HỒI
THỨ NĂM MƯƠI HAI
Văn nghệ thời Đông A,
– Có lẽ phụ hoàng cũng như triều đình sợ anh ấy nghĩ mình
cũng là cháu vua Lý Huệ tông. Anh ấy sẽ vận động với Mông cổ, xin phong vương
rồi về tranh dành ngôi vua với Thái tử
Hoảng.
– Em thì em nghĩ khác.
– Nghĩa là?
– Phụ hoàng cũng như triều đình thấy anh là người trung
hậu, không thích quyền hành, mà chỉ nghĩ đến Xã Tắc, nên cử anh đi mà không sợ
Mông cổ phong cho anh
làm An Nam quốc
vương, rồi về tranh ngôi vua. Lại nữa, triều đình Mông cổ không thiếu gì văn
quan, võ tướng là tinh hoa của Tống, Liêu, Kim, Tây hạ, Tây vực. Nếu cử anh
Quốc Khang sang làm con tin, thì anh chỉ
là một cục bột, ngồi ở Hoa lâm mà thôi. Vì vậy người mới cử anh sang,
Mông cổ sẽ trọng dụng tài của anh. Anh làm quan cho Mông cổ thì Đại Việt mới có
lợi.
– Vả chú Hoảng vốn có chân mệnh đế vương từ nhỏ. Truyện
như thế này. Năm chú Hoảng bẩy tuổi bị bệnh sốt mê man, mắt trợn ngược. Hoàng
hậu cùng phi tần tưởng hoàng tử sắp hoăng, hậu nhờ Huệ Túc phu nhân là người
bút mặc văn chương đề bài chủ để thờ. Huệ Túc phu nhân xem số Tử vi của hoàng
tử rồi quẳng bút từ chối rằng:
“ Thần tính số
của Hoảng, thấy sống rất thọ, không thể chết non. Hơn nữa đây là một vị minh
quân của Đại Việt sau này. Hiện Hoảng đang gặp hạn Bạch hổ ngộ Kị, thì chỉ bệnh
nặng mà thôi”.
Thuận Thiên hoàng hậu hỏi:
“ Bao giờ thì
Hoảng khỏi?”.
“ Tâu, ngày mai
giờ Ngọ”.
Phụ hoàng cầm áo long bào để bên chú Hoảng, rồi tuyên:
“ Nếu tỉnh dậy
thì cho áo này. Sau sẽ được truyền ngôi”
Quả
nhiên giờ Ngọ hôm sau hoàng tử Hoảng tỉnh dậy. Phụ hoàng mới lập làm Thái tử. Hơn
nữa chú Hoảng từng cầm quân thắng Mông
cổ ba trận lớn, trong đó có trận tái chiếm Thăng long. Vì vậy phụ hoàng mới truyền ngôi cho chú ấy.
Vương phi Ý Ninh
à lên một tiếng, rồi hỏi tiếp:
– Em nghe mối tình của Phụ hoàng với mẫu thân đẹp vô
cùng. Các danh sĩ không tiếc lời ca tụng. Sư phụ nói: mối tình đã làm thay đổi toàn bộ luân lý Đại Việt. Họ còn nói, mối tình
của phụ hoàng với mẫu thân, khiến cho toàn quốc rộ lên phong trào thượng tôn văn
học, đàm văn, luận phú, quý trọng ca xướng. Sở dĩ các lộ, các trấn, các phủ,
các huyện dĩ chí các xã đều cho mở quán văn, là do mối tình này. Anh thuật cho
em nghe đi.
Vũ Uy vương khoan thai
thuật:
– Mẫu thân anh họ Mai, tên Đông Hoa, xuất thân làm con
hát ở phường Tây hồ.
Vua Thái tông gặp
bà Mai Đông Hoa trong trường hợp nào? Đây là mối diễm tình được ca tụng đẹp nhất triều Đông
A , được huyền thoại cho đến nay. Tra trong các bộ sử thì không hề thấy nói đến,
nhưng gia phả các chi họ Trần thì chép đầy đủ.
Nguyên hồi Chiêu
Thánh hoàng hậu Lý Chiêu Hoàng 19 tuổi vẫn chưa có hoàng nam. Thái sư Trần Thủ Độ
ép nhà vua phế hoàng hậu xuống làm công chúa, rồi đem vương phi của An Sinh vương Trần Liễu vào cung vì vương phi đã có thai ba tháng
(1237). Nhà vua buồn rầu, thường giả làm nho sinh, cùng viên thái giám thân tín
tên Đại Lực trốn ra ngoài thành Thăng long thăm dân cho biết sự tình. Một lần
người tới phường Tây hồ chơi, vào một Quán văn.
Chủ quán thấy một
thiếu niên anh tuấn, thân thể hùng vỹ, cùng một gia nhân theo hầu, thân thể to
như ông hộ pháp. Cả hai đi ngựa, trang phục như nho sinh, thì biết đây là giới tao nhân mặc khách. Ông
vội vàng ra mời vào.
Trong quán có một kệ xếp rất nhiều sách. Giữa
quán một lư hương khói tỏa hương thơm ngát. Khách khá đông, hơn trăm ghế ngồi
gần như kín hết. Tất cả đang nghe một thầy đồ giảng sách. Thầy đồ say xưa thuật
đoạn bà Trưng Nhị cùng cùng các nữ tướng Hồ Đề, Trần Năng, Phật Nguyệt, và nam tướng
Lạiï Thế Cường đánh chiếm Trường sa. Đến chỗà bà Trần Thiếu Lan tử trận, thầy
ngừng lại:
– Hôm nay xin
ngừng ở dây. Ngày mai tôi sẽ thuật tiếp đọan vua Trưng cùng 162 anh hùng họp
nhau tại Mê linh tuyên bố khởi nghĩa.
Thính giả vỗ tay
hết tràng này, đến tràng khác.
Thầy đồ chỉ tay
vào chủ quán:
– Xin giới thiệu
với chư vị, đây quán chủ. Quán chủ họ Lý tên Tín, là thầy đồ dạy học tại trường
huyện Thọ xương.
Lý Tín chắp tay
vái khách:
– Thưa chư vị
hiền nhân quân tử. Sau mục kể truyện anh hùng, thiểm quán kính mời quý khách thưởng
thức âm nhạc.
Một toán sáu người
từ phòng trong bước ra, gồm ba nam, ba nữ. Tất cả đều còn trẻ. Người đàn ông
lớn tuổi nhất đánh trống mảnh. Hai người đàn ông còn lại, một người vỗ trống cơm,
một người thổi sáo. Hai người đàn bà, một người kéo nhị, một người gảy đàn. Ca
nhi là một cô gái, bên trong mặc áo cánh nhiễu tím, khoác ngoài áo tứ thân kết
hai mầu hồng nhạt, xanh lá mạ non, dây lưng cũng hai mầu như áo; váy lụa đen
dài che lấp chân. Khăn mầu tím, đuôi gà dài phía sau gáy. Cả toán nghiêng mình
chào khách, rồi ngồi lên chiếc sập.
Vừa trông thấy đào
hát, nhà vua dã choáng váng, đó là một thiếu nữ tuổi khoảng mười sáu, mười bẩy,
dáng người thanh lịch, nhan sắc diễm lệ. Mặc dù trong cung, nhà vua đã có hoàng
hậu, nhiều phi tần là tiểu thư con các quan; triều đình còn lệnh cho các phủ
huyện tuyển những thiếu nữ đẹp nhất đem vào cung làm cung nga. Thế nhưng lần
này nhà vua thấy một thiếu nữ có nhan sắc diễm ảo, như có như không; lại hát
hay, thì ngài rung động mãnh liệt. Nhà vua than thầm:
– Tại sao trong
hậu cung mình không có những mỹ nữ như cô gái này? Tại sao trong ban nhạc Cung đình
của mình không có những ca nhi giọng hát tuyệt vời như thế này?
Nhà vua nhìn cô
gái như ngây, như dại. Giọng cô gái trong, nhuyễn như nhung. Cô vừa hát, vừa
liếc mắt, nghiêng nghiêng đầu, sóng mắt long lanh. Thỉnh thoảng cô lại mỉm cười.
Sau bản hát, cô cầm cái rá đi một vòng xin tiền. Người người đều cho tiền. Thường
thì mỗi người cho một đồng, hai đồng. Thỉnh thoảng có người cho ba đồng. Khi cô
gái tới trước nhà vua, nhà vua sờ tay vào túi, nhưng có bao giờ nhà vua tiêu tiền
đâu mà mang theo? Cô gái thấy nhà vua móc hết túi ngày đến túi khác mà không có
tiền thì mỉm miệng cười chờ đợi. Cô cất tiếng hát:
“ Tây hồ sóng vỗ lăn tăn,
Quân tử như ánh
trăng rằm đêm thâu”.
Nhà vua quýnh
quá, ngài tháo sợi dây chuyền bằng vàng đeo trên cổ, có mang tượng Quán Thế Âm
bằng ngọc đỏ chói. Ngài nắm lấy tay nàng, đặt vào:
– Tiên cô ơi! Đây
là kỷ vật của tôi, được một vị cao tăng tặng, với lời cầu nguyện rằng tôi luôn được
đức Bồ Tát phù hộ. Nay tôi biếu tiên nga, cũng ước mong tiên nga được Quán Thế Âm
che chở.
Xung quanh có
hằng trăm người, ai cũng mở to mắt nhìn viên nho sinh hào phóng. Sợi dây ít ra đến
hai lượng vàng, với tượng Phật bằng ngọc, rẻ ra cũng trên năm lượng nữa. Thời
bấy giờ giá một lượng vàng là hai trăm quan tiền. Mỗi quan là sáu trăm đồng. Cô
đi hát cả tháng may ra mới được một quan tiền. Bây giờ cô gặp một nho sinh hào
phóng cho cô món quà quá lớn. Cô nhìn nho sinh: dáng người hùng vĩ, mặt đẹp như
ngọc, tiếng nói uy nghiêm mà đầm ấm.
Cô gái còn đang ngỡ ngàng, thì nhà vua đã đeo
sợi dây vào cổ cô, rồi hỏi:
– Cô ơi, cô có
thể cho tôi biết khuê danh được không?
– Dĩ nhiên là được!
Đa tạ nhã lượng quân tử, em họ Mai, tên Đông Hoa. Để đáp lại tri âm em xin hát
một bài nữa mong công tử ban cho nhất cố Chu Lang.
Tiếng nói của Đông
Hoa thanh tao, nàng còn biết dùng điển nhất cố Chu Lang, chứng tỏ nàng cũng thuộc giới bút mặc văn chương. Điển
này như sau: thời Tam quốc bên Trung nguyên, Đại Đô đốc Ngô là Chu Du. Du lĩnh chức đô đốc khi còn trẻ, tính khí hào phóng, nhã
lượng, cao trí, lại là một mỹ nam tử; Du rất giỏi âm nhạc. Tại tư dinh Du có
một đội nhạc đến hơn trăm người, xử dụng đủ mọi thứ nhạc khí. Với hơn trăm âm
thanh cùng vang lên, mà mỗi khi một người tấu lạc nhịp, hoặc sai, là Du biết
ngay ai, ngồi chỗ nào, Du đưa mắt nghiêm khắc về phía người đó. Người nào tấu
xuất sắc, Du hướng mắt về người ấy mỉm cười tỏ ý khen ngợi. Vì vậy sau này giới
bút mặc văn chương dùng điển nhất cố Chu Lang để chỉ tri âm, tán thưởng.
Nhà vua vốn là người
tinh thông âm luật, không nhạc khí nào mà không xử dụng thành thạo. Nhà vua cầm
ống tiêu đưa lên môi thổi. Âm thanh cao vút như hòa vào những sợi tơ trời. Đông
Hoa cương:
“Em là con gái Thăng long,
Em nghiêng nghiêng nón, ấy y a, nước sông dạt dào”.
Đông Hoa mời nhà
vua về nhà chơi. Cha mẹ nàng vốn là nghệ nhân, nếp sống không khép kín như
những gia đình khác. Cả hai tiếp nho sinh với tất cả thịnh tình. Ông bà hỏi lý lịch,
nhà vua xưng là nho sinh học trường Quốc tử giám tên Nhật Duy.
Từ đấy khi thì
hai ngày, khi thì ba ngày, nhà vua lại ra nhà Đông Hoa tấu nhạc cho nàng hát.
Cạnh nhà Đông Hoa
có một thầy đồ dạy học ở trường huyện Thọ xương tên Lý Tín. Thầy Tín rất uyên
bác, đứng chủ trương quán văn Tây hồ. Thấy Đông Hoa hát hay, thông minh, lại có
nhan sắc, ông dạy riêng Đông Hoa học tại nhà. Vì Đông Hoa đẹp, hát hay, nên
nhiều khách đa tình thường lai vãng tới quán văn Tây hồ cầu thân. Nhưng khi
tiếp xúc với họ, ông thấy đó chỉ là những gã nhà giầu, hoặc công tử văn không
thông, võ không thành. Bây giờ thấy nho sinh Nhật Huy gần như thường trực tới
quán văn Tây hồ dự các buổi giảng sách, nghe nhạc. Nhật Duy rất hào phóng với
các thầy đồ giảng sách, cũng như những con hát. Nhật Duy lại hay tới nhà Đông
Hoa chơi. Ơâng cho rằng Nhật Duy cũng thuộc phường tham dâm, hiếu sắc mà thôi,
chứ không phải học sinh trường Quốc tử giám. Không chừng một công tử nào đó
muốn bỏ tiền ra mua Đông Hoa.
Nhưng sau những
lần gặp nhau, thầy Tín thấy dung quang Nhật Duy khác phàm, kiến thức bao la, hai người thường đàm đạo quốc
sự, văn chương, thi phú cho đến kinh Phật. Nhật Duy luận như mây trôi, nói như suối tuôn. Lý Tín khâm
phục nho sinh Nhật Duy uyên bác. Ông khuyên cha mẹ Đông Hoa chiêu Nhật Duy làm
rể.
Một bên là một ca
nhi sắc nước hương trời, thuộc nòi tình,
hưởng tính lãng mạn của cha mẹ. Một bên tuy làm vua, đang độ 20 tuổi; nhưng từ
bé bị giáo huấn trong lễ giáo khắt khe. Bây giờ được mang lốt nho sinh, bao
nhiêu sợi dây luân lý ràng buộc bị cắt đứt.
Đông Hoa mang
thai.
Giữa lúc đó nhà vua bận quốc sự hơn ba tháng không ra
quán văn Tây hồ cũng như đến nhà thăm nàng.
Thời bấy giờ con
gái chưa chồng mà mang thai, như một tin trấn động, như ngọn núi lửa nổ tung.
Bố mẹ nàng sẽ bị làng xã bắt khoán, nhục nhã vô cùng. Thầy Lý Tín cho rằng Nhật
Duy là phường hoa bướm, con nhà giầu, chơi hoa rồi vứt bỏ. Ông dẫn cha mẹ Đông
Hoa đến trường Quốc tử giám kiện nho sinh Nhật Duy. Nhưng quan Quốc tử giám tư
nghiệp tra danh sách, không có một học sinh nào tên Nhật Duy cả. Ông ra lệnh
cho phủ thừa Thọ xương truy bắt Nhật Duy về hai tội: giả học sinh Quốc tử giám
và thông dâm với gái chưa chồng mang thai.
Một buổi tối, nhà
vua cùng viên Thái giám Đại Lực ra phường Tây hồ gặp Đông Hoa. Khi vừa tới sân
nhà nàng, thì một Ngũ (5 người) lính dàn ra bao vây. Tất cả được võ trang đoản đao.
Thầy đồ Tín, bố mẹ Đông Hoa và nàng cùng ra sân xem. Hai người lính vung đao
bắt chéo nhau trước mặt nhà vua. Phản ứng tự nhiên, thái giám Đại Lực chĩa ngón
tay chỏ điểm một cái. Hai thanh đao vuột khỏi tay hai người lính, bay lên cao,
cắm vào thân cây muỗm.
– Không được vô
phép!
Viên thái giám
quát lên rồi vung tay một cái nữa, hai người lính bay ra xa ước hơn hai trượng,
rơi xuống như tự nhảy lùi vậy.
Thấy thủ pháp của
Đại Lực, viên Ngũ trưởng biết dù cả Ngũ của y cũng không địch nổi người này.
Tuy vậy y cũng hô lên một tiếng, cả Ngũ phu vung đao vây quanh nhà vua. Y hỏi:
– Trong hai người,
ai là nho sinh Nhật Duy xưng là học trò Quốc Tử Giám?
Đại Lực chỉ nhà
vua:
– Là chủ nhân của
tôi.
Giọng viên Ngũ trưởng có vẻ khách khí:
– Trông phong
thái hai vị đều là người có lai lịch, sao lại đả thương binh lính của đức vua!
Đại Lực hỏi đám
binh:
– Này các em, ta
có làm em nào bị thương đâu mà Ngũ trưởng của các em bảo ta đả thương các em?
Y hỏi viên Ngũ trưởng:
– Người là Ngũ trưởng
của Vệ Thọ xương, người phải biết luật chứ? Luật của đức vua rất nghiêm, khi
muốn bắt một học sinh trường Quốc tử giám thì ít nhất phải có sự chứng kiến của
một vị Kinh diên quan! Các người đi bắt chủ nhân tôi, mà không có Kinh diên
quan chứng kiến thì là một điều sai luật. Các vị chưa xác định cái người mà người
định bắt có đúng là tội nhân mà quan trên muốn bắt không mà đã dùng đao đe dọa là
hai điều sai luật. Vì vậy tôi phải chống lại.
Nói rồi Đại Lực
vung tay lên liên tiếp, không ai nhìn rõ y ra chiêu gì, kình lực ra sao, mà mỗi
chiêu một người lính bay ra đường. Người nào cũng như bị nhắc lên rồi đặt xuống
vậy.
Trong khi Đại Lực
biện luận với viên Ngũ trưởng, thì nhà vua vào nhà Đông Hoa. Nhìn sắc mặt cha mẹ nàng, Lý Tín, nhà vua thấy dường
như họ có điều gì lo lắng. Còn chính Đông Hoa thì đang ôm mặt khóc. Nhà vua
hỏi:
– Hoa! Cái gì đã
xẩy ra?
Đông Hoa thuật
lại thảm trạng trong ba tháng mà nàng phải chịu đựng, nồi nàng chỉ ra sân:
– Bây giờ Đại Lực
lại đánh lính của phủ Thọ xương thì tai họa sẽ vô cùng lớn lao!
Đại Lực trở vào đứng
sau nha vuà. Y nhìn Đông Hoa mỉm cười:
– Cô ơi! Tất cả
những gì cô nương coi là khổ ải, chủ nhân tôi sẽ giải quyết. Tôi nói thực cho
cô nương biết một điều: hiện tất cả giai nhân trong nước đều ước mơ diện kiến
chủ nhân tôi, dù chỉ một lần, mà không bao giờ toại nguyện. Còn cô nương, cô nương
được sủng ái cùng cực, mà cô nương không biết.
Đông Hoa vẫn
không yên tâm:
– Trước mắt, tôi đang
bị làng bắt khoán, vì gái chưa chồng mà chửa. Tiền đâu tôi nộp cho làng? Bây
giờ làng xóm chê cười, tôi làm khổ cha mẹ tôi...
Đến có tiếng
trống, thanh la dẹp đường, rồi bốn thị vệ hộ tống một vị văn quan ngồi trên
kiệu tới. Ngũ binh cũng trở lại. Viên quan hỏi Ngũ trưởng:
– Người xưng là
Nhật Duy, học sinh trường Quốc tử giám đâu?
Viên Ngũ trưởng
chỉ vào trong nhà:
– Bẩm Thái phó,
cái người trẻ quay lưng lại kia là Nhật Duy, còn cái người khoanh tay đứng hầu sau Nhật Huy đã đánh bọn tiểu nhân.
Viên Kinh diên
quan vừa trông thấy Đại Lực thì thất kinh:
– Đại... đại...
Lực Tổng Công công! Sao, sao?
Đại Lực xua tay
ra hiệu, ngụ ý xin đừng nhiều lời, rồi chỉ vào nhà vua, lên tiếng:
– Kính chào Phạm
sư phó. Chủ nhân của tiểu nhân là Nhật Duy, đang bị lính của phủ thừa Thọ xương
bắt tội. Sư phó là thầy của chủ nhân, xin sư phó phát lạc vụ này cho.
Vị Kinh diên quan
đó là Phạm Kính Ân, hiện là Quốc tử giám tế tửu, lĩnh chức Thái phó, thường
giảng sách cho nhà vua. Tước của ông tới Công. Vì ra vào hoàng cung thường ngày,
nên ông đã gặp quan Tổng Thái giám Đại Lực. Theo quan hàm thì tước Công, lĩnh
hàm Thái phó, kiêm Quốc tử giám tế tửu của ông cao hơn tước Hầu, Tổng thái giám
năm bậc. Nhưng quan xa, không bằng lính gần. Đại Lực luôn hầu cận nhà vua, nên được
nể nang hơn. Hôm nay ông nghe báo có một người xưng là học sinh Quốc tử giám,
thông dâm với con gái lương dân, lại dám chống lại lính của phủ thừa Thọ xương.
Ông phải đích thân bắt người giả học trò Quốc tử giám ấy. Không ngờ tới đây,
chỉ cần thấy Đại Lực, thì ông biết người xưng là nho sinh Nhật Duy chính thị đức
vua. Trong những lần giảng sách cho nhà vua, ông từng nghe nhà vua thuật lại
nhiều lần ra ngoài Kinh thành thăm dân cho biết sự tình. Vốn cực kỳ thông minh,
ông biết ngay người xưng nho sinh Nhật
Duy, chính là nhà vua.
Ông vẫy tay cho
bốn viên thị vệ, cùng Ngũ lính Thọ xương:
– Các người lui
ra, canh gác bên ngoài! Mọi việc ở đây do ta phát lạc.
Nhà vua chỉ Đông
Hoa rồi vái Phạm Kính Ân:
– Thưa thầy, con
với tiểu cô nương đây quả có chút duyên giai ngẫu. Mong thầy tác thành cho.
Phạm Kính Ân biết
nhà vua là người quang minh, thượng tôn luật pháp, ngài muốn ông xử vụ này như
xử học sinh Quốc tử giám thực. Ông chỉ nhà vua:
– Vị này là một
quý nam tử, học trò của tôi, địa vị tôn quý, không phải phường tham dâm, hiếu
sắc. Con gái ông bà không chọn lầm người đâu.
Ông vẫy một viên
thị vệ:
– Người gọi Đại tư,
Câu đương xã Thụy hương đến gặp ta gấp.
Chú giải,
Quốc tử giám, Đại
học Hoàng gia, được thành lập đầu tiên vào thời vua Lý Nhân Tông (1070), để dạy
con, cháu nhà vua, con các đại thần. Trường cũng dành cho những học sinh ưu tú
ngoài dân dã vào học, chuẩn bị thi Thái học sinh (Tiến sĩ). Học chế đời Trần như sau: mỗi làng, xã đều có thầy đồ dạy học hoặc ăn lương vua, hoặc không. Những học sinh
xuất sắc làng-xã được tuyển vào học tại trường phủ-huyện. Mỗi
phủ-huyện có một hay hai học đường.
Học đường thiết lập ngay trước nha môn (văn
phòng huyện). Nhà vua ban sắc chỉ bổ nhiệm những nho sĩ có văn tài lĩnh chức
Huấn đạo phụ trách học đường. Chức Huấn đạo uy quyền rất lớn, ngang với quan
phủ-huyện. Thầy dạy tại học đường song song với vị Huấn đạo, còn có rất nhiều
các thầy của làng xã. Vị Huấn đạo ngoài việc phụ trách giảng
dạy học sinh, còn trách nhiệm trông coi việc thi hành giáo dục dân chúng, bảo vệ
luân lý, lễ nghi, phong tục trong quản hạt.
Những học sinh phủ-huyện giỏi, được tuyển vào Quốc tử
giám học, chuẩn bị thi Thái học sinh. Học sinh học Quốc tử giám được triều đình
nuôi, đài thọ ăn ở. Khu Quốc tử giám nay là khu Văn miếu Hà nội.
Quốc tử giám tế
tửu, tức Viện trưởng Đại học hoàng gia. Thường thì quan Thái phó kiêm
nhiệm.
Kinh diên quan, giáo
sư trường Quốc tử giám. Vị này còn phụ trách giảng sách cho nhà vua. Tức ông
thầy của vua.
Đại tư, chức
quan đời Trần, do dân một xã bầu lên, rồi được triều đình ban sắc công nhận. Tương
đương với ngày nay là chủ tịch hội đồng nhân dân xã. Hưởng lương xã.
Câu đương, chức
quan đời Trần coi về phòng vệ, an ninh xã. Chức này do quan phủ hay huyện bổ
nhiệm. Tương đương với ngày nay là chỉ huy dân quân xã. Hưởng lương xã.
Viên Thị vệ vừa
quay ra thì Đại tư, Câu đương xã Thụy hương đã tới. Hai người thấy Phạm Kính Ân
thì vái dài:
– Tiểu nhân xin
ra mắt Thái phó.
Phạm Kính Ân cho
hai người ngồi, rồi ông chỉ nhà vua với Đông Hoa:
– Tôi lĩnh Quốc
tử giám Tế tửu. Tôi tới đây vì mối lương duyên của một học sinh với giai nhân
xã Thụy hương. Tôi xin đứng ra tác thành cho mối lương duyên này. Tuy nhiên Nhật
Duy với Đông Hoa đã phạm lỗi, vì chưa cheo cưới mà đã gần nhau đến mang thai.
Phép vua, thua lệ làng, vậy Đại tư cho biết, xã sẽ phạt như thế nào?
Đại tư chắp tay:
– Về cô gái, sẽ
bị bắt khoán 15 quan tiền, bị đánh 20 roi mây giữa chợ. Nếu cô gái có tiền nộp
thêm 5 quan thì miễn đánh đòn.
– Vậy còn người con trai?
– Nếu là con trai trong xã phải làm việc
công 20 ngày. Nếu có tiền nộp thay thế thì phải 10 quan. Còn con trai xã khác,
bắt buộc nộp phạt 20 quan tiền.
Kính Ân tuyên án :
– Nho sinh Nhật Duy đã trên 20 tuổi, nhà
lại khá giả, phải nộp khoán cho mình và cho Đông Hoa. Tổng cộng 40 quan tiền.
Nhưng vì là học trò giỏi bậc nhất trường Quốc tửû giám, nên phải nộp khoán gấp đôi,
tức 80 quan tiền.
Tổng Thái giám Đại Lực móc trong túi ra
một lượng vàng trao cho Đại tư :
– Thôi thì tôi xin nộp một lượng vàng
thay chủ nhân. Một lượng ăn 200 quan tiền. Như vậy dư ra 120 quan. Trong xã
Thụy hương có đền thờ thánh Chèm, tôi xin gửi 120 quan nhờ xã tu bổ đền thờ
ngài.
Đại tư tiếp vàng, lòng mừng chi siết kể.
Phạm Kính Ân hỏi bố mẹ Đông Hoa :
– Sự cố của con gái ông bà quả có làm ông
bà phiền lòng, nhưng đây là mối lương duyên giai ngẫu giữa danh sĩ với giai
nhân. Thời Lý, vua Thánh Tông chẳng từng thăm dân rồi gặp một gai nhân, sau
ngài phong cho giai nhân ấy tước Ỷ Lan
phu nhân đó sao ? Ỷ Lan sinh ra vua
Đền thờ thánh Chèm (Lý Thân) tại xã Thụy
Hương, Hà nội (Hình VN santé)
vua Nhân Tông, vua tôn mẫu hậu là Linh
Nhân hoàng thái hậu. Truyện cũ sáng như trăng rằm. Bây giờ Nhật Duy với con của
ông bà như ván đã đóng thuyền, gạo đã thổi thành xôi, ông bà có bằng lòng gả Đông
Hoa cho Nhật Huy không ?
– Đa tạ sư phó tác thành cho.
– Ông bà có đòi dẫn cưới gì không ?
– Được rể quý, tôi xin cho không cháu
Hoa.
– Đông Hoa đẹp đến như thế kia, lại đàn
ngọt, hát hay thì đáng xây nhà vàng cho ở ; cho không thế nào được. Lễ dẫn
ít ra nghìn lượng vàng, nghìn tấm lụa, trăm thúng gạo, chục trâu bò.
– Dạ quá... lớn, sợ phúc đức nhà tôi
không tới.
Phạm Kính Ân bấm đốt ngón tay :
– Ngày 3 tháng sau là ngày tốt. Ông bà đợi
Nhật Duy chuần bị, dẫn cưới rồi sẽ xin rước dâu.
Tối hôm đó nhà vua về Hoàng thành. Ngài
biết Thái hậu ( bà Trần Thừa) không thể chấp nhận cuộc hôn nhân này. Nhà vua
tìm đến cung Tuyên minh thái hoàng thái hậu (bà Trần Lý, bà
nội nhà vua), thú thực về truyện Đông Hoa. Tuy uy quyền của Thái hậu hiện tối
cao trong cung, nhưng bà chỉ có thể đón Đông Hoa về, cho ở chung
trong cung của bà, lĩnh chức Tu dung, một đẳng cấp rất thấp chỉ trên cung nữ
một bậc. Thân phận Đông Hoa trong hoàng cung qúa nhỏ bé, song nàng được nhà vua
sủng ái cùng cực. Nàng được trao cho cai quản đội nhạc cung đình.
Ít tháng sau, Đông Hoa hạ sinh một hoàng
nam. Hài nhi da trắng, môi hồng, mười phần tươi đẹp. Toàn hậu cung vui mừng.
Nhà vua lấy tên Nhật Duy trong kỷ niệm mối tình với Đông Hoa đặt tên cho con.
Tuy nhiên không ai dám bàn truyện lập Nhật Huy làm thái tử. Ba năm sau Thuận
Thiên hoàng hậu sinh hoàng nam, nhà vua đặt tên là Nhật Hoảng, phong làm Thái
tử. Rồi nhà vua có thêm nhiều hoàng nam.
Nhờ được Tuyên minh thái hoàng thái hậu
dậy văn, luyện võ, nên võ công của Nhật Huy cao nhất trong các anh em. Năm Nhật
Duy 13 tuổi, được mở phủ đệ riêng, được phong tước Thái tử thiếu bảo, Đồng bình chương sự, Phụ
quốc thượng tướng quân, tước Vũ Uy vương, trao cho trấn ngự Tây Bắc cương.
Sau trận đánh
với Ngột Lương
Hợp
Thai, công lao của vương chỉ thua có Hưng Đạo vương, Hưng Ninh vương. Nguyên
Phong hoàng đế lấy cớ tử quý mẫu vinh (con quý thì mẹ vinh hiển) thăng Tu dung Đông
Hoa lên hàm Tuyên phi, tức vượt 18 bậc.
Tuyên phi được nhà vua sủng ái
nhất trong tất cả các phi tần. Bởi ngoài tình vợ chồng, giữa nhà vua với
phi còn là tri kỷ, tri âm. Khi phi hát
thì nhà vua kéo nhị, đánh trống mảnh, trống cơm; lại có khi nhà vua thổi sáo.
Hồi mới nhập cung, phi được nhà vua truyền xây cho một cung riêng. Nhưng tính
giản dị, lại sống trong dân đã quen, phi xin Bộ Công cất cho ngôi nhà tranh, đỡ
tốn công nho, tốn sức của dân. Nhà vua muốn có nơi cùng phi thưởng thức âm
nhạc, ngài ban chỉ dựng một cái
chòi gỗ bốn mái lợp tranh. Phi lấy tên
làng của mẹ là Thụy khuê đặt cho ngôi nhà. Vì vậy trong hậu cung gọi ngôi nhà đó
là cung Thụy khuê.
Dù bận quốc sự, dù có nhiều phi
tần khác, nhưng ít nhất ba ngày một lần nhà vua cũng đến cung Thụy khuê nghe
hát, tấu nhạc.
Từ khi Đông Hoa nhập cung, được
nhà vua sủng ái, tiếng đồn ra ngoài. Trên toàn quốc nảy ra phong trào lập Quán văn.
Từ kinh đô tới các trấn, các phủ, huyện nơi nơi đều lập Quán văn. Quán văn là nơi
mà các văn nhân, thi sĩ, danh sĩ, tài
tử, tới để cùng nhau xướng họa, ngâm vịnh. Quán văn cũng là nơi cho những tiểu
thư, giai nhân đến treo bảng tuyền phu. Mặt khác Quán văn thường trực có những
danh kĩ đến hát.
Vũ Uy vương, vương phi nhập cung giữa lúc nhà
vua kéo nhị, Tuyên phi vừa hát vừa đánh trống mảnh. Cả hai vị như bị âm thanh đưa
lên mây, nhập vào thế giới khác, đến nỗi con trai, con dâu đến bái biệt mà
không biết.
Đối với Vũ Uy vương, tình trạng
này, vương từng thấy từ hồi còn thơ ấu. Duy vương phi, phi chỉ thấy phụ hoàng
ngồi trên lưng ngựa xung vào trận tuyến Mông cổ, hay uy nghiêm thiết triều giữa
hai hàng văn võ đại thần. Bây giờ phi mới được thấy con người nghệ sĩ trong một
hoàng đế.
Bản nhạc dứt, Nguyên Phong hoàng đế
chợt thấy hai con, ngài chỉ ghế:
– Các con ngồi đó đi. Ngày mai
hai con lên đường, lĩnh trọng trách vô cùng trọng đại. Như hôm qua, trong buổi
thiết triều đã định: các con được toàn quyền hành động, miễn sao đạt được mục đích:
Thứ
nhất, gây chia rẽ trong hoàng tộc Mông cổ, khiến các Hãn đem quân tàn sát nhau.
Gây chia rẽ giữa ngoại thích với hoàng tộc. Gây chia rẽ giữa triều đình với hậu
cung. Gây thù hận giữa quân Mông cổ với dân chúng.
Thứ
nhì, giúp Tống chống với Mông cổ, khiến cuộc chiến
Mông-Tống kéo dài, càng dài càng tốt.
Thứ
ba, ngăn cản, tiêu diệt những kẻ chủ xâm lăng
Đại Việt. Điều khẩn cấp làm sao cho Mông cổ bỏ ý định đánh Đại Việt.
Nhà vua hỏi Vũ Uy vương :
– Bắc
cương chia làm hai khu vực. Khu Đông thuộc Ngũ yên giáp biển, và Quảng Tây. Trước
đây là đất phong của An Sinh vương. An Sinh vương hoăng thì Hưng Ninh vương, Hưng
Đạo vương kế nhậm. Ta yên tâm. Khu Tây do con trấn nhậm mấy năm qua. Khu này
phía Tây giáp với Lão qua, không có gì đáng ngại. Duy khu Bắc, một phần giáp
với Quảng Tây lộ của Tống, một phần giáp với Đại lý. Giữa khu ba biên giới có
nhiều Bạc dịch trường (chợ biên giới). Đây là cửa thông giữa ta với Đại lý mang
tên cửa Lê hóa, phủ Thiện xiển. Các khu đất này khi Tống mạnh thì Tống thu thuế.
Khi ta mạnh thì ta thu thuế. Khi Đại lý mạnh, thì Đại lý thu thuế. Vậy hiện ra
sao?
– Tâu
phụ hoàng, khi lên trấn nhậm, con thấy Tống yếu quá. Còn Đại lý thì bị Mông cổ
chiếm. Bọn Mông cổ không để ý đến những
khu đất mà dân không đông, tài nguyên chẳng có gì. Thần nhi nhân đó tiến quân
vào, đặt đồn lũy kiểm soát, bổ nhiệm quan cai trị.
– Ta có đọc tấu chương của con.
Trước đây Tống mạnh, họ cắt những khu đất hoang ở vùng ba biên giới cho bọn
trôm cướp. Con phải nhân dịp ta mạnh, chống Mông cổ ở phía Nam cho Tống, đặt
vấn đề với Tống, bắt Tống buông chúng, nhân đó ta tiến quân vào giết bọn tướng
cướp, lập thành khê động phiên dậu cho ta.
– Con đã làm được một phần, đang
làm một phần. Những châu, trang, động đó, con cho họ tự trị. Con chỉ kiểm soát tổng
quát mà thôi. Vì vậy trong trận đánh vừa qua, Mông cổ tràn về Thăng long, coi
thường các trang, động nàyï. Chúng đâu ngờ họ chính là những đội quân gây cho
Mông cổ muôn vàn khó khăn ; đường tiếp vân của Mông cổ không qua vùng đất
của họ được. Mông cổ muốn đánh các trang động này, còn khó hơn đánh vào các xã
ấp của ta. Khu mật viện Bắc biên luôn cho Tế tác thu lượm tin tức đầy đủ. Khi
hội với Tống, con sẽ chiếm được thượng
phong.
Nguyên Phong hoàng đế ngồi thẳng
dậy, ngài ban chỉ bằng giọng nói hết sức tha thiết :
– Có ba khu vực, mà thời Lĩnh Nam
thuộc cương thổ Việt, bây giờ một thuộc Đại lý, hai thuộc Tống. Khu vực tiếp giáp
với Bắc cương của con là châu Chiêu dương. Khi anh
hùng Tượng
quân nổi lên lập ra nước Đại lý thì châu Chiêu dương thuộc Đại lý. Hiện dân
chúng khu này bẩy phần Việt, ba phần Hán. Con phải nhân Đại lý hàng Mông cổ.
Mông cổ không có quân đóng ở đây ; mà tiến quân tái lập nền cai trị thành cương thổ Đại Việt.
– Con sẽ hết sức làm.
– Hai khu thuộc Tống gai góc nhất
là châu Văn sơn, Khâu Bắc. Hai châu này
nằm ở Bắc Chiêu dương, cách xa Bắc cương của con đến hơn 200 dặm (100 km). Thời Lĩnh Nam thuộc Giao chỉ.
Khi vua Trưng tuẫn quốc, thì Hán cho thuộc Tượng quận, rồi bây giờ thuộc Quảng
Tây lộ của Tống.
– Ấy a !
Khó , quá khó ! Vì hai châu này được coi như một nước, chịu sắc
phong của Tống. Hiện chúng hàng Mông cổ. Mông cổ có một Thiên phu đóng ở đây.
– Khó cũng phải làm cho được. Hai
châu này đất đai trù phú. Trước kia là đất hoang. Tống đã cho bọn thổ phỉ họ
Thân khai hoang, xưng láo là giòng dõi vua Lý Nhân Tông. Chúng lập thành triều đình,
gửi người về nước chiêu dụ con cháu họ Lý, chiêu dụ bọn vong mạng, bọn đầu trộm
đuôi cướp lập hai khu thành một vương quốc. Dân số hiện lên tới hai mươi vạn người.
Quân bộ của chúng tới năm vạn, quân kị năm nghìn. Trong trận đánh vừa rồi, bọn
này gửi tới hơn vạn thổ phỉ theo giúp Mông cổ.
Nhà vua nhấn mạnh :
– Khi điều đình với Tống, ta đang
ở thế mạnh : ta nói cho họ biết bọn giặc họ Thân được Tống cưu mang bấy
lâu mà bây giờ chúng phản Tống, theo Mông cổ. Chúng như thanh gươm kề vào hông
Tống. Ta yêu cầu Tống nhắm mắt để ta đánh bọn thổ phỉ cho Tống. Ta hứa trao cho
họ hơn nghìn cao thủ võ lâm, ta lại đang tập hợp Hoa kiều thành một hiệu binh
gửi sang trợ Tống. Dù Tống đồng ý hay không, ta cũng tiến quân vào diệt bọn thổ
phỉ, sau đó ta sát nhập hai châu trở về với cương thổ Đại Việt.
– Thần nhi sẽ làm hết sức mình.
Tuyên phi chỉ vương phi Ý
Ninh :
– Con có người vợ thế này thì con
phải hứa với phụ hoàng rằng con sẽ thực hiện được việc thu hồi đất tổ ;
chứ không thể hứa làm hết sức mình.
– Thần nhi tuân chỉ của mẫu thân.
Tuyên phi tháo sợi giây chuyền có
mang tượng Quan Thế Âm, mà nhà vua ban cho phi trong buổi gặp mặt đầu tiên đeo
vào cổ con dâu:
– Đây là bảo vật phụ hoàng ban
cho mẹ trong buổi sơ giao. Mẹ cho con, để vạn dặm trên đường bảo quốc, con sẽ được
Quan Âm phù hộ. Hôm nay mẹ đã làm cơm cho các con ăn. Cơm chẳng có cao lương mỹ vị gì đâu: cà
pháo mắm tôm, canh cua nấu với rau đay, rạm rang và chả rươi.
Phi dặn Vũ Uy vương :
– Vừa rồi Mông cổ vào Thăng long,
chúng truy lùng bắt đi rất nhiều danh ca. Quán văn Tây hồ bị bắt 4 người. Quán
Văn miếu mất 11 người. Quán Ngocï thụy bị 3 người. Quán Nghi tàm bị 8 người.
Quán Tô lịch đau xót nhất, Tô lịch thất tiên bị bắt rồi mất tích. Khi con đi sứ
hãy để tâm nghe ngóng xem có tin tức gì không. Nếu có, tìm mọi cách cứu các
nàng đem về.
Sứ đoàn
chính thức gồm năm người, Vũ Uy vương
Trần Nhật Duy, vương phi Trần Ý Ninh, Vũ Sơn hầu
Tạ Quốc Ninh đi bằng ngựa. Đoàn tùy tùng do Đô thống Trần Quốc Kinh ( Dã Tượng),
Nguyễn Địa Lô chỉ huy 30 Thiết kị Long biên hộ tống, 25 mã phu, đầu bếp, mười
xe song mã chở y phục, vật dụng, lương thảo. Tất cả hướng bến đò Bắc ngạn.
Giữa lúc sứ đoàn dang chuẩn bị
lên đường thì chú của Nguyễn Địa Lô từ
trần. Vũ Uy vương cho Lô về chịu tang, rồi lên đường sau.
Vương phi Ý Ninh xin phép vương đi
Thiên trường, đến chùa Thần quang bái biệt sư phụ là Bồ tát Vô Huyền. Ngựa dừng
vó ở cổng chùa, đã có một nữ đệ tử đón :
– Sư tỷ. Sư phụ đang chờ sư tỷ ở
bảo điện.
Ý Ninh trở lại nơi nàng từng tu,
từng học mấy năm liền. Từ hồi tuân chỉ sư
phụ, cùng anh trấn thủ Phù lỗ, phải rời chùa, thấm thoát đã hơn năm. Bây giờ
trở lại đất cũ : cảnh vẫn như xưa. Lòng tưởng nhớ sư phụ, phi rảo bước đến
bảo điện, đẩy cửa bước vào. Sư phụ ngồi trên tấm bồ đoàn bằng rơm rất dầy. Phi
quỳ gối đỉnh lễ :
– Đệ tử bái kiến sư phụ.
Vô Huyền chỉ chiếc bồ đoàn nhỏ
bên cạnh ngài :
– Con ngồi đó đi. Có phải triều đình
sai Nhật Duy đi làm con tin Mông cổ không ?
– Dạ ! Đúng như sư phụ dạy.
– Có phải Mông cổ đòi Đại Việt phải
chịu sáu điều không ? Sáu điều đó ra sao ?
– Trình sư phụ sáu điều là :
Một là đích thân quốc vương phải vào
chầu,
Hai là đem trưởng
nam làm con tin,
Ba là kê biên dân
số,
Bốn là phải chịu
quân dịch,
Năm là phải nộp
thuế, lương thảo.
Sáu là nhận Đạt lỗ
hoa xích (Đa gu ra tri) .
Bồ tát
cười:
– Bọn
Mông cổ ngông cuồng thực. Vừa bị đánh tan tác, mà chúng còn muốn dương oai. Ta
chắc lão Thủ Độ sẽ không chịu bất cứ điều nào. Còn triều đình cử Nhật Duy với
con đi với mục đích khác phải không?
– Sư
phụ thực minh kiến.
–
Triều đình cử một sứ đoàn đông đảo như vậy, chi tiêu tốn kém lắm. Riêng con,
lúc ta cho con xuất chùa, trong túi có không quá hai quan tiền. Tiền đó,
chỉ đủ cho con ăn quà không quá một
tháng. Vậy từ hồi ấy đến giờ con lấy gì mà chi tiêu?
– Hồi
trấn thủ Phù lỗ con không có dịp tiêu tiền. Sau khi rời Phù lỗ, con với anh Duy
yết kiến phụ hoàng trên con thuyền. Người ban chỉ cho chúng con thành vợ chồng.
Chúng con bái lậy phụ hoàng, hướng về Thiên trường bái lậy liệt tổ Đông A, bái lậy
sư phụ, rồi rời thuyền, lăn xả vào cuộc chiến 10 ngày, 11 đêm ngăn không cho
giặc về Thiên trường. Nên cũng không có dịp tiêu tiền.
Vô
Huyền bật cười:
–
Trong lịch sử Đại Việt chưa từng có một cặp trai gái nào lấy nhau kỳ lạ như vợ
chồng con. Không bái thiên địa, cũng chẳng lễ Tơ Hồng. Không một chung rượu,
chẳng một miếng thịt cho lễ cưới. Ta chắc động phòng ít ra vài ngày sau!
– Dạ,
18 ngày sau, khi chúng con tái chiếm núi Côi!
– Khi
một hoàng tử cưới chánh phi, thì triều đình ban cho vàng ít ra ngàn lượng, còn
ngọc, ngà, châu báu. Ta chắc con không được gì!
–
Trong lúc phụ hoàng ban chỉ chúng con thành vợ chồng trên con thuyền, người
chẳng còn gì! Hết giặc, quốc khố trống rỗng. Cho đến lúc này người cũng không
còn gì mà ban cho.
– Con
phải nhớ nhé:
Con không chê cha khó,
Chó không chê chủ nghèo.
Con
với Nhật Duy đừng vì không được ban vàng ngọc mà oán phụ hoàng.
– Dạ!
– Khi
rời ta đi trấn Phù lỗ, ta thấy con có đeo hoa tai, kiềng, vòng ngọc. Thế sao
bây giờ trên người con không còn gì?
– Dạ! Nữ
trang đó con ban thưởng cho mấy nữ tướng ngưu binh rồi!
– Từ
cổ chí kim, ta chưa từng thấy một vương phi nào, trên người không một chút nữ
trang. Thế phụ hoàng phong cho con tước gì?
– Dạ
Thạc hòa, Minh đức, Trang duệ, Vũ thắng công chúa. Cho hưởng 300 mẫu ruộng.
– Thế
ruộng ấy con thu tô ra sao?
– Thưa!
Con không thu tô, cho tá điền nghèo cấy.
– Đức
con cao quá! Xứng đáng học trò của ta. Còn chồng con?
– Từ
hồi Tổng trấn Bắc cương anh ấy được phong:
Thái tử thiếu
bảo,
Đồng bình chương
sự,
Phụ quốc thượng tướng
quân,
Tước Vũ Uy vương,
trao cho trấn ngự Bắc cương.
Thực ấp Vạn hộ.
Nhưng anh ấy thu thuế rất nhẹ, dùng tiền để trả lương cho
các quan phủ Vũ Uy. Vợ chồng con chi tiêu bằng bổng Phụ quốc thượng tướng quân.
– Bổng đó thì ăn uống dè sẻn lắm mới đủ. Thôi hôm nay
ta cho con ít vàng, để trên đường đi sứ không túng thiếu.
Ngài
gọi một ni sư:
– Con
xuất cho Ý Ninh 100 nén vàng (1 nén=10 lượng).
Ý Ninh
lậy tạ sư phụ. Vô Huyền ban chỉ :
– Con đi
kỳ này sẽ có nhiều khó khăn. Sư phụ đã chuẩn bị cho con một đội Mê linh kiếm
trận, gồm 6 nam, 6 nữ. Chúng đều biết làm bếp. Chúng sẽ giả làm đầu bếp của sứ đoàn.
Ý Ninh
bái biệt sư phụ, cùng 12 sư đệ, sư muội lên đường.
Thời
Trần, thành Thăng long có năm cửa, bởi vậy trong bài ca dao Đố ai đã đặt câu hỏi :
Thành nào năm cửa chàng ơi ?
Do ảnh hưởng của ca dao, sau này
thi sĩ Vũ Hoàng Chương lầm cửa ô với cửa thành, ông có câu thơ nhắc lại Hà nội có
năm cửa ô như năm cánh ngôi sao. Hồi 1954, Văn Cao lại cũng lầm lẫn cửa ô với
cửa thành trong bài hát Tiến về Thủ đô có
câu Năm cửa ô đoàn quân tiến về.
Tại bốn cửa
chính của thành Thăng long có tượng bốn vị thần trấn thủ. Hướng Bắc gọi là Kinh
bắc, ngày nay bao gồm Bắc ninh, Bắc giang cho tới Lạng sơn, Cao bằng. Trấn đông
gồm Hồng châu thượng, Hồng châu hạ, nay là vùng Hải dương, Hưng yên, Hải phòng.
Trấn nam gồm Sơn nam thượng, Sơn nam hạ, nay là Nam định, Hà nam, Thái bình.
Trấn đoài gồm Hà đông, Hưng hóa, Hòa bình,
Sơn tây.
Kinh thành có 24 cửa ô, là cửa ngõ
có đường thông ra bốn trấn. Ngày nay chúng ta còn nghe nhắc tới những tên như
cửa ô Yên hoa (nay là Yên phụ), cửa ô Thạch khối (nay là Thạch tân), cửa ô Quan
chưởng.v.v.
Bến đò Bắc ngạn nối Thăng long
với Gia lâm, nằm trên bờ sông Hồng. Nay ở phía Nam và Bắc cầu Long biên Hà nội. Bến đò
cắt ngang con đường Cái quan, giao thông giữa Thăng long với Kinh Bắc; giữa miền Nam với miền Bắc Đại Việt. Cho nên dọc hai bên bờ, hàng
quán, nhà trọ nối dài đến hai ba dặm (1 km- 1,5km), cung ứng nhu cầu ăn uống,
chuyên chở, giải trí cho khách đi đường xa; và cũng là nơi bán các sản vật địa
phương. Bến Bắc ngạn quanh năm nhộn nhịp, dưới sông có hằng mấy trăm con đò
chở người, chở vật sang sông. Lại có những bang hội vận tải, chở khách từ Thăng
long đi nội địa như Thiên trường, Kinh bắc, Tiên yên, Thanh hóa, Nghệ an và
sang Trung nguyên, Chiêm thành. Trên mỗi con thuyền lớn chở khách sang sông, đều
có những nghệ nhân tấu nhạc, ca hát giúp vui. Các nghệ nhân này sống nhờ tiền
tặng của thính giả. Gọi là Xẩm.
Sứ đoàn
không qua sông bằng dân thuyền, mà được vận chuyển bằng hai chiến thuyền của
Thủy đội Thăng long. Với 59 người ngựa thêm hàng chục xe song mã cần tới 10 lượt.
Cuộc vượt sông ít ra phải nửa buổi. Vũ Uy vương ra lệnh cho Dã Tượng chỉ huy đoàn
tùy tùng vượt sông trước. Còn sứ đoàn sẽ sang sau.
Vừa
hết chiến tranh, mà khu Bắc ngạn đã phục hồi. Mấy tháng trước, Kị binh Mông cổ
không thể nào qua sông, vì dân chúng tuân theo lệnh triều đình, dấu ghe thuyền
vào các kinh lạch. Nhưng nào ngờ tám bang hội Hoa kiều theo giặc, chúng tình nguyện
chở quân sang sông. Chúng còn hiến kế cho giăc: dùng cường lực đến từng nhà chủ
đò bắt chở quân qua sông, bằng không sẽ đốt cháy hết các dẫy nhà hai bên bờ.
Biện pháp này quả thực hiệu nghiệm, quân Mông cổ qua sông, vào Thăng long, do vậy
nhà cửa hàng quán Bắc ngạn còn nguyên. Giặc vừa rút khỏi Thăng long, thì các
cửa hàng buôn bán lại mở cửa đón khách nhộn nhịp hơn xưa.
Quân
dân đời Trần rất gần nhau. Người dân thấy đoàn người-ngựa, gươm-đao, giáp-trụ
sáng choang, hằng chục xe song mã qua sông; họ hướng mắt nhìn bằng vẻ thân
thiết, rồi tránh sang vệ đường vẫy tay chào. Đám trai tráng còn bỏ công việc hàng
quán, ra giúp quân, phụ mã phu đẩy những cỗ xe nặng nề.
Sứ đoàn
đi sau đội Kị binh. Vũ Uy vương, Dã Tượng mặc quần áo nâu như nông dân. Tạ Quốc Ninh mặc
như một nho sĩ. Vương phi mặc võ phục của đệ tử phái Mê linh. Người ngoài cuộc
tưởng bốn người với đội hộ vệ là hai nhóm người khác nhau.
Những đứa trẻ chào mời khách thấy bốn người
cỡi ngựïa thì ào tới nắm dây cương:
– Các
ông ơi mua mía đi, mía ngọt lắm.
– Các
chú ơi, mua bánh gai đi. Bánh gai Thiên trường vừa thơm vừa ngọt.
Cô bán
bún chả tuổi khoảng hai chục, tay quạt,
tay trở những xâu thịt:
– Mời
khách quan xơi bún chả đi. Bún chả Thăng long thơm ngát, béo ngậy đi.
Một bà
tuổi trên dưới bốn chục, ngồi trong quán đon đả:
– Chả
rươi Thiên trường đi, rươi tươi làm với trần bì chính tông, thơm ngon tuyệt
trần. Không ngon, không lấy tiền.
Ngay
sát mé sông là một Quán văn với tấm bảng sơn son thiếp vàng có bẩy chữ:
Thiên Thư thính văn tụng phú quán,
(Quán
sách trời, nơi đọc văn, tụng phú)
Nét
chữ sắc như gươm. Trước quán bầy mươi cành đào, mấy chậu cúc Vạn thọ, mấy chậu
quất trái vàng óng ánh, hai ba cái vại lớn thả cá chép vàng. Giữa quán có một
bàn thờ giản dị, một bài vị với bẩy chữ:
Liệt tổ Đại Việt chi linh vị,
Cạnh
bài vị, một lư hương, khói bốc nghi ngút. Trên bàn thờ bầy la liệt sách, có khổ
lớn, có khổ nhỏ, có sách dầy, có sách mỏng. Trong quán có hốn hàng ghế, mỗi
hàng năm ghế. Mỗi ghế ngồi được năm người. Khách khoảng gần trăm, đủ loại già,
trẻ, nam nữ đang uống trà, nghe thầy đồ
kể truyện.
Trên
một vách ngang treo khá nhiều bút thiếp, vách đối diện treo hai cây cung của
Mông cổ, một thanh đao, một thanh kiếm. Lại có chiếc sập, với năm nhạc công,
một ca nhi ngồi chờ tấu nhạc.
Một
trung niên nam tử, trang phục như nho sĩ, dường như là chủ quán, đứng trước
cửa, tay cầm cành đào, hoa nở đỏ rực:
– Hoa đào
Thụy khuê đây. Đào nở mừng chiến thắng Đông bộ đầu này. Mời quý khách vào quán
trước xin xâm đầu năm, sau nghỉ chân, ngắm hoa, nghe thơ, thưởng thức âm nhạc.
Thấy
sứ đoàn, anh ta mở to mắt nhìn, chau mày phỏng đoán, phân biệt xem bốn người là
loại người nào? Nhưng dường như anh ta
không đoán ra được.
Vương
phi Ý Ninh thấy vui vui hỏi anh ta:
– Này
anh! Anh mời chúng tôi mua hoa đào hay nghe âm nhạc? Anh cho biết cao danh quý
tính đi!
Thấy
một phụ nữ trẻ lưng đeo kiếm, mặc võ phục, anh ta trả lời với ngôn ngữ khách
khí:
– Thưa
phu nhân kẻ hèn này chỉ là một nho sinh, thì làm gì có danh mà cao, có tính mà
quý. Xin phu nhân cứ gọi là Nho Lâm đi. Kính mời phu nhân vào quán xơi nước, trước
nghe hát, sau mua đào.
– À! Thì
ra anh cũng thuộc hàng tao nhân, mặc khách đấy. Tôi hỏi anh câu này nhé: hoa đào
là hoa đào, cứ xuân đến thì đào nở, tại sao anh bịa ra rằng hoa đào nở mừng
chiến thắng Đông bộ đầu? Anh nói điêu rồi.
Tất cả
khách trong quán thấy có cuộc trao đổi thanh nhã, đều im lặng hướng mắt ra
ngoài theo dõi.
Nho
Lâm chắp tay vái dài:
– Thưa
phu nhân, mọi năm phải cuối tháng giêng thì đào mới nở. Thế mà hôm nay là ngày
rằm, đào đã trổ hoa rực rỡ thế này đây! Như vậy là hoa nở để chào mừng chiến
thắng, thực rõ ràng. Giá ba đồng một cành. Tôi không hề nói điêu.
Vương
phi móc túi trao cho Nho Lâm ba đồng, rồi tiếp lấy cành đào:
– Ừ
thì anh không nói điêu. Nhưng anh nói sai rồi. Đại Việt chúng ta chiến thắng
bẩy trận: Thảo nguyên, Bình lệ nguyên, Phù lỗ, Cụ bản, Thăng long, Đông bộ đầu,
Đồng văn. Trong đó Đông bộ đầu chỉ là một trận thôi. Vậy đào nở để mừng chiến thắng
toàn quốc mới phải chứ!
Nho
Lâm mỉm cười cố cãi:
– Dạ
thưa phu nhân, trong bẩy trận, thì sáu trận lúc đầu ta thua, sau mới thắng. Chỉ
duy trận Đông bộ đầu là ta toàn thắng mà không bại. Đây là Thăng long mà, Đông
bộ đầu thuộc Thăng long nên thần sông Tô lịch, Thần hồ Tây, thần Trấn quốc sai đào
nở sớm mừng chiến thắng Nam quốc sơn hà Nam đế cư đấy. Có phải không phu nhân?
Còn một loại đào nở mừng chiến thắng toàn quốc nữa kia! Đó là đào Nguyên Phong.
Vũ Uy
vương thấy Nho Lâm nói năng văn vẻ thì cùng vương phi, Tạ Quốc Ninh, Dã Tượng
vào quán. Một tiểu đồng bưng nước mời khách, nó
chỉ một ghế trống:
– Kính
mời quý khách an tọa. Quý khách xơi nước muồng đi. Nước muồng vừa thơm, vừa dễ ngủ.
Vương
phi thấy tiểu đồng dễ thương qúa, phi tát yêu nó rồi tặng cho mười đồng tiền:
– Cô
mừng tuổi cho con này! Trong quán con có những nước gì?
Tiểu đồng
khoanh tay cúi đầu:
– Thưa
cô có các loại nước sau đây: Nước vối hơi đắng ngủ ngon, dễ tiêu. Nước chè tươi
tỉnh trí, lợi tiểu. Nước gạo rang với gừng khô ấm bụng. Nước pha con lấy trong
giếng đấy. Chứ nước sông Hồng thì hôi, tanh lắm.
– Sao
thế?
– Dạ
cách đây hơn tháng, trong trận Đông bộ đầu, người ngựa Mông cổ bị quân ta giết,
xác trôi dầy sông. Nước sông dơ bẩn, cho đến nay cũng chư sạch.
Vương
hỏi Nho Lâm:
– Đào
Nguyên Phong nở mừng chiến thắng toàn quốc đâu? Nếu anh có loại đào đó đưa ra đây
tôi xin mua hết!
– Xin
khách quan giữ lời hứa nhá!
Cả
quán cùng ồ lên một tiếng, theo dõi.
Nho
Lâm phất tay. Tiếng nhạc vang lên. Một cô gái tuổi khoảng 17-18, áo cánh nâu,
váy lụa đen cất tiếng hát. Cô có đôi môi hồng, làn da trắng mịn, ánh mắt sáng
ngời, hai má lủng đồng tiền đỏ au. Tay cô
cầm căp chũm chọe, vừa hát vừa đánh, đầu gật gù, cái đuôi gà càng thêm duyên
dáng. Cạnh cô, là năm nhạc công. Một người đàn ông đánh trống cái, một người
khuya chiêng, một người kéo nhị, một người thổi sáo. Một người đàn bà trung
niên bật trống cơm. Mọi người im lặng thưởng thức bản nhạc. Đó là bản nhạc
chiến thắng mới được sáng tác ngay trong đêm vây Mông cổ tại Đông bộ đầu.
Tay bưng
bát nước muồng nóng, vương lắng tai thưởng thức âm điệu hùng tráng. Khi thì như
tiếng gươm, tiếng giáo chạm nhau choang choảng. Khi thì như muôn ngàn tiếng
quân reo, ngựa hí. Khi thì rầm rập như vó ngựa phi. Tất cả cử tọa đều bị tiếng đàn,
tiếng hát khiến máu trong người chạy rần rật. Rồi không ai làm chủ được mình,
tay múa, chân dậm, hò hét theo. Công lực cao thâm, thần trí cực mạnh như Vũ Uy
vương, vương phi, Tạ Quốc Ninh, Dã Tượng mà cũng hòa theo, hát với thanh âm
hùng tráng.
Từ hồi
thơ ấu vương từng được nghe đội nhạc Hoàng cung tấu, được nghe mẫu thân hát đủ
mọi điệu hát dân gian cũng như cung đình. Vương còn được học xử dụng tất cả các
nhạc khí Đại Việt, vì vậy vương nhận ra năm nghệ nhân đều là những người tài
hoa khó kiếm.
Bản
nhạc dứt, cô gái ngừng hát, ngừng múa, mồ hôi lấm tấm trên trán, sắc mặt đỏ tươi,
càng tăng thêm vẻ đẹp của cô. Người người rừng rực như vừa uống một chung rượu.
Vương
phi Ý Ninh hỏi:
– Này
cô em! Bài hát vừa rồi rõ ràng là bài Đông
bộ đầu trảm Thát đát (Giết Thát đát tại Đông bộ đầu). Sao nhịp điệu lại thay
đổi đi khá nhiều vậy?
– Dạ,
quả là bản nhạc đó, nhưng em đổi đi một chút cho thêm hùng khí.
Chợt vương
phi Ý Ninh thấy sau chỗ cô gái ngồi có mấy chữ Nôm:
“Thanh Nga, mười tám mùa xuân, tìm người cùng tát biển
Đông”.
Phi đưa
mắt nhìn vương rồi dùng lăng không truyền ngữ nói với vương:
– Anh
có chú ý giòng chữ không? Thì ra cô gái
này tên Thanh Nga, 18 tuổi. Cô không phải con hát, mà ra đây tuyển phu.
Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét