Hiển thị các bài đăng có nhãn Phê bình văn học - Học thuật. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phê bình văn học - Học thuật. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2012

Hãy phẫn nộ! - Indignez-vous! hay hiện tượng Triết gia Stépane Hessel ở Pháp

MUỐN CẢI THIỆN XÃ HỘI ?
Hãy đọc và phổ biến bài nầy trong và ngoài nước
Nhân dân Mỹ và Liên Âu đã và đang xuống đường, bất bạo động, để " phẫn nộ" và đòi hỏi cải thiện xã hội ! Việt Nam ta ?!?
"..Trí thức đích thực là trí thức tham dự sinh hoạt xã hội, chính trị để cải thiện xã hội, không phải chỉ là những chuyên gia,chuyên viên,..."

‘ HÃY PHẪN NỘ ! ’ ‘Indignez-vous!’ hay hiện tượng Triết gia Stépane Hessel ở Pháp.

Tại sao vẫn chưa có « cách mạng mùa Xuân » ở VN ?
Một hiện tượng bất ngờ trong sinh hoạt văn hoá ở nước Pháp: một cuốn sách mỏng của Stéphane HESSEL, ‘Indignez-vous!’(Hãy phẫn nộ!) dự tính bán vài trăm bản, đã phá kỷ lục ấn hành : trên bốn triệu cuốn và tiếp tục gây tranh luận sôi nổi. Tác giả, một ông già 93 tuổi, hô hào mọi người hãy nổi giận, hãy đứng dậy chống lại tất cả những bất công, những lộng hành của giới thống trị, tài chính hay chính trị đang đè nặng lên đầu mỗi người.

Thứ Bảy, 10 tháng 12, 2011

Bài thứ 4 - Kỳ 7 (cuối) - Phê bình cuốn sách của ông tiến sĩ Lê Mạnh Thát

Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam

KỲ 7 - Kỳ cuối cùng
 
Một vài nhận định.
(1). Phương pháp làm việc.
Bài phê bình này, cũng như những Bài phê bình trước đây, cho thấy rất rõ một điều khi trích dẫn sử liệu Lê Mạnh Thát đã không chính xác, trung thực, thậm chí dịch sai và hiểu sai nữa!
Như có thể thấy rõ ràng trong bài Phê bình ở đây những gì Lê Mạnh Thát nói là dẫn từ Bộ Sử thư “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên”, duyệt lại thì phần lớn không đúng hoàn toàn như nguyên tác chép.
(2). Quan điểm Sử học.
1). Trung Quốc đem quân đánh Giao Chỉ, trả đũa việc Giao Chỉ đưa quân tấn công các Châu Khâm, Liêm, và Ung, thì Lê Mạnh Thát gọi là “xâm lược”.
Trong khi đó, Giao Chỉ đưa quân vượt biên cảnh phương Nam đánh chiếm đất đai của Chiêm Thành thì Lê Mạnh Thát gọi đây là “mở mang bờ cõi”.

Bài thứ 4 - Kỳ 6 - Phê bình cuốn sách của ông tiến sĩ Lê Mạnh Thát

Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam

KỲ 6
 
2). Nguyên tác: Tất mệnh chi sở trí dã.
Từ điển Từ Nguyên giải nghĩa 2 chữ “tất mệnh” như sau:
- “[Tất mệnh]. Tận lực hiệu mệnh”.
- “[Tất mệnh]. Tận sức đến xả bỏ cả mạng sống”.
Tiếng “tất mệnh” nghĩa cũng như “trí mệnh”, nghĩa là “giao mạng, bỏ mạng”.
Các tiếng này được dùng để chỉ sự dốc hết sức lực để làm một việc gì dầu có bỏ mạng cũng đành!
Dịch Kinh, Quẻ Khốn (Đoài / Khảm), Đại Tượng từ:
- “Tượng viết: Trạch vô thủy, Khốn, quân tử dĩ trí mệnh toại chí”.
- “Tượng viết: Đầm không có nước, là (Tượng [hình ảnh] của) Quẻ Khốn, bậc quân tử coi đó mà đến bỏ cả tính mạng để thực hiện cho được chí hướng của mình”.
Câu này tôi đã dịch ở trên là dốc hết sức mình, bất kể tính mạng mà có được!”.

Bài thứ 4 - Kỳ 5 - Phê bình cuốn sách của ông tiến sĩ Lê Mạnh Thát

Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam

KỲ 5
 
Trở lại với cuốn “Đông Tây Dương Khảo” của Trương Tiệp đã dẫn ở một đoạn trước.
Trương Tiệp có một giòng rất sơ lược về sông Như Nguyệt như sau:
- “Như Nguyệt giang (Nguyên binh dữ Hoài Văn hầu chiến xứ)”.
                  /  Sđd. Qu. I. Tây dương liệt Quốc khảo. Giao Chỉ. Hình thắng danh tích  /.                      
- “Sông Như Nguyệt (Nơi quân của Nguyên triều và Hoài Văn hầu giao chiến)”.
[Phụ chú. Hoài Văn hầu tức Trần Quốc Toản.
Phần chữ in nhỏ trong ngoặc đơn của dẫn văn trên đây là phần t chú thích của Trương Tip]. 
Sông Phú Lương và sông Như Nguyệt được Trương Tiệp tự thuật riêng biệt cho thấy 2 Sông này là 2 con Sông khác nhau!

Bài thứ 4 - Kỳ 4 - Phê bình cuốn sách của ông tiến sĩ Lê Mạnh Thát

KỲ 4

Sau đây là một đoạn nói về cư xử của Thần tông với Vương An Thạch:
-Vương An Thạch dĩ tật cư gia, thượng khiển trung sứ lao vấn, tự triêu chí mộ thập thất phản, y quan mạch trạng, giai sở sử hành thân sự tấu.
Ký dũ, phục cấp giả thập nhật, tương an hựu cấp tam nhật. Hựu mệnh phụ thần tức kỳ gia nghị sự.
Thời hữu bất phủ Tân pháp giả An Thạch dục thâm tội chi, thượng “bất khả”, An Thạch tranh chi viết “bất nhiên Pháp bất hành!”.
Thượng viết:
~ Văn dân gian dịch phả khổ Tân pháp!
An Thạch viết:
~ Kỳ hàn, thử, vũ, dân do oán tư, thử khởi túc tuất dã!
Thượng viết:
~ Khởi nhược tính kỳ hàn, thử, vũ chi oán dịch vô gia?
An Thạch bất duyệt, thoái nhi chúc tật. Thượng khiển sứ ủy miễn chi nãi xuất……

Thứ Năm, 24 tháng 11, 2011

Bài thứ 4 - Kỳ 3 - Phê bình cuốn sách của ông tiến sĩ Lê Mạnh Thát

KỲ 3


Ngoài thời điểm tử trận của Tô Tá ở Trại Vĩnh Bình, Ngũ Cử ở Trại Thái Bìnhtheo Lê Mạnh Thát nói là được ghi chép ở quyển 273 của bộTrường Biên”, cũng liên quan Quyển CCLXXIII này của “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên” có 1 điểm cũng cần nói sau đây:
Lê Mạnh Thát viết:
       Tục tư trị thông giám trường biên 273 tờ 4b chép việc tên tướng coi Khâm Châu là  Trần Vĩnh Linh, khi quân ta tiến đánh vẫn chủ quan bày rượu uống, sau bị giết cùng với các viên Giám áp Văn LươngNgô Phúc, Tuần kiểm Tưởng Cẩn, Giám thuế Âu Dương Dẫn và các viên chỉ sứ Tống Đạo, Đinh Toại. Viên tướng coi Liêm Châu là Lỗ Khánh Tông cũng bị giết với tri huyện Hợp Phố là Lương Sở, Giám áp Chu Tông Thích, Chỉ sứ Ngô Tông Lập.
       Đạo quân chiến thắng ở Liêm Châu tiến thẳng lên phía đông bắc, tiến chiếm Bạch Châu. Viên tuần kiểm châu này Thẩm Tông Cổ bị giết, như Tục tư trị thông giám trường biên 273 tờ 5a đã ghi”.

Bài thứ 4 - Kỳ 2 - Phê bình cuốn sách của ông tiến sĩ Lê Mạnh Thát

KỲ 2

Dẫn từ Vũ Kinh Tổng Yếu. Tiền Tập (Qu. X. Công thành pháp. trang 437, 438).
Đinh Độ (990 - 1053) và Tăng Công Lượng (998 - 1078) thời Bắc Tống (960 - 1127).
Cứ coi hình thì rõ ngay “vân thê” (thang mây) có phải là thang dâyhay không - như Lê Mạnh Thát, do không biết vân thê là cái chi, nên dịch đại là thang dây”.
Như hình vẽ cho thấy, loại Thang này được gắn trên xe, và xếp gọn lại được, trong xe có chỗ cho một số quân binh.    
Cứ coi hình là đủ rõ, có lẽ không cần giải thích thêm!
Ở trang 124 Lê Mạnh Thát dịch 1 đoạn từ Bộ Đại Việt sử lược, trong đó có một câu: Ta tạo thang bay để lên thành. Giặc kia dùng đuốc lửa, thang bay không thể đến gần”.
Bộ “Đại Việt Sử Lược Lê Mạnh Thát dẫn trên đây tức Bộ “Việt Sử Lược”.
Đoạn dẫn trên Việt Sử Lược chép như sau:
- “Ngã vi phi thê dĩ lâm thành, bỉ thi dĩ hỏa cự, phi thê bất năng cận”.
                                                           /  Việt Sử Lược. Qu. II. Nguyễn kỷ. Nhân tông  /.
(Phụ chú. Trần triều khi cướp ngôi triều Lý bắt người h đổi thành họ Nguyễn.
Tham khảo: An Nam Chí Lược. Qu. XII. Lý thị Thế gia). 

Bài thứ 4 - Kỳ 1 - Phê bình cuốn sách của ông tiến sĩ Lê Mạnh Thát

Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam. Phê bình (5).
01 – 54 (58).
(KỲ 1)
Tới bài Phê bình thứ 4 này tôi phê bình tập 3 của bộ Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát.
Khi phê bình tới Tập 3 thì điều này không có nghĩa rằng những sai lầm trong Tập 2, và cả Tập 1, đã được nêu ra hết, không còn gì để nói! Lấy vài thí dụ:
Ở Tập 2 (trang 236), Lê Mạnh Thát viết:
        Về huyện An Thuận, Nguyên Hòa quận huyện đồ chí 38 tờ 15a1-3 mô tả: “Huyện vốn là huyện đất Cư Phong đời Hán. Nhà Ngô đổi là Di Phong, lại chia đặt thêm huyện Thường Lạc thuộc quận Cửu Chân. Tùy Khai Hoàng năm thứ 10 (590) đổi làm hyện Ái Châu, năm thứ 16 (596) đổi làm huyện An Thuận. Hoàng triều nhân theo”.
Về huyện An Thuận ở đoạn trên, Nguyên Hòa Quận Huyện Đồ Chí chép như sau:
- An Thuận huyện. Hạ. Tây bắc chí Châu cửu lý.
Bản Hán Cư Phong huyện địa, Ngô cải vi Di Phong, hựu phân trí Thường Lạc huyện - thuộc Cửu Chân Quận. Tùy Khai Hoàng thập niên cải thuộc Ái Châu, thập lục niên cải vi An Thuận huyện. Hoàng triều nhân chi.

Thứ Tư, 14 tháng 9, 2011

Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam - Kỳ 7

KỲ 7
(2). Thành xây hến mấy tòa.
Nguyên tác: Thẩn các, hóa thành trùng!”.
Câu dịch của Lê Mạnh Thát tối mò mò! Cái sự tối mò mò này không có gì lạ hết, bởi lẽ chính Lê Mạnh Thát rồi không hiểu nguyên tác nói cái chi nữa! Không hiểu thì làm sao câu dịch không tối mò mò cho được! “Thành xây hến mấy toà”, tòa hếntòa gì đây?
Những người không biết Hán văn rồi chẳng hiểu Lê Mạnh Thát nói cái gì? Bản thân đã không hiểu thì làm sao làm cho người khác hiểu được!
Câu này gồm 2 cặp, 4 chữ diễn tả một quan điểm quan trọng của Phật giáo, quan điểm nhất thiết thế giới đều là hư huyễn, không thực!
1). Thẩn các. Còn gọi thẩn lâu, hay thẩn khí.
Thẩn (Thân + dấu Hỏi) Lê Mạnh Thát đọc sai là Thần (Thân + dấu Huyền).
+ Có những lúc sóng êm, gió lặng, trên mặt biển, từ một điểm nhìn ra khoảng xa xa, do hiện tượng ánh sáng chiết xạ mà tạo thành ảnh ảo những cung điện, thành quách.

Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam - Kỳ 6

Ðức Phật thị hiện trên không trung tại Miến Ðiện và Trung Quốc
 Sưu tầm từ báo chí địa phương Trung Quốc năm 2005
KỲ 6
Sau hết, ở đầu đoạn dẫn trên Lê Mạnh Thát ghi “….. năm Hàm Hanh thứ ba (672)”, tức năm thứ 3 Niên hiệu này tương ứng năm 672, thế nhưng, ở đoạn cuối lại viết “.... năm Hàm Hanh thứ 3 (674)”, tức năm thứ 3 Niên hiệu này nhằm năm 674, nói khác đi, cùng một thời điểm mà sai biệt 2 năm!
Nguyên văn đoạn trên của Thích Nghĩa Tĩnh:
- Vu thời Hàm Hanh nhị niên, tọa Hạ Dương Phủ. Sơ Thu hốt ngộ Cung Châu sứ quân Phùng Hiếu Thuyên, tùy chí Quảng Phủ, dữ Ba Tư bạch chủ kỳ hội Nam hành - Phục mông sứ quân lệnh vãng Cương Châu, trùng vi đàn chủ, cập đệ Hiếu Đản sứ quân, Hiếu Chẩn sứ quân, Quận quân Ninh thị, Quận quân Bành thị đẳng, hợp môn quyến thuộc hàm hiến tư tặng, tranh trừu thượng hối, các xả kỳ xan, thứ vô phạp ư hải đồ, khủng hữu lao ư hiểm địa. Đốc như thân chi huệ, thuận Cấp Cô chi tâm. Cộng tác qui y, đồng duyên thắng cảnh. Sở dĩ đắc thành lễ yết giả, cái Phùng gia chi lực dã! Hựu Lãnh Nam pháp tục cộng cảnh khứ lưu chi tâm; Bắc thổ anh nho câu hoài sinh biệt chi hận.

Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam - Kỳ 5

KỲ 5

8). “....... phép tục Lĩnh Nam cùng làm khó lòng kẻ đi người ở. Nho sĩ ăn tại đất bắc đều mang nỗi hận biệt ly.”.

Nguyên tác:Lãnh Nam pháp tục cộng cảnh khứ lưu chi tâm; Bắc thổ anh nho câu hoài sinh biệt chi hận.”.

- “(Bản chất) của người Tăng, kẻ tục ở vùng Lãnh Nam rồi đều nghẹn ngào trước cảnh kẻ ở người đi; (bản chất) bậc trí thức tài cao phương Bắc ai cũng đều buồn thương cho cảnh chia lìa giữa người sống.”.

+ Lê Mạnh Thát không hiểu 2 chữ “Pháp tục” ở đây chỉ 2 giới Tăngtục.

+ Chữ “Cảnh” trong đoạn trên có nghĩa “ăn mà bị nghẹn xương ở cổ”.

Chữ này bên trái là bộ “Ngư” (Con cá), bên phải là chữ “Canh”, nghĩa là “Sửa đổi”.

Ngoài ra chữ “Canh” còn âm đọc nữa là “Cánh”, nghĩa là “Lại, nữa. Càng”

+ 2 chữ “khứ lưu”: Khứđi, ở đây chỉ người đi; lưu, ở đây chỉ người ở lại.

+ “Nho sĩ ăn tại đất bắc”. Tôi không rõ Lê Mạnh Thát dịch từ đâu ra chữ “ăn”?

Chưa nói “ăn tại đất bắc” là ăn làm sao? Thiệt là tối mò!

Tóm lại, đối chiếu dịch văn của tôi thì thấy Lê Mạnh Thát dịch rất sai lạc, ngây ngô!

Lịch sử Phật giáo Việt Nam - Kỳ 4

KỲ 4

Lê Mạnh Thát dịch đoạn Thích Nghĩa Tĩnh tự thuật từ Quảng Châu đi Ấn Độ.

          “Đại Đường Tây Vức cầu pháp cao tăng truyện quyển hạ ĐTK 2066 tờ 7c3-8b14 đã ghi cuộc gặp gỡ này khá chi tiết:  “Bấy giờ vào năm Hàm Hanh thứ ba (672), đang kiết hạ tại Dương Châu. Đầu mùa thu bỗng gặp sứ quân Cung Châu Phùng Hiếu Thiên bèn đi theo đến Quảng Châu, hẹn gặp với chủ thuyền Ba Tư để đi về phía Nam. Lại được sứ quân sai đến Cương Châu, lại làm đàn chủ cùng với em là sứ quân Hiếu Đẳng, sứ quân Hiếu Chẩn, quận quân họ Ninh, quận quân họ Bành, tập hợp nhân viên bà con, đều đến gặp để dâng biếu. Họ tranh nhau cho những tấm vải tốt, mỗi bỏ ra những món ăn lạ, để không thiếu hụt trên đường đi biển, lo sợ khó nhọc trên đất hiểm nguy, dốc lòng như ơn nghĩa đối với người thân, chiều theo lòng giúp kẻ cô độc, cùng làm lễ quy y, cùng có duyên với cảnh Phật. Sở dĩ được thành lễ gặp gỡ như vậy, ấy là nhờ sức của nhà họ Phùng. Lại phép tục Lĩnh Nam cùng làm khó lòng kẻ đi người ở. Nho sĩ ăn tại đất bắc đều mang nỗi hận biệt ly.

Lịch sử Phật giáo Việt Nam - Kỳ 3

KỲ 3                                                                    *
Phần chuyển dịch của tôi sau đây sẽ cho thấy cái ngớ ngẩn, thiếu mạch lạc - nhiều lúc đến tối tăm, của đoạn dịch văn dẫn trên của Lê Mạnh Thát.
Nguyên tác đoạn trên như sau:
-Trí Hoằng luật sư, Lạc Dương nhân dã, tức sính Tây vực đại sứ Vương Huyền Sách chi điệt dã! Niên tài nhược tuế tảo hạp xung hư, chí miệt khinh phì, tình hoài thê độn. Toại vãng Thiếu Lâm Sơn xan tùng phục nhĩ, lạc tụng Kinh điển, phả công văn bút. Ký nhi ngộ triều thị chi huyên hoa, thượng Pháp môn chi trừng tịch, toại bội Bát Thủy nhi khứ Tam Ngô, xả tố chi nhi hoán tri phục.
Sự Tha thiền sư vi sư, bẩm thừa tư huệ. Nhi vị kinh đa tái tức phưởng phất huyền quan. Phục vãng Cần Châu Nhẫn thiền sư xứ trùng tu định liễm. Nhi phương căn tuy thực, sùng điều vị tủng, toại tế Tương xuyên, khoa Hành Lãnh, nhập Quế Lâm nhi thác tưởng, độn u tuyền dĩ tức tâm, phả kinh niên tái trượng Tịch thiền sư vi y chỉ. Đổ sơn  thủy chi tú lệ, ngoạn lâm bạc chi thanh hư, huy hàn tả trung, chế “U Tuyền Sơn Phú” thân viễn du chi hoài. Ký lãm Tam Ngô chi Pháp tượng phả tận phương diên, lịch Cửu Giang chi thắng hữu, cơ nhàn diệu lý. Nhiên nhi túc thực thiện căn phỉ do nhân tưởng,  tự xuất Trung Phủ dục quan lễ Tây Thiên. Hạnh ngộ Vô Hành thiền sư dữ chi đồng khế, chí Hợp Phố thăng bạch, trường phiếm thương minh. Phong tiện bất thông, phiêu cư Tỷ Ảnh. Phúc hướng Giao Châu trú kinh nhất Hạ. Ký chí Đông mạt phục vãng hải tân Thần Loan tùy bạch Nam du, đáo Thất Lợi Phật Thệ quốc. Tự dư kinh lịch cụ tại Hành thiền sư truyện nội.

Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam - Kỳ 2

KỲ 2
5). “đến núi Hoành, vào rừng Quế”.
Chữ “Hoành” phải là chữ “Hành” mới đúng.
Lê Mạnh Thát không biết “rừng Quế” ở đây phải để nguyên là “Quế Lâm”, một địa danh thuộc tỉnh Quảng Tây.
6). “sống suối xa mà dứt lòng”.
Nguyên tác: “khoa Hành Lãnh, nhập Quế Lâm nhi thác tưởng, độn u tuyền dĩ tức tâm”.
Dịch chính xác phải là:
- “vượt Hành Sơn, vào đất Quế Lâm mà suy tư, ẩn mình ở chốn núi sâu để tĩnh tâm”.
7). viết nên bài phú U thiền sư”.
Tôi không rõ Lê Mạnh Thát đọc thế nào mà sai lạc đến thế! Bài phú này tựa chính xác là “U Tuyền Sơn”, không phải “U thiền sư” như Lê Mạnh Thát viết.
8).trải qua bạn bè đất Cửu Giang”.
Nguyên tác: “lịch Cửu Giang chi thắng hữu”.
Lê Mạnh Thát dịch là “bạn bè” thì dịch thiếu chữ ‘thắng”.
Nguyên tác nói “thắng hữu”, không chỉ nói “hữu”. “Thắng” nghĩa là “vượt hơn, tốt đẹp”. Và “thắng hữu” có nghĩa là “bạn bè hay, giỏi”. “Thắng hữu” đây chỉ thiện tri thức.
9). “….. Song gốc lành xưa trồng, chẳng phải do con người tặng lại. Cho nên từ kinh đô muốn đi xem Tây Thiên”.

Phê bình văn học - học thuật : Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam - Kỳ 1

01 – 50 (55).
< Để nhớ bạn Lê Hòa Huyền Thanh Lữ >
KỲ 1
Dẫn nhập.
Cách đây khoảng hơn 3 năm không lâu (khoảng giữa năm 2008) tôi viết 2 Bài phê bình bộ “Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam” (LSPGVN), tất cả 4 Tập, của Lê Mạnh Thát.
2 Bài phê bình này nêu lên những khiếm khuyết của Lê Mạnh Thát về mặt Hán văn, về mặt kiến thức Văn học, Sử học (Trung Hoa), và kể cả kiến thức Phật giáo.
2 Bài phê bình này tôi chỉ mới duyệt qua Tập I của bộ LSPGVN.
Bài phê bình thứ 2 xong ngày 8 tháng 5 năm 2008.
Sau đó tôi định phê bình tiếp, nhưng vì cần viết 1 số bài khác nên tôi gác lại việc này.
+ Với một cuốn sách liên quan Lịch sử Cổ Trung Hoa và Việt Nam như cuốn LSPGVN ở đây thì điều tất yếu người viết phải thông hiểu Hán văn.
Thế nhưng, trong 2 Bài phê bình kể trên tôi đã đưa ra những chứng cứ rất rõ ràng rằng khả năng Hán văn của người biên soạn Lê Mạnh Thát rất thấp!
Về chữ nghĩa, ngay đến những chữ thông thường nhất Lê Mạnh Thát cũng không hiểu nói chi là về phương diện cú pháp, ngữ pháp!