HỒI THỨ TÁM MƯƠI BA
Thiên hương, quốc sắc
anh hùng lụy,
Nhất phiến tài tình lưỡng
quốc ân.
(Hương trời sắc nước làm
cho anh hùng phải lụy.
Một đấng tài tình 2 nước
chịu ơn)
Câu đối ở đền thờ thánh mẫu Thanh Liên.
Bao
nhiêu mệt mỏi biến mất, Mông Ca tiến lại ôm lấy tấm thân thon đẹp tuyệt thế của
nàng, rồi hôn lên ngực nàng. Nhớ lời y sư Vũ Y dạy trong thời gian ở Văn sơn:
khi nai lọt lưới thì phải chủ động. Nàng
ép hai tay vào má Mông Ca, rồi từ từ đẩy người y cho xuống thấp. Mông Ca
cúi xuống. Y chúi đầu vào bụng nàng. Hai người ngã xuống dường. Chỉ chờ có thế,
nàng tốc váy, đẩy đầu y vào. Mặc cho y
hít hà, thở hổn hển trong váy. Nàng buông lỏng, để y hưởng mùi vị, hương thơm
của mình.
Hơn
hai khắc trôi nhanh. Mông Ca vẫn say đắm hương vị, nét thanh xuân của nàng.
Thấy như vậy cũng đủ cho Mông Ca thỏa mãn. Thanh Liên nhắc khẽ:
– Đại
Hãn ngừng thôi. Nằm ngay lên ngủ đi mai còn xuất trận.
Nhưng Mông Ca như trong cơn mê:
– Phi ơi!
Ta muốn mượn váy của phi làm màn che đầu, làm chăn ngủ. Ta muốn được hưởng hơi
hướm của phi, để lấy sức cho ba ngày cần xung sát. Này phi, nếu như trận đánh
ngày mai ta có chết, thì khi liệm ta, phi lấy cái váy này trùm lên đầu ta thì
hồn ta mới cảm thấy hạnh phúc.
Thanh
Liên lắc đầu:
– Đại
Hãn đừng nói gở. Đại Hãn sẽ chiến thắng, Đại Hãn sông lâu vạn tuổi.
Mông
Ca để nàng nằm ngang trên đầu giường, y gối đầu lên đùi trái nàng. Y lại để đùi phải nàng trên
ngực y. Hơn khắc trôi qua, Mông Ca chìm vào giấc ngủ.
Tuyên
phi Thanh Liên thao thức chưa ngủ được, phi trầm tư suy nghĩ, vì hồi chiều Đại
Hành đã tâu với phi:
– Chị ơi!
Có một việc ngoài chị không ai làm nổi. Em vừa được tin cô Hoàng Liên, phu
nhân của thầy Tạ Quốc Ninh bị bắt tại Đại lý. Tên Vân Nam vương
biết cô là thứ phi của Ngột Lương
Hợp Thai, nên y giải về để Đại Hãn phát lạc. Không biết hiện cô bị giam ở đâu?
– Chị
sẽ dò hỏi Mục Tương Ca.
Đại
Hành tâu nhỏ:
“– Chị ơi! Như em đã cho chị biết về việc Đại Việt
mình trợ Tống. Triều đình sai Vũ Uy vương, vương phi đem hai hiệu binh trợ Ích châu từ mấy tháng nay.
Rồi Đại Hành tường thuật tất cả những gì diễn ra từ
khi Vũ Uy vương đem quân sang trợ Tống. Cuối cùng Đại Hành nhấn mạnh:
– Trận đánh trong ba ngày tới là trận quyết định. Vũ
Uy vương sai em chuyển đến chị một mệnh lệnh: từ khi chị sang Mông Cổ, chị chưa
lập được công trạng gì. Bây giờ triều đình cần chị ra tay. Sáng mai, chị phải
cố gắng thuyết phục Đại Hãn mặc bộ áo giáp mà em trao cho chị cống y.
– Khó quá em ơi!
– Sao lại khó?
– Như em biết đấy, Đại Hãn sợ Tống dùng máy bắn đá, Lôi
tiễn hại người. Vì vậy trong 5 bách phu Cấm vệ, mỗi bách phu người cho một Cấm
vệ giả làm người, để giặc không biết Đại Hãn nào là Đại Hãn thực. Nếu như ngày
mai, người mặc bộ giáp của chị, thì không giống với bọn đóng giả người.
– Dù người có mặc khác đi chăng nữa vì quá xa, làm sao
bọn Tống biết ai là Đại Hãn thực? Ai là Đại Hãn giả?
– Ừ nhỉ. Chị sẽ làm truyện này”.
Bây
giờ trong trướng gấm, Mông Ca đang say đắm nàng, đang hưởng hương sắc nàng. Phi
đặt câu hỏi:
– Tại
sao Vũ Uy vương lại muốn Mông Ca mặc bộ giáp trụ đó? Không lẽ trong bộ giáp có
thuốc độc hay có bùa ngải để hại Mông Ca? Vương muốn giết Mông Ca ư? Nếu Mông
Ca băng thì thân phận ta sẽ ra sao?
Nghĩ
không ra, phi trầm vào giấc ngủ.
Tiếng
tù và báo thức làm Thanh Liên tỉnh trước. Mông Ca vẫn còn say giấc quế trong
váy nàng. Nàng kéo váy ra, khẽ lắc đầu Mông Ca. Y tỉnh dậy:
– Nàng
nhớ không! Đêm qua là một đêm tuyệt diệu. Một đời chúng ta dễ gì được những đêm
như vậy. Nàng nhớ chăng, cái đêm đầu tiên nàng đến với ta, chúng ta đã được hưởng
cái thanh phúc này. Sau khi chiếm Điếu ngư, chúng ta sẽ vào thành hưởng những đêm
thần tiên nữa. Thành Điếu ngư nằm trên đồi, xung quanh có nhiều hoa thơm cỏ lạ.
Bây giờ là tháng 8, có nhiều mưa, hoa nở đẹp lắm.
Nhớ
lại truyện Hoàng Liên, Thanh Liên dò dẫm:
– Đại
Hãn ơi! Hồi còn ở Thăng long thiếp cùng 7 người bạn được tặng danh hiệu Tô lịch
thất tiên...
– Ta
biết. Người đẹp nhất thì gã Ngột Lương
Hợp Thai tuyển làm thứ phi. Sau nàng bị vợ là Trần Hy
Hà ghen, cắt gân chân tay, chọc mù mắt. Hồi ở Yên kinh, nàng thách Hy Hà đấu kiếm.
Hy Hà bị nàng cắt tứ chi, chọc thủng hai con ngươi. Sau không biết sao Ngột Lương Hợp Thai để nàng
bị tụi phản tặc Đại lý bắt. Mới đây Vân Nam vương
đã giải thoát nàng, đưa về cho ta. Ta ra điều kiện cho tên Ngột Lương Hợp Thai phải bỏ
Hốt Tất Liệt theo ta, ta sẽ cho y tái hợp với nàng. Bằng không ta gả nàng cho
Xích Nhân Thiết Mộc Nhi, hoặc Mục Tương Ca.
Mông Ca nhìn những bộ giáp treo trên
vách lều. Phi chỉ vào bộ giáp bạc:
– Bộ
này là bộ thiếp dâng cho Đại Hãn. Mà sao hồi này Đại Hãn ít mặc nó vậy? Hôm nay
Đại Hãn mặc nó để thiếp vui lòng!
Mông
Ca cầm bộ giáp lên:
– Đúng!
Bộ này nàng dâng cho ta đây. Bên trong bằng bạc. Ngoài khảm xà cừ. Khi mặc xuất trận, ánh nắng chiếu vào đẹp vô
cùng.
Muốn
làm vừa lòng phi, Mông Ca mặc bộ giáp bạc, rồi hỏi phi:
– Đẹp
không?
– Đẹp
thì không đẹp, nhưng trông giống như một thiên tướng.
Nói
dứt trong lòng phi lại nổi lên một cơn bão táp. Nàng nói thầm trong lòng:
– Người
tình tuyệt vời ơi! Con
nai của em ơi! Đừng nghe lời em. Anh mà mặc bộ giáp này thì e chúng ta sẽ không
còn dịp lên tuyệt đỉnh Vu sơn nữa !
Thái giám dâng đồ ăn sáng. Thanh
Liên ngồi ăn với Mông ca. Aên xong, Mông Ca đứng dậy, định đội mũ. Viên Đại Hãn
đa tình liếc nhìn Thanh Liên, ngực nàng rừng rực căng tròn. Không tự chủ được,
y bồng nàng lên, để nàng đứng trên chiếc ghế, rồi y tốc váy nàng chui đầu vào.
Biết y đang cơn say đắm, Thanh Liên để yên cho y hưởng cái thanh lịch, tươi
thắm của mình. Phải hơn khắc sau, Mông Ca mới bế nàng đặt xuống đất, rồi ra
khỏi lều.
Thanh Liên muốn níu chồng lại.
Nàng nói thầm:
– Anh ơi đừng ra trận nữa! Hãy bỏ
bộ giáp trụ, mũ trận lại. Nguy hiểm lắm.
Tù và rúc lên Ô Mã Nhi cỡi ngựa đi
trước. Bách phu của y đi sau. Rồi tới bách phu của Kim Đại Hòa. Đoàn giáp trụ
rầm rập ra khỏi trại. Giữa mỗi bách phu có một Mông Ca giả.
Biết rằng Mông Ca ra đi nguy hiểm
vô cùng. Nhưng Thanh Liên cắn chặt răng, không dám cản. Thanh Liên ôm mặt khóc nấc
lên. Nàng trở vào lều, nằm vật xuống dường.
Trong thành Điếu ngư, giờ Mão,
binh tướng đã dàn ra các vị trí. Trên thành Vũ Uy vương, Vương
Kiên
đứng nhìn về phía Mông cổ vẫn xuất quân chờ đợi. Thì chim ưng mang thư tới. Thư
của Nguyễn Thiên Sanh:
“
Đã tìm ra nơi giam phu nhân Tạ Quốc Ninh. Chúng tôi không bỏ thuốc độc vào tầu
ngựa kéo xe, mà bỏ vào tầu ngựa của vạn phu công thành Điếu ngư. Trên các xe
chở chất nổ đã đặt một bùi nhùi. Khi xe đi giữa đường có thể phát nổ”.
Có những tiếng hú, tiếng tù và vang dội, rồi kị
binh Mông cổ hàng hàng lớp lớp phi tới. Địa Lô đánh ba tiếng chiêng, Lôi tiễn
bắn lên trời hàng loạt, nổ chụp xuống đầu đội hình kị binh. Kị binh ngã lộn đi,
lớp sau đè lên lớp trước. Nhưng chúng vẫn phi đến như bay. Như thường lệ, khi
tới cách thành khoảng trăm trượng thì dàn thành trận thế. Một hồi tù và rúc
lên, trận kị binh mở ra, bộ binh đeo lá chắn hàng hàng lớp lớp tiến đến chân thành.
Xe bắn đá bắn những tảng đá khổng lồ lên thành. Phía sau họ năm chục chiếc xe
do hai ngựa kéo.
Thình lình một tia
lửa lóe lên, rồi một tiếng nổ long trời lở đất phát ra từ một chiếc xe.
Khói đen bốc lên như một cái nấm vĩ đại,
khiến người ngựa xung quanh bay tung lên cao. Tiếp theo, những tiếng nổ liên
tiếp từ các xe phát ra. Sau gần giờ những tiếng nổ dứt thì trên một bãi dài nào
xác người, nào xác ngựa nằm chồng chất
lên nhau.
Vương Kiên cười sảng khoái:
– Đại đởm đại tướng
quân đúng là thần nhân cứu Điếu ngư! Nếu những chiếc xe kia tấn công vào chân
thành, thì thành phải vỡ!
Trước hoàn cảnh khủng khiếp như
vậy, mà Mục Tương Ca thản nhiên cho thu dọn xác người xác ngựa.
Lôi tiễn nã, Nỏ thần bắn, đám bộ
binh ngã hàng loạt, xác chết chồng lên nhau. Nhưng họ vẫn phải tiến. Vì phía sau
họ là bọn Mông cổ tay lăm lăm đao. Ai ngừng bước hoặc quay lại là bị chặt đầu
ngay.
Đợt thứ nhất thất
bại.
Mục Tương Ca ra lệnh : bắn đá lên
thành. Rồi bộ binh lại xung tới bắc thang leo lên. Lần này là các cao thủ võ
lâm. Thoắt một cái, họ đã lên tới mặt thành. Lập tức đội võ sĩ do Nguyễn Văn
Lập chỉ huy cùng Hoa Sơn ngũ hiệp ngăn lại. Cuộc giao chiến
ngay trên tường thành. Nhà sư Phong Đức cùng 20 đội võ sĩ Hán cùng ra tay. Trong khi đó bộ
binh vẫn bắc thang leo lên.
Tình lình đám
chiến mã Mông cổ xùi bọt mép, đầu lắc lư
rồi khụy xuống, không đứng dậy được. Các kị mã hò hét ta roi, nhưng chúng vẫn
nằm ỳ ra.
Mục Tương
Ca kinh hoàng, hét:
– Cái
gì vậy?
– Dường
như chiến mã bị trúng độc.
Thiếu
yểm trợ, đám bộ binh đang leo lên thành, lùi lại. Đội võ sĩ Mông cổ đang giao chiến một sống một chết với cao thủ
Tống thì cầu thang bị rút. Kinh hoảng, họ cùng nhau nhảy vào trong thành, Nỏ
thần bắn một loạt, hơn trăm người bị ngã. Đến loạt thứ ba thì chỉ còn hai người.
Đó là hai võ sĩ Tây hạ. Cả hai đầu hàng.
Giữa
lúc đó tù và rúc lên ba hồi, đoàn xa giá Mông Ca tới. Năm bách phu Cấm vệ dàn
ra. Mỗi bách phu có một Mông Ca, ngồi trên ngựa thị sát mặt trận. Các Mông Ca
thân thúc trống trận. Đợt thứ nhì lại tiến tới chân thành. Bộ binh đã bắc
thang, hò reo leo lên. Gỗ đá trên thành lăn xuống. Thang, người ngã lộn xuống đất.
Vũ Uy
vương chỉ vào đoàn hộ tống Mông Ca ra lệnh cho Lôi tiễn:
– Có 6
Mông Ca, trong đó có 5 Mông Ca giả tại 5 bách phu. Mông Ca thực là người
mặc giáp mà ánh nắng mặt trời phản chiếu
lóng lánh kia. Hãy nã Lôi tiễn vào người đó.
Địa Lô
đã tìm ra vị trí của Mông Ca thực. Tử chỉ cho các xạ thủ Lôi tiễn.
Mười Lôi tiễn phóng vào chỗ Mông Ca thực. Lôi tiễn nổ. Hơn chục Cấm vệ, người, ngựa tan
thây nát thịt. Nhưng không trúng Mông Ca thực.
Ô Mã Nhi gào lên:
– Đổi thế trận.
Năm bách phu Cấm vệ chuyển động. Phút chốc trận thế biến đổi. Bây giờ
Mông Ca thực ở giữa bách phu của Ô Mã Nhi. Đứng trên thành, Vũ Uy vương thấy rõ
ánh sáng từ áo giáp khảm xà cừ của Mông Ca chiếu ra ở góc trái của trận. Vương chỉ
điểm, Lôi tiễn lại hướng đến góc đó nã liền 10 quả. Hơn chục người ngựa Cấm vệ
lại tan xương nát thịt.
Ô Mã Nhi hét:
– Chúng ta lùi lại, bằng không Đại Hãn gặp nguy hiểm.
Đoàn Cấm vệ rầm rập lui về sau.
Cuộc công thành đến 10 đợt, bộ binh chết dưới chân thành thây chồng chất
lên nhau.
Mông Ca gọi Mục Tương Ca tướng chỉ huy công thành:
– Người tiếp tục bao vây, công thành.
Mục Tương Ca hỏi:
– Đại Hãn chỉ có Cấm vệ theo hộ tống, e không đủ.
Mông Ca tự tin:
– Ta có 5 đoàn Cấm vệ, tới 500 người sức mạnh bằng 10 vạn bộ binh thì sợ
gì ? Vả bọn Tống như chuột, sợ chúng ta như sợ cọp, đâu dám ra khỏi
thành ?
Y gọi Ô Mã Nhi:
– Người dẫn bách
phu cơ hữu mở đường. Chúng ta đi Bồ lăng.
Năm bách phu Cấm
vệ rầm rập lên đường. Bách phu của Ô Mã Nhi đi trước. Trong mỗi đội hình của
các bách phu cũng có một Mông Ca. Khi ngựa đi vào khu Trường thảo, thì kị mã đi
đầu thấy ngang đường có cái ụ do đá xếp cao đến hơn trượng. Trên ụ có cây cờ
Tống bay phất phới. Y dừng lại báo cho Ô Mã Nhi. Ô Mã Nhi ra hiệu cho bách phu
chuẩn bị tác chiến, rồi y lên trước quan sát:
Rõ ràng ụ này do người xếp cản đường, với hàng chục lớp, mỗi lớp cách
nhau khoảng 3 dặm. Y nghĩ thầm: quân này là quân nào? Chúng phục tại đây, lập
các ụ cản, rõ ràng chúng ngăn đường không cho ta đi Bồ lăng.
Y ra lệnh cho cả
bách phu xuống ngựa khuân đá vứt sang bên lề đường; thì vừa lúc đó bách phu của
Kim Đại Hòa, rồi A Mít Lỗ Tề, Đi Mi Trinh, Đại Hành tới. Năm tướng đều là những
người kinh nghiệm về hành quân: dàn 5 năm đoàn thành 5 khu, mỗi khu cách nhau
khoảng 4 dặm (2km).
Kim Đại Hòa quan
sát rồi nói:
– Bọn lập chướng
ngại không nhằm mục đích cản chúng ta đi Bồ lăng, mà mục đích không cho Xích
Nhân Thiết Mộc Nhi rút về. Vì các ụ này để cho quân quay lưng lại phía ta, chống
với quân từ trước đánh tới.
Ba tiếng pháo nổ.
Tên từ trong các bụi cỏ bắn ra vèo vèo. Dã Tượng đứng trên một mỏm đá cao, cầm
cờ chỉ huy. Trống thúc liên hồi. Bá phất cờ, phục binh từ bốn phía, tay mang đao
quất, tay mang khiên mây, hàng hàng bao vây 5 đoàn Cấm vệ. Năm trăm Cấm vệ dàn
thành 5 trận thế khác nhau. Phục binh bao vây 5 bách phu thành 5 đoạn.
Dã Tượng quan sát, rồi nói với các tướng:
– Tin báo mỗi đoàn đều có một Mông Ca giả, với
Mông Ca thực là 6. Mông Ca thực mặc áo giáp bạc, khảm xà cừ. Nếu nắng chiếu vào
sẽ có tia phản chiếu. Ta phải tìm ra Mông Ca thực, rồi giết y.
Bá thấy đủ 6 Mông
Ca, mà không biết Mông Ca nào là Mông Ca thực, Mông Ca nào là Mông Ca, vì chúng
ở cách xa bá. Bá đành thúc binh tấn công tất cả.
Chỉ thoáng một
cái, trên 10 Cấm vệ bị trúng tên ngã ngựa. Cấm vệ dương cung bắn vào phục binh.
Nhưng phục binh dùng khiên mây đỡ. Tên bị găm vào khiên mây. Không đầy nửa khắc,
phục binh lẫn với Cấm vệ. Cấm vệ bỏ cung tên rút đao ra tấn công. Ô Mã Nhi vung
đao lên, năm phục binh bị giết. Y quan sát thấy bốn tướng của mình tuy có chiến
đấu, nhưng dường như họ đánh cầm chừng.
Thấy Dã Tượng đứng
trên cao cầm cờ chỉ huy. Y nghĩ thầm:
– Tên này là tướng
chỉ huy đây. Phải giết chết nó mới hy vọng sống.
Y phóng tới chém
vào cổ Dã Tượng một đao. Dã Tượng vung côn sắt đỡ. Choang một tiếng, đao suýt
vọt khỏi tay y. Cánh tay y tê rần. Y
kinh hãi:
– Mình đánh khắp
thiên hạ, không kẻ nào đỡ đao của mình
mà không rơi vũ khí. Tên này đỡ dường như không hề hấn gì.
Dã Tượng múa côn
tấn công Ô Mã Nhi. Ô Mã Nhi đã từng đối
chiêu với Dã Tượng tại điện Quang minh trong thành Yên kinh. Nhưng hôm đó, Dã Tượng
che mặt thành ra y không nhận ra bá. Sau mười chiêu, bá yếu thế, cứ phải lùi
lại. Một tiếng nói thanh thoát:
– Để tên này cho
em. Anh hãy chỉ huy quân.
Nhận ra tiếng vợ,
Dã Tượng thu côn. Giữa lúc Dã Tượng lùi bước thì Ô Mã Nhi xả đao vào lưng bá.
Nhưng một ánh thép lóe lên, cổ tay y bị trúng kiếm, đao rơi xuống đất. Kinh
hoảng y quay lại nhìn đối thủ thì đó là một thiếu nữ sắc nước hương trời.
Y quát lên:
– Người là ai?
Thấy đối thủ nhỏ
người, y khinh thường, vung tay kẹp sống kiếm của nàng, thì kiếm đã đổi chiều
chĩa vào ngực y. Y dùng hết sức bình sinh phóng một quyền, đó là võ công Tây vực
tấn công nàng. Tay phải Thúy Hồng dùng kiếm, tay trái phát chiêu Thiết kình phi
chưởng đỡ quyền của Ô Mã Nhi. Bộp một tiếng. Nàng cảm thấy khí lực đối thủ mạnh
kinh nhân. Còn Ô Mã Nhi thấy kình lực đối thủ như có như không, y có cảm tưởng đấm
vào một bị bông.
Biết dùng lực
không xong, y đổi, phát một chiêu võ của phái Võ đang, tấn công, chân từ vị thế
Sơn hỏa bí cung Cấn bước vị thế Địa lôi phục cung Khôn. Thúy Hồng nghĩ
thầm :
– Tưởng gì chứ mi
dùng phương vị Bát quái với ta thì dễ quá.
Nhảy lùi lạ sau ba
bước, dắt kiếm vào hông, nàng móc cái túi đeo chài ở ngang lưng. Chài mở ra,
chân nàng từ vị trí Thiên sơn độn cung Càn, bước sang vị thế Địa phong thăng
cung Chấn. Chài chụp lên đầu y. Kình lực của y bị tuyệt. Y trầm người xuống
tránh chài. Nhưng cũng bị một viên chì trúng huyệt Khúc trì tay trái. Cánh tay
y tê rần. Y nhảy lùi ba bước quát bằng tiếng Mông cổ :
– Võ công này là
võ công gì ?
Thúy Hồng trêu y, đáp
lại bằng tiếng Mông cổ :
– Võ công của ta
là võ công Hoa
Thích Tử
Mô !
Ô Mã Nhi nhăn mặt
suy nghĩ, thì chài đã chụp lên đầu y. Sáu Cấm quân là người thuộc phái Võ đang
cùng múa kiếm vây Thúy Hồng cứu chúa tướng!
Được rảnh tay, Ô
Mã Nhi lại dùng đao tấn công vào quân phục kích. Y đánh như vào chỗ không người. Thấy Dã Tượng đang cầm cờ chỉ
huy bao vây Cấm quân, y nhảy tới xả một đao vào người bá. Nhưng một ánh thép
lóe lên, rồi có thanh kiếm đâm vào tay y. Đao rơi xuống đất. Kiếm lại chĩa vào
cổ y. Y nhìn lại đối thủ, lại là một thiếu nữ đẹp tuyệt trần. Nhận ra thiếu nữ
y quát lên :
– Phải chăng người
là Ý Ninh vợ của Trần Nhật Duy, con tin Giao chỉ? Tháp Sát Nhi nói rằng vợ
chồng mi về Giao chỉ, đem đại quân đánh vào sau lưng Tống, sao mi lại ở đây?
Vương phi Ý Ninh cười
lớn. Phi nói bằng tiếng Hán vùng Yên kinh:
– Ô Mã Nhi tướng
quân. Tôi tuân chỉ của Đại vương Hốt Tất Liệt đem quân trợ chiến
với Đại Hãn. Biết quân Tống từ Giang an sẽ qua đây cứu Điếu ngư, nên chúng tôi
phục binh chờ chúng tới. Không ngờ lại gặp tướng quân. Chết rồi! Người nhà đánh
lẫn nhau rồi! Cũng tại tướng quân không mang cờ Mông cổ.
Biết vương phi Ý
Ninh chọc giận mình, Ô Mã Nhi móc tay ra chiêu Cầm long công, đao từ dưới đất
vọt lên vào tay y. Y quay đao tấn công phi, thì kiếm của phi đã chĩa vào cổ y.
Y lộn người về sau ba vòng tránh kiếm, khi y vừa đứng xuống đất thì thủy chung
mũi kiếm vẫn chỉ vào cổ . Y vọt người lên cao, bị mũi kiếm rạch một nhát dọc sườn,
chạm vào áo giáp đến xoẹt một cái. Y hét lên một tiếng kinh hoảng.
Đội Cấm vệ của Ô
Mã Nhi gồm toàn các cao thủ Trung nguyên. Ô Mã Nhi hô lên một tiếng, đám Cấm vệ
này bao vây lấy Ý Ninh. Ý Ninh vòng một kiếm, đầu hai Cấm vệ bay khỏi cổ. Trận
thế có một kẽ hở, thấp thoáng một cái, phi đã tung mình ra khỏi trận.
Hai đội kiếm trận Mê linh đã kết thành trận
Bát tỏa. Đám Cấm vệ của Ôâ Mã Nhi nào biết gì về kiếm trận Mê linh? Chúng thấy
bên địch toàn là các thiếu nữ, thân hình nhỏ bé thì khinh thường. Chúng hô lên
một tiếng rồi dàn hàng xung vào.
Hải Hiền hô:
– Nhị thế, ngũ căn.
Kiếm trận Mê linh
biến đổi, đám Cấm vệ bị vây vào giữa. Chúng vung đao phản công.
Hải Hiền hô:
– Thần xà, thất
kiếm.
Kiếm trận biến đổi, hơn hai mươi Cấm vệ cườm tay
bị trúng kiếm, máu chảy xối xả, bị đánh rơi mất đao. Chúng đang kinh ngạc thì đầu
chúng đã bay khỏi cổ.
Ý Ninh hô:
– Mê linh khởi
binh!
Hai đội kiếm trận
dàn thành hình chữ nhất, rồi bao vây lấy ngựa Mông Ca. Kinh hoảng, đám Cấm vệ
xung vào đánh thục mạng cứu chúa. Nhưng đầu Mông Ca đã rơi xuống. Đó là một
Mông Ca giả.
Ô Mã Nhi biết rằng
muốn sống còn phải giết cho được Ý Ninh. Y múa đao tấn công phi. Nhưng kiếm của
Ý Ninh quá thần tốc. Thành ra y chỉ biết chống đỡ. Bỗng người Ý Ninh quay tròn
như con quay tới trước mặt Ô Mã Nhi, cườm tay y bị trúng kiếm, đao rơi xuống đất.
Ý Ninh chĩa kiếm vào ngực y:
– Nếu người không đầu
hàng thì ta nhả kình lực.
Lòng viên tướng vô
địch Mông cổ lạnh như tro tàn. Quay đầu nhìn trận của mình thì A Mít Lỗ Tề, Đi
Mi Trinh đã bị kiếm trận Mê linh bắt. Còn Kim Đại Hòa, Đại Hành đang đứng trước một Mông Ca giả
chiến đấu tuyệt vọng.
Y thở dài:
– Tôi xin đầu
hàng.
Ý Ninh
thu kiếm về. Ô Mã Nhi thoát khỏi bị kiềm chế. Y tung người tới xớt Mông Ca
thực, rồi nhảy lên lưng chiến mã thúc chân cho ngựa chạy. Dã Tượng phóng theo.
Bá xử dụng chiêu Mã phi sơn lĩnh trong
bộ Đảo mã cửu lộ thức. Bá rơi trước ngựa của Ô Mã Nhi. Con ngựa hí lên, dùng
hai chân bổ xuống đầu Bá. Bá ra chiêu Mã hung bất kham, khom người, hai tay chụp hai chân trước ngựa
rồi quay tròn. Con ngựa ngã lộn xuống đất.
Ô Mã Nhi, Mông Ca đều là những kị mã siêu việt. Hai người tung mình lên cao, đáp
xuống đất. Ô Mã Nhi kinh hoàng về tý lực của Dã Tượng. Y vung đao xả xuống đầu
bá một chiêu cực kỳ trầm trọng. Bá vung côn lên đỡ. Xoảng một tiếng, côn của bá
gẫy đôi, cánh tay Bá như muốn tê liệt. Bá nhảy lùi vào Mê linh kiếm trận. Đội
quân khiên mây, đao quất vây lấy Ô Mã Nhi. Trong khi Mông Ca đùng đao chống với
phục binh một cách tuyệt vọng. Đám Cấm vệ lớp bị bắt, lớp bị giết gần hết.
Dã Tượng nháy Đại Hành:
– Buông vũ khí đầu hàng đi thôi!
Đại Hành, Kim Đại Hòa buông vũ khí đầu hàng.
Thấy Mông Ca bị nguy, Ô Mã Nhi xung vào trùng vây, mỗi đao vung lên một
người chết. Mông Ca thấy vòng vây dãn ra, y chém ba chiêu liền, rồi phóng mình
lên một chiến mã, chạy về phía Hợp châu. Ô Mã Nhi cũng vọt lên ngựa chạy theo chúa.
Ngựa Mông Ca, Ô Mã Nhi, phi giữa hơn ba chục Cấm vệ chạy về hướng Điếu
ngư. Nhờ ánh nắng chiếu vào bộ giáp khảm xà cừ, Dã Tượng biết đây mới là Mông
Ca thực. Bá vọt mình theo, nhưng dù khinh công Bá cao đến đâu cũng không bằng ngựa.
Bá nhặt hai viên đá ném theo. Một viên trúng cái mũ bạc trên đầu y kêu lên
tiếng choảng. Người y lắc lư suýt rơi khỏi mình ngựa. Dã Tượng ném viên thứ
nhì, trúng lưng y một tiếng choang vang
lên. Đến đây ngựa của y phi đã xa. Biết sức mình thua sức ngựa. Bá trở lại
trận.
Giữa lúc đó có những tiếng hú rùng rợn, rồi hàng hàng lớp lớp Thiết đột
Mông Cổ từ phía Điếu ngư lao tới. Biết bên địch có viện binh. Bá cho dàn quân
ra chờ đợi.
Quan sát đoàn Thiết đột, bá ước tính địch có một Thiên phu. Nhưng đoàn
Thiết đột chỉ dàn ra cản hậu cho Mông Ca với đám Cấm vệ chạy thoát, chứ không
giao chiến. Thoáng một cái đoàn Thiết đột đã hộ vệ Mông Ca mất hút vào cuối
Thảo trường.
Vương phi Ý Ninh nói với Đại Hành, Kim Đại Hòa, A Mít Lỗ Tề, Đi Mi
Trinh:
– Cấm quân chết hết rồi. Mông Ca bị thương nặng. Bốn tướng với ta vốn có
tình nghĩa cũ. Thôi mỗi người lấy một ngựa trở về thôi.
Bọn Ô Mã Nhi đi rồi, vương phi Ý Ninh viết thư báo cho vương biết tình
hình, sai chim ưng mang đi:
“ Đánh tan 5 bách
phu Cấm vệ. Có một Thiên phu Thiết đột tới tiếp viện cho Mông Ca. Mông Ca bị thương
nặng chỉ còn 30 Cấm vệ đang chạy về phía Hợp châu. Xin xuất thành bắt y”.
Dã Tượng kiểm điểm lại trận chiến: cho chôn xác bọn Cấm quân. Thu nhặt
chiến lợi phẩm. Hiệu binh Văn Bắc tổn thất
không làm bao. Các tướng soái vô sự. Vương phi Ý Ninh họp các tướng lại. Phi
nói:
– Các vị chuẩn bị cho binh sĩ ăn cơm trưa, nghỉ ngơi dưỡng sức. Nấu ăn
bữa chiều. Vì chiều nay bọn Xích Nhân Thiết Mộc Nhi đánh Bồ lăng không được, vì
hết lương ắt sẽ trở về Hợp châu. Chúng ta cản đường rút quân của chúng.
Phó thống lĩnh hiệu Văn Bắc là Lý Đại bàn:
– Trong binh pháp có nói giặc cùng chớ đuổi. Đây chúng ta không đuổi, nhưng
cản đường thì chúng phải tử chiến. Có nguy hiểm lắm không?
Dã Tượng phân tích:
– Dĩ nhiên chúng sẽ tử chiến. Nhưng ta trấn trong các ụ cản kị binh.
Xích Nhân Thiết Mộc Nhi có tới 4 vạn người, ngựa. Dù đánh Bồ lăng có tổn thất
cũng còn hai vạn. Ta chỉ cần giữ vững chiến lũy thì đến sáng mai, chúng đói lè
lưỡi ra, đâu còn sức tấn công?
Dã Tượng nói với sư Phong Anh, đệ tử của Thiên Phong chỉ huy đội võ sĩ
Hán:
– Khi khởi hành, tôi xin mỗi vị mang theo một cái túi lớn, trong chứa
nhiều túi bột nhỏ. Các vị hỏi tôi rằng dùng vào việc gì? Tôi thưa: sẽ nói sau.
Bây giờ các vị mang túi theo tôi.
Hơn năm chục người lên ngựa thủng thẳng tiến về phía Bồ lăng. Ra khỏi
khu Trường thảo, là những khu làng mạc nhà cửa khang trang. Những khu này nối
tiếp nhau đến 20 dặm. Dân chúng đã di tản đi hết. Chỉ còn nhà không. Hai bên đường
là những cánh đồng rộng mênh mông trồng rau. Bấy giờ thời tiết vào tháng 7,
nắng ấm, rau tươi tốt. Có mấy cái ao, nước trong xanh.
Sư Phong Anh phát biểu:
– Nếu Mông cổ đánh Bồ lăng thất bại, hết lương, hết nước, về tới đây có
thể lấy nước dưới các ao này cho người ngựa uống, lại có thể cắt rau này cho người-ngựa
ăn. Đại tướng quân nên cho chúng tôi trấn ở đây để giết giặc.
Dã Tương cười:
– Đa tạ Đại sư. Đệ tử thỉnh cầu Phật giá của đại sư cùng các võ sĩ vào
việc khác quan trọng hơn.
Dã Tượng nhìn nhà sư, nghĩ thầm:
– Ông sư trẻ này cũng có ý thức về quân sự đây.
Dã Tượng ra lệnh:
– Trong mỗi cái túi này đựng đến hơn trăm cân (50kg) bột thuốc để bón
rau, nuôi cá. Xin các vị đem bột thuốc rải đều lên các luống rau, và rắc xuống
ao. Nhớ rắc thuốc lên rau chứ không phải lên mặt đất.
Đó chính là những bao thuốc mà Địa
Lô chế, dùng để đánh thuốc độc chiến mã.
Các võ sĩ thắc mắc:
– Tại sao lại dùng bột như phân bón lên những cây rau này, rồi lại rải
xuống ao?
Nhưng họ thấy vị chúa tướng này nghiêm nghị, đầy bí ẩn nên không hỏi han
gì.
Công việc trong hơn hai khắc thì xong. Dã Tượng cùng các võ sĩ trở lại
khu Thảo trường. Bá cùng vương phi Ý Ninh, Thúy Hồng, chư tướng đi kiểm soát
lại các vị trí phục quân một lượt. Mọi sự xong.
Chim ưng
mang thư tới. Dã Tượng mời vương phi Ý Ninh cùng các tướng: Phó thống lĩnh Lý Đại, chỉ huy Quân Khâu
Bắc Trần Nhị; Quân Văn Sơn Vũ Tam; Quân Chiêu dương Phạm Tứ; Quân yểm
trợ Hoàng Ngũ; cùng mở ra xem. Thư của Yết Kiêu, khá dài:
“Gia Huyễn Ông,
bàn với đệ, và Phùng Tập, rồi đệ cho lập chiến lũy dọc theo sông Trường giang,
và phía Nam sông Ô giang, phỏng theo chiến lũy Cụ bản của mình thời Nguyên phong.
Chiến lũy có 4 lớp. Mỗi lớp cách nhau 200 trượng (400m). Lớp thứ nhất, thứ
nhì dài khoảng 10 dặm do hiệu Bồ lăng
trấn đóng. Lớp thứ ba, thứ tư do hiệu Thiệu Hưng trấn đóng. Lớp thứ năm do hiệu
Kiếm các trấn đóng. Gia Huyễn Ông giảng giải cho tướng sĩ biết rằng trận chiến
có thể kéo dài suốt ngày, phải chuẩn bị bị lương khô cho bữa trưa, bữa chiều. Tuy
là văn nhân, nhưng ông đứng ở chiến lũy đầu đốc chiến với đệ.
Bọn tướng trâu
nhà mình góp ý: chiến lũy này cũng giống chiến lũy Cụ bản hồi Ngột Lương Hợp Thai đánh Đại Việt. Tấn công trực diện không thắng,
chúng sẽ men theo sông xuống hạ lưu, tìm chỗ sông nông, rồi vượt sông đánh vào
hông. Vậy cần đề phòng phía hông. Gia Huyễn Ông tiếp nhận kinh nghiệm này. Ông
cùng đệ bố trí một Quân bộ của hiệu Thiệu Hưng, với 2 Vệ Ngưu binh, lưu động
bảo vệ hông ở hạ lưu. Đệ cho hai Vệ Ngạc
ngư trấn bên kia sông Trường giang, phòng Mông cổ dùng thủy quân ép bên hông.
Vạn sự cụ bị.
Sáng nay, giờ
Thìn, bọn Xích Nhân Thiết Mộc Nhi ào ào kéo đến. Thấy đồn ải kiên cố, chúng sai
sứ vào chiêu hàng. Phùng Tập chém đầu sứ để chọc giận chúng.
Chúng bỏ ngựa,
chặt cây, khuân đất lấp sông Ô giang, rồi hò reo tấn công vào chiến lũy. Hiệu
binh Bồ lăng dùng tên bắn ra. Chúng liều mạng tấn công. Hai bên kịch chiến.
Giằng co đến giờ Ngọ, chiến lũy vẫn giữ vững. Chúng chết khá nhiều. Hiệu Bồ lăng
tổn thất cũng đậm. Chúng rút lui, nghỉ ăn trưa.
Quả đúng như bọn
tướng trâu ước tính. Aên trưa xong bọn Mông cổ vẫn tiếp tục vượt sông Ô giang,
tấn công chiến lũy. Một mặt men theo sông xuống hạ lưu 15 dặm, chúng tìm được
một khúc, nước không sâu, ngựa lội qua được. Bọn chúng cho hơn vạn kị binh qua
sông, tiến đánh vào hông chiến lũy, thì bị bọn Ngưu binh và chiến sĩ Thiệu Hưng
chặn lại.
Quả thực Ngưu binh, Ngưu tướng sau mấy năm
luyện tập, bây giờ kinh nghiệm, thêm dùng Vạn kiếp tông bí truyền thư, nên trận
thế biến ảo, tiến lui nhịp nhàng. Bọn kị binh bị đẩy vào khu đồng lầy, chết không
biết bao nhiêu mà kể: xác người, xác ngựa nằm rải rác trên một khu bao la.
Chúng đành rút lui trở về bờ Bắc.
Thế nhưng mũi
trực diện lớp thứ nhất chiến lũy bị tràn ngập. Hiệu binh Bồ lăng thiệt hại
nặng. Xích Nhân Thiết Mộc Nhi cương quyết thúc quân quyết chiến, vì nếu chiều
mà không chiếm được kho lương thì ngày mai không còn gì ăn. Y tung ba vạn kị
binh bỏ ngựa tấn công. Sau hơn giờ lớp 2 chiến lũy bị tràn ngập. Hiệu binh Bồ lăng
coi như tan rã mất khả năng chiến đấu.
Gia Huyễn Ông bị thương, nhưng ông quyết băng bó, rồi đứng đốc chiến với Phùng
Tập. Thế nhưng phía Mông cổ, tổn thất cũng không nhỏ. Xích Nhân Thiết Mộc Nhi
lại cho quân đánh lớp thứ ba bằng hai mũi: mũi trực diện và mũi vượt sông ở hạ
lưu đánh vào hông.
Đệ phải đích thân
ra chỉ huy lũ tướng trâu. Khu này đồng lầy không sâu, ngựa tạm thời di chuyển được,
nhưng không phi nổi. Cuộc chiến thực kinh khủng. Sau ba đợt giao tranh, Ngưu binh
bị tổn thất nhẹ, tuy nhiên bọn kị binh Mông cổ bị đánh tan tành. Chúng dẫn tàn
quân, vượt sông trở về bờ Bắc.
Khi mới tới Bồ lăng,
Xích Nhân Thiết Mộc Nhi ra lệnh trưng dụng tất cả thương thuyền, dân thuyền.
Dùng các thuyền này chở hai nghìn kị binh không ngựa, ngược giòng Trường giang,
dự tính tiến về Giang an.
Được tin này, đệ
lệnh cho hai đội Ngạc ngư hành sự. Khi đoàn thuyền khởi hành được mười dặm thì
cùng đục thuyền. Toàn bộ đoàn thuyền bị đánh chìm. Kị binh Mông cổ là những người
quanh năm sống trong vùng Thảo nguyên, không có sông ngòi, vì vậy chúng không
biết bơi. Khi thuyền chìm, trên người chúng mang vũ khí, giáp trụ cồng kềnh,
nên chết đuối sạch.
Trở lại với mũi
nhọn Mông cổ vượt Ô giang đánh trực diện. Sau khi chiếm được hai chiến lũy, phá
tan hiệu Bồ lăng, số kị binh không ngựa
chết gấp rưỡi binh sĩ trấn thủ. Xích Nhân Thiết Mộc Nhi ra lệnh ngừng tấn công,
thu nhặt xác tử sĩ, chở thương binh ra ngoài cấp cứu.
Cho binh sĩ nghỉ
hơn giờ, Xích Nhân Thiết Mộc Nhi lại ra lệnh tấn công. Đám binh tướng này vất
vả từ sáng, sau suốt nửa ngày xung sát, chúng quá mệt mỏi, mà binh tướng hiệu
Thiệu Hưng tinh lực còn nguyên. Sau năm đợt xung phong. Chúng không còn sức,
Xích Nhân Thiết Mộc Nhi đành ra lệnh rút lui.
Phùng Tập xin cho
binh tướng hiệu Thiệu Hưng đuổi theo. Đệ đồng ý, lệnh cho bọn tướng trâu đi
tiên phong. Thế là mình chiếm lại chiến lũy thứ nhất, thứ nhì, rồi cho binh sĩ
Thiệu Hưng trấn đóng.
Bây giờ bọn Mông
cổ không còn sức đánh nữa, đang rút về Hợp châu. Gia Huyễn Ông, Phùng Tập sẽ
cho Ngưu binh, yểm trợ bộ binh đuổi theo xa xa, để hăm dọa.
Đại Ca Phải cẩn
thận. Tuy tổn thất, nhưng Xích Nhân Thiết Mộc Nhi cũng còn hơn 2 vạn người
ngựa”
Dã Tượng cùng các tướng điều quân ra vị trí phòng vệ.
Xích Nhân Thiết Mộc Nhi là một trong những tướng giỏi nhất của Mông Ca.
Y được Mông Ca trao cho bốn vạn kị binh với nhiệm vụ phải chiếm được kho lương Bồ lăng, Giang an.
Với 4 vạn kị binh sức mạnh nghiêng trời lệch đất. Nhưng kị binh lại vô dụng khi
gặp chiến trường đồng lầy, phải bỏ ngựa lội sông đánh vào chiến lũy. Kị binh
trở thành bộ binh, khả năng chiến đấu giảm đi phân nửa. Gặp chiến lũy kiên cố,
mà người điều khiển đắp là Yết Kiêu, một tướng đầy kinh nghiệm chống kị binh
Mông cổ. Vì vậy kị binh không thể chiếm chiến lũy dễ dàng. Phá được hai lớp chiến lũy, y hy sinh hơn vạn người.
Hơn vạn chết do giao chiến với Ngưu binh. Phía Tống, hiệu Bồ lăng tan rã. Xích
Nhân Thiết Mộc Nhi còn tới hai vạn, đánh vào lớp chiến lũy thứ ba. Nhưng xung
sát suốt từ sáng đến trưa, binh tướng mệt lử trong khi quân giữ chiến lũy là
hiệu Thiệu Hưng, tinh lực còn nguyên. Sau ba đợt xung phong, binh tướng chết quá
nhiều, người còn sống thì mệt đến bước không nổi. Y đành cho rút lui. Gia Huyễn
Ông, Yết Kiêu, Phùng Tập xua Ngưu binh yểm trợ hiệu Thiệu Hưng đuổi theo, chiếm
lại hai chiến lũy bị tràn ngập.
Quân mệt, người ngựa đều đói lả, không còn gì ăn. Y đành ra lệnh vứt
chiến cụ kềnh càng, giết những chiến mã bị thương mà chủ nó tử trận làm thức ăn.
Rồi rút về Hợp châu. Đoàn người ngựa gõ móng đều đặn trên đường. Thình lình đội
hình ùn lại, rồi viên bách phu trưởng đi đầu báo:
– Trình Đại vương, phía truớc có bốn xác chiến mã nằm thành hình vuông.
Ở giữa có xác chiến mã chết dựng đứng. Trên lưng có một người chết, mặc y phục
như Đại hãn.
Xích Nhân Thiết Mộc Nhi vọt ngựa lên xem: y nhận ra 5 xác chiến mã là chiến mã của đội Cấm vệ Mông
Ca. Còn thây người ngồi trên chiến mã đứng là Cấm vệ vẫn đóng giả Mông Ca.
Xích Nhân Thiết Mộc Nhi ra lệnh
chôn xác Cấm vệ ấy. Trong lòng viên tướng trì nghi:
– Rõ ràng Đại hãn nói rằng sẽ đi
Bồ lăng đốc chiến. Nhưng sao không thấy người tới mà lại có xác chết này?
Y ra lệnh tiếp tục hành trình. Đi khoảng một dặm, kị binh lại ùn trên đường,
rồi tới báo:
– Có bốn mươi xác Cấm quân bị treo cổ trên các cây ven đường. Trong đó
có xác chết Cấm quân đóng giả Đại Hãn.
Y tiến lên quanh sát, hạ lệnh đem các xác chết đó chôn bên đường rồi
tiếp tục hành trình. Người, ngựa đói quá đi không nổi. Trời bắt đầu hoàng hôn.
Quân báo:
– Phía trước có ụ đá cao. Sau ụ có quân phục giống như trong các chiến
lũy Bồ lăng.
Ba tiếng pháo nổ, rồi tiếng quân reo, tiếng trống trận thúc vang vang
vọng lại. Một Cấm vệ cỡi ngựa thủng thẳng tiến tới. Y xuống ngựa hành lễ với
Xích Nhân Thiết Mộc Nhi:
– Thưa vương gia. Đoàn Cấm vệ hộ tống Đại hãn bị trúng phục binh. Đại
hãn bị giết rồi. Phía sau có hơn vạn quân mai phục. Vậy vương gia định sao? Tướng
chỉ huy phục binh sai tôi thưa với vương gia rằng họ biết quân của vương gia
mệt, nên không nỡ tấn công vội. Vậy vương gia còn chờ gì mà không đầu hàng để
khỏi bị chết vô ích.
Xích Nhân Thiết Mộc Nhi nổi giận cành hông, nhưng không biết giải quyết
sao! Bởi chính y đang đói rã ruột ra, chân tay bải hoải. Biết phục binh không
tấn công mình. Với hơn hai vạn nhân mã, Xích Nhân Thiết Mộc Nhi cho phép quân
vào những khu làng mạc cướp lương thực. Nhưng dân chúng đã bỏ trốn hết. Trong
mấy ngôi làng, có 5 thửa đất rất rộng trồng rau. Y ra lệnh cho quân sĩ, tạm
nghỉ, thả ngựa ra đồng cho ăn rau. Cho phép binh sĩ giết ngựa, nướng thịt ăn đỡ
đói, đợi trời sáng sẽ quyết chiến một trận. Người, ngựa cần nước uống, mà xung quanh
chỉ có bốn cái ao, nước trong sạch. Kị mã dẫn ngựa tới bờ ao cho uống, lấy nước
cho vào bình đeo bên hông.
Vừa ăn xong thì có tiếng quân reo, ngựa hí, trâu rống. Quân báo:
– Bọn trấn thủ Bồ lăng xua bộ binh, ngưu binh đuổi theo. Chúng dàn trận
trên cánh đồng khô.
Suốt từ sáng, Xích Nhân Thiết Mộc Nhi cùng đoàn kị mã vô địch phải bỏ
ngựa đánh nhau với bộ binh; không phát huy được sức mạnh. Bây giờ tuy người,
ngựa mệt nhừ, nhưng được chiến đấu trên vùng đất khô, đồng trống thì còn gì
bằng. Y cho năm thiên phu dàn trận phía trái, năm thiên phu dàn trận phía phải,
một vạn phu dàn trận chính giữa. Chính y cùng hai vạn phu trưởng đứng đầu.
Nhìn sang trận địch, thấy có ba tướng đứng đầu. Phía sau là hai chục thiếu niên cỡi trâu.
Y nhận diện được Gia Huyễn Ông từng là tù nhân của y. Bên trái Gia Huyễn Ông là
một người trung niên, cao lớn y biết tên là Phùng Tập. Phùng Tập trực tiếp chỉ
huy hơn trăm võ sĩ giữ chiến lũy, giết không biết bao nhiêu binh tướng của y.
Bên phải Gia Huyễn Ông là một một người còn trẻ cao mà gầy. Cái người trẻ trong
suốt cuộc chiến hôm nay, từng chỉ huy đội ngưu binh, đánh kị binh của y trên đồng
lầy. Cuộc tấn công của y thất bại hầu hết do Ngưu binh của người này.
Gia Huyễn Ông ruổi
ngựa ra trước hàng quân, tay phe phẩy quạt phong thái rất nhàn nhã. Ông chắp
tay xá một xá:
– Vị tướng kia
phải chăng là Đại vương Xích Nhân Thiết Mộc Nhi của Mông cổ?
– Còn người phải
chăng là tên nho sĩ từng bị ta bỏ tù?
– Đúng như Đại vương
nói. Tôi nguyên là Giám quân trấn Thành đô, trói gà không chặt. Khi Tổng trấn Đặng
Văn đầu hàng Đại Hãn Mông Ca. Đại Hãn khuyến dụ tôi đầu hàng để được lĩnh tước
hầu. Nhưng thưa Đại vương, người Hán chúng tôi quyết không chịu khuất phục bọn
rợ Thát đát. Tôi không hàng, vì vậy mới bị giam.
Thấy Gia Huyễn Ông
mải nói, một Vạn phu Mông cổ hướng ông bắn một mũi tên. Mũi tên xé gió bay tới
trước mặt mà dường như Gia Huyễn Ông không biết gì. Thấp thoáng bóng nâu, một
thiếu phụ trẻ ngồi trên mình trâu phía sau vọt mình lên cao, đưa khiên mây hứng
mũi tên. Rồi nàng lộn một vòng, lại trở về lưng trâu. Đó là Ngưu tướng Vũ Trang Hồng.
Phùng Tập chỉ tên
Vạn phu trưởng:
– Tên hèn nhát
kia, mi hèn hạ ám toán người ư?
Thấp thoáng, ông
xẹt tới vọt mình lên cao, tay điểm một chỉ, chụp tên Vạn phu trưởng, nhảy về
trận mình. Nói thì chậm, nhưng động tác của ông nhanh như ánh chớp. Đám kị binh
Mông cổ mệt mỏi, muốn cứu chúa tướng mà không kịp.
Gia Huyễn Ông vẫn
bình tĩnh nói với Xích Nhân Thiết Mộc Nhi:
– Vương gia! Phía
trước, đường về Điếu ngư bị đại binh đắp chiến lũy cản đường. Chiến lũy này
kiên cố hơn chiến lũy Bồ lăng. Phía sau thì bị chúng tôi với Ngưu binh, đuổi
gấp. Lương không còn, phải ăn thịt ngựa. Kị binh kiệt lực rồi. Vậy vương gia
còn chờ gì mà không đầu hàng?
Xích Nhân Thiết
Mộc Nhi nổi giận cành hông. Y quát lớn:
– Ta chinh chiến
từ Đông sang Tây. Từ Nam chí Bắc, chưa
từng lùi bước. Ta há đầu hàng tên hủ nho sao ? Được ! Nào chúng ta
quyết chiến một trận.
Nói dứt y cầm tù
và rúc năm tiếng. Kị binh Mông cổ cùng hú lên rồi ra roi cho ngựa xung tới. Gia
Huyễn Ông cười nhạt, tay phe phẩy quạt, thủng thỉnh cho ngựa lùi vào trận.
Phùng Tập phất cờ,
20 đoàn võ sĩ Tống dàn ra, tay lăm lăm đoản đao ở giữa. Hai bên mỗi bên hơn trăm
Ngưu binh. Kị binh Mông cổ tới gần thì Ngưu binh, võ sĩ lùi lại rất nhanh. Kị binh
quyết truy sát, thì ngựa vấp vào trận địa Đại thằng ngã lộn đi lăn trên mặt đất.
Bấy giờ Xích Nhân Thiết Mộc Nhi mới biết dưới đất, quân Tống đã trải những lưới
dây, vì vậy ngựa vấp phải. Võ sĩ, Ngưu binh, bộ binh Tống quay trở lại xung
sát.
Giữa lúc đó trống
thúc vang dội. Hiệu binh Văn Bắc đang hùng dũng đánh ép phía sau. Ý Ninh, Dã Tượng,
Thúy Hồng cùng đội kiếm trận Mê linh, đội võ sĩ Tống đi đầu, giết kị binh như
giết một bầy dê.
Xích Nhân Thiết
Mộc Nhi, cầm tù và hú lên. Kị binh Mông cổ chia làm hai, đâu lưng lại với nhau.
Một nửa chống với hiệu Văn Bắc. Một nửa chống với hiệu Thiệu Hưng.
Cuộc chiến thực
khủng khiếp. Khoảng hơn hai khắc, tự nhiên chiến mã Mông cổ hý lên những tiếng
thảm thiết rồi ngã vật xuống, hắt kị mã ngã theo. Nằm dưới đất, các kị mã cảm thấy
bụng đau như dao cắt. Người người rên la thảm thiết.
Quân Tống vác loa
gọi :
– Hỡi chiến binh
Mông cổ. Các người cho chiến mã ăn rau trong các vườn kia, lại uống nước dưới
ao. Chúng ta đã rải thuốc độc vào rau, xuống ao. Chiến mã các người sắp chết
hết rồi ! Các người cũng sẽ chết.
Bị đẩy vào đường
cùng, các kị mã Mông cổ cố vùng dậy, dùng tàn lực chống trả. Nhưng bụng vừa đau,
vừa đói lả, tay cất lên không nổi. Một số bỏ vũ khí đầu hàng.
Tuy căm hận Mông
cổ tàn ác, giết người không gớm tay. Chúng đang xâm lăng đất nước mình. Nhưng
Gia Huyễn Ông là một nhà nho, lòng dạ nhân từ. Ông không nỡ nhìn chúng bị hai
hiệu binh đánh ép, mà sức lực không còn. Ông ra lệnh thu binh. Dã Tượng cũng
thúc trống thu quân. Đám kị binh đã kiệt lực, lại bị đau bụng. Chúng cùng ngồi
xuống đất, ôm bụng quằn quại, rên rỉ.
Gia Huyễn Ông phi
ngựa tới trước vương phi Ý Ninh :
– Điện hạ. Đám kị
binh này bị kiệt lực, bị đói. Giết chúng thực tội nghiệp. Xin điện hạ mở từ tâm
Bồ tát cho ngừng chém giết.
– Tiên sinh thực
là người nhân từ hiếm có.
Yết Kiêu, Đã Tượng
truyền lệnh tịch thu vũ khí. Xua đám tù binh vào một khu, rồi phân loại. Chúng đói
quá, kêu gào xin ăn. Gia Huyễn Ông đồng ý cho chúng làm thịt những chiến mã bị
chết, bị thương dùng củi nướng ăn .
Vương phi Ý Ninh,
công chúa Thúy Hồng, sai một thiếu nữ trong kiếm trận Mê linh bưng cái mâm.
Trên mâm có một đĩa thịt lợn quay, một đĩa giò, một đĩa lớn đựng nem (chả giò) chiên
còn nóng, một bình rượu cúc, một cái chén tống lớn. Ba người khoan thai bước
vào giữa đám kị binh Mông cổ đang vừa ôm bụng đau đớn, vừa nướng thịt ngựa. Đến
trước mặt Xích Nhân Thiết Mộc Nhi, Thúy Hồng nói bằng tiếng Mông cổ:
– Vương gia xung
sát từ sáng đến giờ mệt mỏi quá rồi. Mời vương gia xơi ít thực phẩm lấy thảo.
Chúng tôi hứa để vương gia một người một ngựa về Điếu ngư.
Xích Nhân Thiết
Mộc Nhi không nghi ngờ, tiếp mâm để xuống đất, tay rót rượu uống, tay cầm đũa
rất thuần thục gắp chả giò thơm nực ăn. Ý Ninh, Thúy Hồng kinh ngạc, vì người Mông
cổ không biết cầm đũa, mà sao tên này cầm đũa như người Việt vậy ?
Xích Nhân Thiết
Mộc Nhi chỉ vào các đĩa thực phẩm :
– Những món này
tôi đã được ăn nhiều lần.
Thúy Hồng
hỏi :
– Vương gia xơi ở đâu ?
– Hồi ở Hoa lâm
tôi được phu nhân của Tham tri chính sự Ngột A Đa mời ăn ba lần. Vương phi của
A Lan Đáp Nhi mời ăn bốn lần. Tuyên phi của Đại Hãn cho ăn nhiều lần. Ba tiên nữ
ấy là người Giao chỉ. Vậy ba vị cũng là người Giao chỉ sao ?
Vương phi Ý Ninh,
Thúy Hồng cùng hiểu :
– Thì ra Thanh
Liên, Thúy Nga, Thanh Nga cho y ăn, dậy y cầm đũa. Hèn chi y cầm đũa thành thạo
quá.
Thúy Hồng vẫn nhỏ
nhẹ :
– Đại vương đoán
chúng tôi là người Giao chỉ, thì đoán chỉ đúng một nửa.
– Một nửa thôi
sao ?
– Chúng tôi là người
Việt, thuộc Đại Việt, chứ không phải là Giao chỉ.
– Ái chà !
Xin lỗi tiên nữ. Tôi đã bị phu nhân của Ngột A Đa chỉnh một lần về cái tên Giao
chỉ, Đại Việt.
Y vẫn vừa ăn vừa
nói :
– Tôi đã từng
chinh chiến ở hơn 10 nước Tây vực, 9 nước Đông phương. Cái cung cách đối với kẻ
thù như thế này, tôi chưa từng thấy ở bất cứ nước nào ! Thì ra cung cách Đại
Việt !
Vương phi Ý Ninh
cố uốn giọng nói bằng tiếng Hán vùng Yên kinh :
– Chưa hết. Tôi
mời đại vương nghe một vài bài hát giải khuây.
Thúy Hồng lấy đàn
cò trên lưng ra kéo. Nàng hát một bài tình ca bằng tiếng Mông cổ theo điệu Quan
họ mà Địa Lô dạy nàng. Nội dung diễn tả lời một thiếu phụ ai oán vì chồng phải đi
chinh chiến, không biết sống chết ra rao. Còn nàng thì phòng không chiếc bóng,
uổng phí những ngày trẻ trung. Hết, nàng đổi ra điệu hát Xẩm.
Đợi cho bài hát
hết, Thúy Hồng nhỏ nhẹ bằng tiếng Mông cổ :
– Thôi đại vương
lên ngựa về Điếu ngư thôi. Phía trước là hơn vạn phục binh. Tôi xin dẫn đường
cho đại vương.
Xích Nhân Thiết
Mộc Nhi hỏi :
– Không biết cô nương
có thể cho đám binh lính của tôi cùng về không ?
Thúy Hồng chỉ vào
vương phi Ý Ninh :
– Tôi cũng muốn
cho họ theo vương gia về. Nhưng vị chúa tướng của tôi giữ họ lại làm tù binh, để
trao đổi lấy tù binh bị Tống bị Mông cổ bắt.
Xích Nhân Thiết Mộc Nhi than :
– Trọn đời chinh chiến chưa bao giờ tôi bị bại, bị nhục như thế này. Hỡi
ơi, 4 vạn kị binh hùng mạnh, mà bây giờ chí khí không còn. Sức lực cũng cạn.
Xin hỏi cô nương: tôi nghe Đại Hãn của tôi cùng
Cấm quân qua đây bị trúng phục binh bị chết rồi! Thế sự thực ra sao?
– Đại vương là người chinh chiến trăm trận, xin đại vương xét đoán xem Đại
Hãn Mông Ca có còn sống hay chết rồi: sáng nay Đại Hãn cùng 5 tướng dẫn 5 bách
phu Cấm quân từ Điếu ngư đi Bồ lăng đốc
chiến, khi qua đây thì gặp hơn vạn phục binh. Năm trăm Cấm quân bị giết sạch. Đại
Hãn bị trúng một viên đá váo đầu, một viên vào lưng, rồi được Thiết đột cứu chạy
thoát.
– Như vậy Đại Hãn chưa chết à ?
– Có thể Đại Hãn chưa chết. Có thể giờ này chết rồi cũng nên. Thôi mời đại
vương lên đường cho.
Xích Nhân Thiết Mộc Nhi uể oải lên ngựa, theo sau ngựa Thúy Hồng.
Đám kị binh Mông cổ hét lên:
– Đại vương bỏ rơi chúng tôi ư ?
– Ta không làm
khác được. Các người không bị giết đâu! Ta sẽ đem tù binh Tống đổi lấy các người.
Nói dưt y ra roi
cho ngựa phi theo Thúy Hồng.
Được vương phi Ý Ninh tha cho, bốn tướng A Mít Lỗ Tề, Đi Mi Trinh,
Kim Đại Hòa, Đại Hành lấy ngựa trở về Hợp châu.
Bốn tướng trở về thì ba đạo quân Mông cổ vây Điếu ngư đã thu quân. Trên
thành, binh Tống đang đi đi lại lại tuần hành.
Vừa
vào trong trại, thì một cung nga của Tuyên phi Thanh Liên chặn trước ngựa vẫy
bốn tướng dừng lại:
–
Tuyên phi sai tôi báo cho các tướng rằng phải trốn đi ngay, bằng không sẽ bị xử
lăng trì.
Đại
Hành biết cung nga này là người thân tín của Thanh Liên. Tử hỏi:
– Tình
hình ra sao?
– Sáng
nay, xa giá Hoàng hậu Hốt Đô Đài cùng Thái tử Ngọc Mộc Hốt Nhi, con trưởng Mông
Ca tới lúc Đại Hãn vừa xuất mã. Hồi trưa,
Đại Hãn cùng Ô Mã Nhi về tới nơi, người nằm gục trên lưng ngựa. Thái tử cùng
Cấm vệ đỡ Đại Hãn xuống, thì người hôn mê. Sau khi gỡ mũ, cũng như áo giáp ra,
quan Thái y tìm thấy mũ bằng bạc bị lõm vào, làm trấn thương sọ não; áo giáp
bạc thủng một lỗ làm xương sống bị vỡ .
Như vậy chứng tỏ Đại Hãn bị đá bắn trúng.
Thái
tử hỏi Ô Mã Nhi tại sao lại có thảm họa này. Ô Mã Nhi thuật rằng đoàn hộ tống
bị trúng phục binh. Cấm vệ bị giết hết. Trong năm tướng thì bốn không biết sống
chết ra sao. Riêng Ô Mã Nhi phá vòng vây cứu Đại Hãn, nhưng Đại Hãn bị một tướng
địch ném trúng người hai viên đá. May thay lúc đó đoàn Thiết đột tới kịp, phá vòng vây hộ tống Đại Hãn về Hợp
châu. Khi về qua thành Điếu ngư thì bị Lôi tiễn, máy bắn đá nã trúng ngựa của Đại
Hãn, Đại Hãn bị quật xuống đất. Thiết đột liều chết đem được Đại Hãn về.
Hoàng
hậu Hốt Đô Đài truyền trói Ô Mã Nhi lại, sẽ đem ra xẻo thịt vì không bảo vệ được
chúa tướng. Nếu bốn vị về, e cũng sẽ bị giết như Ô Mã Nhi.
Cung
nga tiếp:
–
Hoàng hậu gọi tên Đặng Văn hàng tướng Tống đến để giúp việc điều tra. Văn hỏi
tình chiến trận sáng nay ra sao?
Ô Mã
Nhi tâu rằng:
–
Không hiểu tại sao bên Tống biết được Đại Hãn
mặc áo giáp sắt bằng bạc khảm xà cừ, ánh nắng rọi vào phản chiếu ra, nên
bọn Lôi tiễn trên thành cứ nhắm nơi có tia sáng chiếu ra mà nã Lôi tiễn. Mặc dù
y đã đổi thế trận nhiều lần, quân Tống vẫn biết nơi Đại Hãn đứng, rồi nã Lôi
tiễn vào. Khi bị phục binh, Đại Hãn ẩn vào đám Cấm vệ, nhưng vì ánh sáng của xà
cừ chiếu ra, nên giặc biết vị trí Đại Hãn mà tấn công. LúcThiết đột giải vây cứu
Đại Hãn về qua thành Điếu ngư bọn trên thành cũng biết ngựa của Đại Hãn nên nã
Lôi tiễn, Đại Hãn mới bị ngã ngựa. Vết thương
trở thành trầm trọng.
Đặng Văn
đặt câu hỏi:
– Tại
sao Tống biết Đại Hãn mặc giáp khảm xà cừ? Trong khi có đến 5 Cấm vệ giả làm Đại
Hãn! Ai là người dâng áo giáp ấy cho Đại Hãn. Nhất định người dâng áo giáp là
gian tế của Tống.
Các
cung nữ đều khai rằng Tuyên phi là người dâng bộ giáp, mũ bạc cho Đại Hãn.
Đặng Văn
lại lý luận:
– Hôm
qua trong buổi hội quân, Đại Hãn không hề nói rằng sáng nay người đi Bồ lăng.
Khi người về soái lều, người mới nói cho 5 tướng cận vệ với Tuyên phi biết vụ
này. Việc điều động một hiệu binh từ Bồ
lăng tới Trường thảo ít ra phải 6 giờ. Vậy mà trưa nay Tống mai phục hơn
vạn quận tại Trường thảo sẵn. Thế thì
gian tế đã báo tin cho Tống. Hơn nữa bọn phục binh không phải là người Tống.
Chúng là người Việt. Vậy nhất định gian tế là Tuyên phi.
Tuyên
phi mắng Đặng Văn:
– Tên
sớm đầu tối đánh kia. Mi chỉ là một tên tướng hèn hạ, mà dám hoa ngôn, xảo ngữ
ngậm máu phun người. Từ khi ta theo hầu Đại Hãn, lúc nào ta cũng ở trong doanh
trại, không hề tiếp xúc với ai, ta lại không biết nói tiếng Hán thì sao ta có
thể là gian tế của Tống? Chính mi là người Tống cài vào đây để làm gian tế.
Đặng Văn
tâu với Hoàng hậu:
– Từ
khi thần từ Tống trở về, thần cực kỳ căm hận bọn Việt giả danh Hành sơn vương đem
quân giúp Tống, nên thần chú ý theo dõi mấy người Việt quanh Đại Hãn. Tuyên phi
Thanh Liên là người do Giao chỉ đưa sang làm gian tế. Cạnh phi còn tên Đại Hành.
Tên này rất nguy hiểm. Hơn hai tháng trước Giao chỉ đem sang ba thiếu nữ sắc nước
hương trời gả cho A Mít Lỗ Tề, Đi Mi Trinh, Kim Đại Hòa. Xin nương nương cho điều
tra rộng rãi thì ra ngay. Gần đây Tống phao rằng Hành sơn vương đem 5 vạn quân
cứu Ích châu. Sự thực cái người xưng là Hành Sơn vương tên Trần Nhật Duy, con
trưởng của vua Giao chỉ, tước phong Vũ Uy vương. Vũ Uy vương là một trong những
tướng tài trí nhất Giao chỉ. Hồi Ngột Lương
Hợp Thai mang quân đánh Giao chỉ, y là người đánh những
trận long trời lở đất, khiến tài trí như Ngột Lương Hợp Thai, A Truật,
Hoài Đô mà cũng phải thất bại. Nay y đem năm vạn quân Việt sang trợ Tống. Chính
y chỉ huy đánh cướp lương thảo ở Dân giang. Cũng chính vợ y đã đánh bại Ô Mã
Nhi ở Trường thảo.
Ô Mã
Nhi xen vào:
–
Trong trận đánh sáng nay thần nhận ra cái tên trước đây từ nóc điện Quang minh tại Yên kinh nhảy xuống cứu đồng bọn
là tên chỉ huy phục binh. Còn người đàn bà dùng kiếm đánh bại thần chính là vợ
tên con tin Giao chỉ Trần Nhật Duy. Vợ y tên Trần Ý Ninh.
Hoàng
hậu Hốt Đô Đài truyền trói Tuyên phi lại, đợi 4 tướng về sẽ cho điều tra. Người
sai Thị vệ đến nơi cư ngụ của bốn tướng, bắt ba mỹ nữ mà Đại Việt gửi sang. Nhưng
cả ba đã trốn mất.
Đi Mi Trinh than:
– Chúng ta là những người tâm phúc, thân tín nhất của Đại Hãn. Ta là em Hoàng hậu. Tuyên phi hỏi
vợ cho chúng ta, chỉ với mục đích khích lệ chúng ta trung thành với Đại Hãn. Thế
mà Hoàng hậu nghe lời tên hàng tướng không đáng giá bằng cục phân, nghi ngờ
chúng ta. Chúng ta phải gặp Hoàng hậu để biện luận về việc này. Nào anh em
chúng ta yết kiến Hoàng hậu.
Tuy năm đội Cấm vệ
theo hộ tống Mông ca bị giết sạch. Nhưng tại bản doanh vẫn còn 4 đội trừ bị của
Đại Hành, A Mít Lỗ Tề, Đi Mi Trinh, Kim Đại Hòa. Trước thế nguy, Đại Hành gọi đội
trừ bị của mình đến bao vây quanh soái lều của Mông Ca :
– Các người túc
trực bên ngoài. Bất cứ ai điều động cũng không được nghe theo. Chỉ tuân lệnh
một mình ta mà thôi.
Sau khi phối trí, Đại
Hành cùng ba tướng đến soái lều, hô lớn:
– Đi Mi Trinh, Hổ uy tướng quân,
– Kim Đại Hòa, Ưng phi tướng quân,
– A
Mit Lỗ Tề , Hùng uy tướng quân,
– Nguyễn Đại Hành lĩnh Phi mã tướng quân xin cầu kiến Hoàng hậu.
– Cho vào.
Bốn tướng quỳ gối. Đi Mi Trinh trần tình:
– Bọn thần hộ tống Đại Hãn đi Bồ lăng, bị trúng phục binh Tống. Bọn thần
đã dùng hết khả năng, ngặt vì sức người có hạn. Nên 500 Cấm quân bị hại. Chỉ
với 500 Cấm quân, năm anh em thần phải chống với hơn vạn người, nhưng cũng
không để Đại Hãn bị bắt, bị hại, mà thoát về đây.
– Cho các người bình thân.
Hoàng hậu nhắc lại những lời Đặng Văn đã buộc tội 5 người. A Mít Lỗ Tề
chỉ vào mặt Đặng Văn:
– Người là một tên hàng thần lơ láo, bị trúng mưu Vương Kiên, bị bắt làm tù
binh, làm mất 50 vạn hộc lương, với 5 vạn quân, 14 thành. Tội đáng xẻo thịt.
Còn chúng ta đây đã hai đời dầy công hãn mã, sống chết với ba đời Đại Hãn.
Chúng ta là những người thân tín nhất của Đại Hãn mà người dám dèm pha chúng ta
ư?
Y chỉ Đại Hành, Đi Mi Trinh, Kim Đại Hòa:
– Người dèm pha rằng Đại Hành là người Việt, nay quân Việt sang trợ
Tống, thì ắt Đại Hành trở giáo theo Việt ư. Lý luân như vậy là lý luận ngu
xuẩn. Thế thì ta cũng nói được rằng người là người Tống, người báo cho Tống
biết lộ trình của Đại Hãn, nên Đại Hãn bị trúng phục binh.
Y chỉ Tuyên phi Thanh Liên:
– Còn Tuyên phi đây là người đẹp như thiên tiên được Đại Hãn sủng ái; Tuyên phi là người làm
cho Đại Hãn vui lòng. Ai cũng biết Tuyên phi có tư cách mẫu nghi thiên hạ. Tính
tình thuần hậu, không ghanh tỵ, không xen vào việc của Đại Hãn. Tuyên phi thấy
chúng ta là người luôn bên cạnh Đại Hãn. Người có ba cô cháu từ Đại Việt sang,
người gả cho chúng ta, để kết tình cốt nhục, phải hết lòng trung với Đại Hãn.
Thế mà cái miệng rắn độc của người dám bảo Tuyên phi là gian tế Tống, báo cho Tống
biết lộ trình của Đại Hãn để Tống phục binh.
Y quay lại Thái tử Ngọc Mộc Hốt Nhi :
– Đại vương Hốt Tất Liệt cống
Tuyên phi cho Đại Hãn. Người cũng cống Lan Liên cho Thái tử. Vậy xin Thái tử
cho biết vương phi có làm gian tế cho Tống không?
Ngọc
Một Hốt Nhi lắc đầu:
– Từ
khi Lan Liên được phong chánh phi cho ta, nàng tỏ ra là người thuần hậu. Từ bếp
núc cho tới việc cai quản Thị vệ, cung nga, nàng đều hoàn thành đầy đủ, không
một chút khiếm khuyết. Quả thực nàng là người hiếm có trong thế gian. Ai độc miệng
nói nàng là gian tế cho Tống ta sẽ chặt đầy ngay.
Nói
dứt y rút kiếm đưa một nhát, dây trói Thanh Liên đứt hết. Tỏ ra bình tĩnh,
Thanh Liên nói với hoàng hậu:
– Nương
nương! Nương nương là người Nga la tư. Tiểu tỳ là người Việt mà được Đại Hãn
sủng ái thì tránh sao không bị điều ong tiếng ve. Trước mắt phải trị thương cho
Đại Hãn hơn là nghe lời bọn gian thần dèm pha.
Trong
khi Đi Mi Trinh tâu, thì Đại Hành dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai Thanh
Liên:
“Chị Thanh! Em là Đại Hành đây! Phàm trong chốn cung đình, giữa hoàng
hậu, thứ phi, hễ ai được sủng ái thì người đó có quyền. Chị được Đại Hãn sủng
ái nhất, hiện chị giữ Ngọc tỷ, lệnh phù, binh phù của người. Người đang hôn mê
thì chị nắm quyền. Tại sao chị để cho hoàng hậu trói? Bà ta đến Hợp châu chỉ co
100 vệ sĩ, đám này phải ở ngoài trại. Tại đây bà chỉ có Thái tử với hai Thị vệ.
Trong khi chị có bốn đứa thân tín, chỉ huy hơn nghìn cấm vệ. Chị hãy nói theo
em”.
Kiêu
khí con gái Trưng vương bừng bừng sống dậy, Thanh Liên nghe Đại Hành rót vào
tai. Nàng ban chỉ cho Kim Đại Hòa:
– Ưng
phi tướng quân!
– Thần
nghe chỉ dụ của Tuyên phi!
Nàng
chỉ Đặng Văn:
– Cái
tên phản phúc thất thường này, một đêm làm mất 14 thành, ba vạn binh, để giặc cướp
mất 50 vạn hộc gạo. Bây giờ hoa ngôn, xảo ngữ vu cáo cho bốn đại tướng quân là
những người thân tín nhất, trung thành nhất của Đại Hãn. Làm loạn lòng Cấm quân.
Trói ý lại.
Năm
Cấm quân trói Đặng Văn lại.
Phi
vẫn nghe Đại Hành rót vào tai. Phi ban chỉ:
– Đem
y ra chặt đầu để yên lòng chư tướng.
Đặng Văn
là một thiên tài võ học, có tài đại tướng, từng được Tống phong hầu, ban cho
tổng trấn Thành đô. Chỉ vì lòng dạ bất chính, phản Tống theo Mông cổ, rồi bị
chính tướng Mông cổ là Vũ Cao
San, Trần Mạnh Quốc lừa, bị vương phi Ý Ninh bắt. Được
trao đổi, trở về với Mông cổ, một lần nữa y lập công với Mông cổ, dò la tin tức
về vụ Việt viện Tống, vô tình y phạm vào một điều tối cấm kị là xen vào chốn
phòng the của vua chúa. Bây giờ y bị giết.
Khi bị
điệu ra khỏi lều, y quay lại tâu với hoàng hậu:
– Nương
nương! Thần nhất tâm trung thành với Đại hãn, mà bây giờ thần bị một con điếm
Giao chỉ giết. Xin nương nương cứu thần.
Y nói đến
đó thì Cấm quân đã đẩy ra xa. Lát sau cấm quân đem đầu y vào trình với Thanh
Liên.
Từ hồi
Thanh Liên tới Hoa lâm, nàng hết sức chiều chuộng hoàng hậu. Vừa rồi trong lúc
thấy Đại Hãn bị thương nặng, nghe lời dèm của Đặng Văn, hậu sai Thị vệ trói
Thanh Liên. Sau đó hậu có hơi hối hận. Bây giờ Thanh Liên có 4 đại tướng tâm
phúc chỉ huy Cấm quân, nàng xử tử hình tên hàng tướng. Hậu có hơi ớn: nếu Thanh
Liên trả thù thì e hậu với thái tử khó toàn mạng. Bà phát run ngồi im!
Thái
tử Ngọc Mộc Hốt Nhi họp với bộ tham mưu, Mục Tương Ca, thêm Mật Lý Hỏa Giả từ
mặt trận Ba trung, được tin Mông Ca bị thương nặng vội trở về. Bộ tham mưu lo
lắng vì không được tin tức gì của Xích Nhân Thiết Mộc Nhi và đạo quân đánh Bồ lăng.
Lập tức phái thám mã đi Bồ lăng thăm dò tin tức.
Giữa lúc đó thì Xích Nhân Thiết Mộc Nhi, y giáp xác xơ, người bơ phờ,
cỡi một chiến mã bị thương về tới. Vệ sĩ chạy ra đỡ ông ta xuống ngựa thì ông
ta ngất đi.
Thanh
Liên được Hốt Tất Liệt đưa về Hoa lâm cống cho triều đình Mông cổ, Xích Nhân
Thiết Mộc Nhi là người được Mông Ca tín dụng. Y luôn được Mông Ca gọi sang lều để
bàn quốc sự. Thanh Liên thường sai làm các món ăn Việt, đãi y. Vì vậy phi thân
với y. Nghe tin y về, phi sang lều hỏi thăm chi tiết vụ Mông Ca bị phục binh. Y
thuật lại trận đánh Bồ lăng, trận phục kích Trường thảo. Cuối cùng y nói sẽ:
“ Phi ơi! Cả hai đạo quân thiện chiến đều là quân Việt
do tướng Việt chỉ huy. Tôi bị bắt làm tù binh, thì được một thiếu phụ mủi lòng
ban cho một ngựa rồi an ủi:
– Thôi vương gia về thôi.
Trong khi bị bắt tôi nghe binh sĩ nói truyện thì biết
nữ tướng đó là vương phi Vũ Uy vương. Còn tướng chỉ huy phục binh tên Dã Tượng.
Tướng trấn thủ Bồ lăng tên Yết Kiêu.
Thanh Liên chửi thầm:
– Tên Đặng Văn nói đúng. Thì ra quân Việt viện Tống.
Vũ Uy vương, vương phi, Dã Tượng, Yết Kiêu đều có mặt. Nếu bị tra vấn, ta chỉ
có thể nói: ta là một cô gái chỉ biết ca
hát. Việc quốc sự ta nào biết gì. Huống hồ ta xa nước từ lâu. Việc Việt viện Tống
chỉ mới xẩy ra”.
Ngự y
của Mông Ca là người Tây vực. Thuốc trị thương của Tây vực rất thần hiệu, ba
ngày sau thì Mông Ca tỉnh dậy. Câu đầu tiên y gọi:
–
Tuyên phi ơi! Ta đau quá.
Tuyên
phi Thanh Liên ngồi chầu hầu bên cạnh:
–
Thiếp đây!
– Ta
chưa chết ư?
– Đại
Hãn phúc tầy trời ! Đại Hãn sẽ sống đến vạn năm. Đại Hãn ơi, có chánh cung
nương nương với Thái tử từ Hoa lâm tới vấn an Đại Hãn đấy.
Trong
khi Hoàng hậu, Thái tử vấn an Đại Hãn thì trong lòng Thanh Liên nổi lên một cơn
bão táp :
«
Ta là một cô gái thôn quê. Nhờ trời cho tấm nhan sắc hiếm có, mà trở thành ca
nhi nức tiếng Đại Việt. Trong cuộc tuyển phu, ta trở thành phu nhân của Tham
tri Lễ bộ Chu
Bác Lãm. Sắc đẹp, vẻ quyên rũ của ta, e
rằng trong thếâ gian khó ai bì kịp. Nhưng chồng ta là một nho gia, lúc nào cũng
giữ vẻ đường đường quân tử. Ta tuy được sủng ái, nhưng vẫn thấy không nồng nàn.
Cuộc sống thiếu thiếu một cái gì.
Mông
cổ nhập Việt, bọn võ phu thô lỗ Ngột Lương Hợp
Thai, rồi A Truật, rồi Hoài Đô thay nhau mua vui trên thân xác ta. Ta gần chúng
mà không có một chút tình cảm.
Vận
nước đưa đến ta bị đem cống sang Mông cổ. Ta được Đại Hãn Mông Ca sủng ái,
phong cho tước Tuyên phi. Ta trở thành người đàn bà ngồi thứ nhì thiên hạ, chỉ
thua có hoàng hậu Hốt Đô Hải. Suốt ba năm
qua, Đại Hãn có không biết bao nhiêu phi tần mà người bỏ rơi hết, chỉ biết có
ta. Ta chiều chuộng người, yêu thương người hết lòng. Tình yêu này ta không hề
cho Chu Bác Lãm,
hay bọn thô lỗ Ngột Lương
Hợp Thai.
Hồi
ở Văn sơn, ta được dạy thuật chăn gối sao cho người tình đạt được tuyệt đỉnh Vu
sơn. Ta thực hành dâng cho Đại Hãn hết. Những thuật đó ta chưa từng cho Chu Bác Lãm,
lại càng không cho bọn Ngột Lương
Hợp Thai, Hoài Đô, A Truật. Đại Hãn
Đông chinh, người chỉ mang mình ta theo. Dù chinh chiến, trận mạc mệt mỏi, nhưng
khi về với ta, người như một con nai tơ, để ta dẫn đi. Người không còn là một Đại
Hãn uy quyền nghiêng trời lệch đất nữa, người như một gã thiếu niên si tình.
Hôm
qua đây tuân chỉ Vũ Uy vương ta dùng thuật bắt nai, làm cho Đại Hãn say mê, rồi
dẫn dụ người mặc bộ giáp bạc mà triều đình chế tạo. Ta cũng đoán rằng bộ khôi
giáp đó mục đích để Lôi tiễn, máy bắn đá giết Đại Hãn. Vì yêu ta, Đại Hãn mặc
bộ áo giáp đó mà bây giờ không biết sống chết ra sao ?
Ở
quê nhà, triều đình dã phong tước Quận chúa cho ta, hàm Tam tư cho cha ta, tước
Ngũ phẩm phu nhân cho mẹ ta. Triều đình cũng cấp cho cha mẹ ta 15 mẫu công điền
không phải nộp thuế. Sau vụ này thế nào
triều đình cũng phong cho ta tước Công chúa, cha mẹ ta tước hầu. Nhưng những
chức tước đó chỉ bằng hạt vừng hạt đậu so với tước Tuyên phi của Thiên quốc Mông
cổ.
Trước
khi Đại Hãn ra trận ta đã đoán biết ý định của Vũ Uy vương. Ta muốn cản Đại
Hãn, mà vì lòng yêu nước ta không làm. Ví thử ta ngăn cản Đại Hãn thì Đại Hãn
không đến nỗi như thế này. Nhưng ta nhẫn tâm để Đại Hãn đi vào đường chết. Nhưng
nếu để Đại Hãn thắng Tống, thì Đại Việt của ta không yên. Vì vậy ta phải làm.
Triều đình Đại Việt gửi ta sang đây đâu phải để ta tìm thanh phúc bên Đại Hãn,
mà sẵn sàng thi hành lệnh của triều đình. Ôi ! Cái hy sinh này quá lớn.
Bây
giờ Mông Ca dở sống, dở chết. Nếu Mông Ca băng thì chắc chắn hai ông em Hốt
Tất Liệt, A Lý Bất Ca sẽ tranh dành ngôi Đại Hãn, nội chiến diễn ra thảm khốc
vô cùng. Nhẹ thì Mông cổ sẽ cắt làm 5, 6 nước. Dù ai thắng, ai bại thì ngôi vị Thiên
triều Mông cổ sẽ không còn. Nhờ vậy mà Đại Việt được yên. Ta đã báo hiếu cho Đại
Việt đầy đủ. Ta hy sinh hạnh phúc của mình cho Đại Việt. Nhưng còn Mông
Ca ? Ta đã giết Mông Ca, ta đã giết người tình, ta đã hại Mông cổ.
Với
phong tục Mông cổ, thì khi Đại Hãn băng, trừ chánh phi, còn lại các thứ phi,
cung nga, sẽ chia cho các con, cho các thân vương, cho các tướng. Với nhan sắc
của ta nhất định ta sẽ vào tay một tên thô lỗ nào đó! Không ! Nhất định
không, ta sẽ chết để tạ lòng Đại Hãn ».
Phi nhìn Mông Ca, nằm sấp, vì xương sống
bị vỡ, vì sọ bị tổn thương. Nước mắt phi dàn dụa. Mông Ca rên lên :
– Tuyên phi ơi ! Nàng ở đâu ?
Phi nói se sẽ :
– Thiếp luôn ở cạnh Đại Hãn. Ước gì thiếp
có thể thay Đại Hãn chịu cái đau đớn này, thì thiếp cũng cam tâm.
– Ta muốn phi phải luôn ở cạnh ta.
Đến đó Mông Ca thiếp đi, trầm vào cơn mê
loạn. Một lát y tỉnh dậy, gọi hoàng hậu Hốt Đô Đài, Thái tử Ngọc Mộc Hốt Nhi,
Tuyên phi Thanh Liên lại bên giường :
– Một đời Thái tổ
Thành Cát Tư Hãn xông pha trận mạc, lập thành nước Mông cổ. Phụ thân Đà Lôi
từng chinh chiến khắp Đông Tây. Vì vậy khi ta lên ngôi, phải theo gương các người
mà xông pha trận mạc. Chẳng may ta trúng phục binh, bị thương nặng. Bây giờ ta
biết mình không còn sống được nữa. Ta để di chiếu lại : Người kế vị ta là
A Lý Bất Ca, mà ta đã trao quyền, khi thân chinh. Hai con ta Cáp Thiết Sáp Nhi,
Ngọc Mộc Hốt Nhi, còn quá trẻ không thể
thay ta được. Ta biết, Hốt Tất Liệt vốn gian manh, từng muốn khuynh đảo, chiếm
ngôi Đại Hãn. Y muốn dùng Hán pháp thay thế những gì đức Thái tổ, Thái tông đã
kiến tạo. Bây giờ ta chết, y cầm quân nghiêng nước ắt sẽ tranh ngôi với A
Lý Bất Ca. Y thành công thì chỉ cần 50 năm, người Mông cổ sẽ thành người Hán. Nước
Mông cổ sẽ không còn nữa, mà là chư hầu của Hán. Vậy hoàng hậu, tuyên phi với
hài nhi phải đem di chiếu của ta công bố, để cho A Lý Bất Ca có chính nghĩa.
Mông Ca cầm tay Thanh Liên :
– Tiếc quá! Phi với ta bén duyên không lâu. Bây giờ ta không còn ở cạnh
phi nữa. Ta biết khi ta băng, sẽ có người bới lông tìm vết hại phi. Vậy Cáp
Thiết Sáp Nhi, Ngọc Mộc Hốt Nhi phải bảo vệ phi bằng mọi giá.
– Này phi!
– Dạ!
– Phi giữ tất cả lệnh phù, binh phù, Ngọc tỷ. Khi ta chết rồi, phi nắm
lấy quyền, quyết định mọi sự cho đến khi A Lý Bất Ca lên thay. Nhớ nhé.
Thanh Liên khóc:
– Đại
Hãn, Đại Hãn băng rồi Thanh Liên nguyện lên hỏa đài, để sang thế giới bên kia
với Đại Hãn.
Mông
Ca mỉm cười rồi nhắm mắt lại, thều thào:
– Như
vậy ta có chết, cũng không tiếc.
Rồi
Mông Ca nhắm mắt lại.
Mọi người
gọi:
– Đại
Hãn! Đại Hãn.
Một bạo chúa, một
đại hung thần, một ác quỷ đã ra đi. Một
kỷ nguyên mới sắp tới: kỷ nguyên Hốt Tất Liệt, chinh chiến khủng khiếp giáng
xuống Cao ly, Tây hạ, Thổ phồn, Hồi cương, Nhật bản, Đại Việt, Chiêm thành.
NS quyển 3, bản
kỷ 3 trg 43-54 chép: Mông Ca sinh ngày 3 tháng 12, năm Mậu Thìn. Băng năm Kỷ
Mùi ngày Quý Hợi, tháng 7. Thụy Tuyên Túc hoàng đế. Miếu hiệu Hiến Tông. Hưởng
dương 52 tuổi.
Kể từ đây thay vì
dùng tên Mông Ca, chúng tôi dùng miếu hiệu hay thụy hiệu.
Dã Tượng với hiệu binh
Văn Bắc do thủy quân đưa về tới Hợp châu
mang theo đoàn tù binh dài vô tận. Vũ Uy vương ra lệnh sai hiệu binh đóng
ở bên kia sông, làm thế ỷ dốc. Sau khi an dinh, hạ trại xong, vương phi dẫn Dã
Tượng, Thúy Hồng vào thành. Vũ Uy vương, Vương Kiên cùng chư tướng nghe Dã Tượng tường trình về cuộc phục
kích, giết gần trọn đạo Cấm quân tại Trường
thảo, rồi chặn đánh tàn binh của Xích Nhân Thiết Mộc Nhi.
Phi hỏi :
– Tình hình Điếu ngư ra sao ? Thông thường để cho
quân không mệt mỏi, khi Mông cổ vây thành chúng chia lực lượng làm ba đạo. Mỗi đạo
công thành nửa ngày rồi nghỉ. Sao hôm nay chúng lại rút về sớm như vậy ?
Nguyễn Văn Lập
thuật :
– Sáng hôm qua chúng công thành vào giờ Mão, giữa lúc đó
50 xe chở chất nổ phá thành bị nổ, do Đại đởm của ta gây ra. Quân sĩ chết khộng
biết bao nhiêu mà kể. Chúng dùng bộ binh leo lên thành, thất bại. Chúng rút
lui, nghỉ ngơi rồi cho đánh thành đợt nhì. Giữa lúc đó thì kị binh bị ngấm
thuốc độc, nằm ẹp xuống, miệng chảy nước dãi. Trong khi Lôi tiễn trên thành vẫn
nã xuống. Vì vậy tướng chỉ huy công
thành là Mục Tương Ca ra lệnh thu quân. Khi quân rút đi khoảng hơn giờ thì một
Thiên phu thiết đột phi như bay về phía Trường thảo. Dường như chúng được tin
Mông Ca bị trúng phục binh.
Vương phi gật đầu :
– Đoàn hộ tống Mông Ca trúng phục binh. Chúng tôi đang
giao chiến với chúng thì Thiết đột tiếp viện tới.
Dã Tượng băn khoăn :
– Khi dàn phục binh, thần đã cẩn thận cho một Vệ quân khóa
chốt ở hai đầu, phòng chúng thoát chạy cầu viện. Nhưng có một điều thần không được
Tế tác Tống cho biết rằng : mỗi khi đi đâu, Mông Ca đều cho ba thập phu đi
sau 5 dặm, 10 dặm, 15 dặm. Hễ thấy tiền quân bị trúng phục binh hay gặp nguy
hiểm thì có thể chạy về cầu cứu. Vì vậy trong khi thần yên tâm diệt đám Cấm
quân thì phía sau, ba thập phu này chạy về báo động. Cho nên chúng gửi một
Thiên phu Thiết đột tiếp viện, cuộc chiến mới thảm khốc.
Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét