dâng được biểu chương, cho sứ sang tiến cống, là chỉ vì  trước kia bị Trần Cung chiếm cứ Lạng-sơn làm nghẽn đường, đến sau lại bị quan giữ biên cương đóng cửa ải, không tiếp nhận.
Nay, từ năm Gia-Tĩnh thứ 7 (1528) đến năm thứ 17 (1538) trải hàng 10 năm chưa từng có sứ đi thông hiếu, thế mà sử cũ ở năm Gia-tĩnh thứ 7, đã vội chép rằng: "Đăng-Dung tính chuyện cắt đất dâng nộp hai châu Quy, Thuận, từ đó Nam, Bắc lại cho sứ giả đi lại thông hiếu". Về việc này, những điểm sử cũ chép đó đều xa sự thực, nên nay rút bới đi mà chép phụ vào đây để tham khảo.
(KHĐVSTGCM, bản dịch của viện Sử-học Việt-Nam, NXB Giáo-dục, 1998, trg. 113-117)

Trên núi Tô-thị, thành nhà Mạc còn lưu di tích
Nhờ dâng đất, được Minh triều bao che, con cháu Mạc Đăng-Dung còn cát cứ vùng biên giới Cao-bằng, Lạng-sơn một thời gian.


Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét