HỒI THỨ MỘT TRĂM LẺ BẨY
Trận Hàm tử giết tươi Toa Đô
(Bình Ngô đại cáo)
Đến đó Lý Quán vào
trình:
– Thần tiếp nhận thương binh. Tất cả 13.215 người. Thần đã
chuyển tới trại điều trị. Binh sĩ từ Trường
yên, Tây kết, Chương dương chạy về gồm 35.200, tất cả đều mất giáp, trụ, vũ khí.
Như vậy sau 3 trận Trường yên, Tây kết, Chương dương mình có gần 5 vạn người bị
loại ra khỏi vòng chiến.
Tế tác báo:
– Đạo quân Toa Đô đang bị khốn ở Thanh hóa.
A Lý Hải Nha lệnh cho Ô Mã Nhi:
– Trong lúc chiến thắng, bọn Việt không đề phòng.Tướng quân
đem 1 nghìn 3 trăm quân Thiết đột dùng thuyền vào giải vây cho Toa Đô. Sau khi
thoát vòng vây thì tiến ra đây, cùng truy tìm bọn Trần Huyên.
Nhìn đoàn thương binh được khiêng vào trại, A Lý Hải Nha
la lên:
– Chết rồi, ta bị trúng độc kế của bọn Man Việt rồi!
Chư tướng kinh ngạc:
– Trúng độc kế?!?!?!
– Trong suốt ba trận, binh tướng Nam Man đều hô lớn bằng
tiếng Mông cổ, tiếng Hán: quẳng vũ khí sẽ
được tha chết. Quả nhiên người nào quẳng vũ khí thì chúng tha không chém giết.
Khi quân ta chạy ra phù kiều, chúng cũng hô như vậy. Bây giờ ta có tới hơn ba
vạn quân không còn giáp trụ, không còn vũ khí, nếu chúng đến tấn công thì tay
không đánh đâu lại chúng? Chúng lại giả nhân, giả nghĩa đem trao trả thương
binh cho ta. Bây giờ ta có rút quân cũng phải
để ra 6 vạn người tải thương. Thực là thâm độc cùng cực.
Vừa lúc đó thì em ruột của Thoát Hoan là Vân nam vương Hốt Khê Xích, mới từ Vân nam, chuyên chở lương đến cho đạo binh của Nạp Tốc
Lạt Đình . Y than với Thoát Hoan:
– Em mới được tin đại ca thắng như chẻ tre, nên đem lương
thực tiếp tế. Em phải hy sinh hơn 3 nghìn kị binh, mới mở được vòng vây đến đây.
Không ngờ các căn cứ Thăng long, Tây kết, Đông bộ đầu, Chương dương bị phá.
Thoát Hoan đóng quân ở Kinh bắc suốt mười ngày, vô kế khả
thi. Hằng ngày vẫn có quân bị thất lạc kéo về trình diện. Lương thực hết sạch,
phải nhờ Trần Ích Tắc sai gian quan đi thu của dân. Trần Ích Tắc kinh ngạc khi
thấy dân vui vẻ cung ứng trâu, bò, lợn, gà, vịt, gạo, ngô, khoai, sắn, cá khô,
mực khô, tôm khô đầy đủ.
Được nửa ngày thì quân báo với A Lý Hải Nha:
– Toàn thể binh tướng đều bị tiêu chảy. Giống hệt quân ở Tây
kết, Chương dương, Thăng long. Nếu giặc tới thì không còn sức chống. Quân y sĩ
nói: tiêu chảy không do dịch, không do thời khí, mà do trúng độc thực phẩm.
Quân y sĩ cho biết, độc từ gạo, ngô, khoai, sắn do quân của An Nam quốc vương
cung cấp. Y sĩ đã đưa ra cách giải độc: thuốc độc này bọn Man Việt đã trộn với gạo.
Muốn giải độc chỉ việc vo gạo thực kỹ thì không sợ gì nữa.
A Lý Hải Nha ban lệnh:
– Vụ gạo bị tẩm độc, không được phổ biến. Mình cứ giả như
không biết để chúng tiếp tục cung cấp. Như vậy mình mới có lương ăn. Nếu chúng
biết mình khám phá ra, chúng sẽ đổi thuốc thì nguy!
Tế tác của đao quân Vân nam báo với Hốt Khê Xích:
– Quân Man Việt đóng chặn các ải Phù lỗ, Cụ bản, Bình lệ
nguyên. Đường về Vân nam không còn.
Tế tác của đạo trung quân báo:
– Đường từ Kinh Bắc về Tư minh bị khóa chặt vô cùng, 4 hiệu
binh đóng tại Kiếp bạc. Một hiệu tại Nội bàng, một hiệu tại Chi lăng. Một hiệu
tại Khâu ôn, Khâu cấp. Một hiệu tại Khả lan vi, Đại trợ. Hai hiệu Hàm tử, Tứ thần thì chặn ngay ở bắc sông Như nguyệt
do đích thân Hưng Đạo vương, Hưng Ninh vương chỉ huy. Ở phía nam, Toa Đô, Ô Mã Nhi đã phá vòng vây nhưng
không được. Cả hai đang dùng thuyền vượt biển vào sông Hồng đang tiến đến đây.
Thân vương Hốt Khê Xích bàn:
– Tình thế này, ta đánh thì không còn lương, vũ khí
thiếu, lam chướng gây bệnh, muỗi, đỉa hành hạ, thần trí binh tướng mất hết; chi
bằng ta rút binh, chỉnh đốn lại những vạn phu bị tổn thất, rồi sẽ sang trả thù
sau.
Các tướng đều tán thành.
Thoát Hoan than:
– Thôi thì đành vậy. Ta chuẩn bị. Hai ngày nữa, rút quân.
A Lý Hải Nha họp chư tướng ban lệnh:
– Đạo binh Vân nam rút theo đường tiến quân. Phải cẩn thận
khi qua Cụ bản, Phù lỗ, Bình lệ nguyên. Tối đề phòng truy binh. Đại vương Hốt Khê Xích và tướng Nạp Tốc Lạt Đình chỉ huy cánh quân này.
Nạp Tốc Lạt Đình đề nghị:
– Cuộc chiến khủng khiếp vừa qua, cánh quân Vân Nam không
bị tấn công, tinh lực còn nguyên. Chúng tôi xin rút ngay sáng mai.
– Được.
– Còn lại thì chia làm bốn cánh rút lui.
– Cánh thứ nhất, đại vương Giảo Kỳ với các tướng Lý Quán, Đường Ngột Đải chỉ huy 4 vạn phu đóng ở Kiếp
bạc đem theo thương binh, đi đầu.
– Cánh thứ nhì Hữu thừa Khoan Triệt với các tướng Mang Cổ
Đái, Bôn Kha Đa, Nạp Hải, Tôn Lâm Đức, chỉ huy 4 vạn phu đóng ở bắc Như nguyệt
rút thứ nhì.
– Cánh thứ ba, binh bộ thị lang Diệc Hắc Mê Thất với các tướng
Bột La Cách Đáp Nhĩ, Kiết Tiết Tán Lược Nhi, Lý Bang Hiến chỉ huy 4 vạn phu đóng ở Kinh bắc rút thứ ba. Trấn
Nam vương, với bộ tham mưu; An Nam quốc vương với các hàng tướng Việt đi theo đạo
binh này.
– Bốn vạn phu thiện chiến, chưa bị tổn thất sẽ do Lý Hằng,
Lưu Thế Anh là cánh thứ tư, cản hậu, rút sau cùng.
Lệnh rút quân ban ra. Toàn quân thu góp chiến cụ, vũ khí,
để sáng hôm sau lên đường sớm.
Ngọc Trí, Ngọc Cách, Ngọc Quốc cũng ra lệnh cho tỳ nữ thu
xếp hành trang. Ba nàng bàn với nhau, làm sao báo tin này cho triều đình, để
truy diệt chúng? Ngọc Cách lấy giấy viết, tóm lược những gì Thoát Hoan định
làm, nàng ra sau lều tìm chim ưng gửi đi. Nhưng sợ bọn Trần Ích Tắc thấy chim ưng
bay lượn trên trời, rồi rình xem ai xử dụng thì nguy. Ngay lúc đó một nữ binh đóng
vai tỳ nữ của nàng tên Huệ trình:
– Thưa phu nhân hiện gạo của chúng ta do quân cấp. Mà gạo
này của Trần Ích Tắc nộp, e có trộn thuốc độc.
Đường Ngột Đải trao cho nó một cái thẻ bài:
– Tất cả thực phẩm của bọn gian vương đều không nên dùng.
Người ra chợ đong gạo, mua thực phẩm của dân đem về đây.
Con Huệ vừa rời doanh trại, ra cái chợ gần đó, thì nó thấy
một người đàn bà gánh gạo đang nghỉ bên đường. Bà ta đon đả:
– Cô ơi! gạo tám thơm, mời cô mua cho.
– Một đấu bao nhiêu tiền?
– Một đồng 2 đấu! Hai đồng một đấu.
Thấy lối trả lời rõ ràng là ký hiệu của Khu mật viện, Huệ
mở to mắt nhìn bà ta, thấy trên chiếc khăn vuông có gài miếng vải vàng. Biết là
người của Khu mật viện. Nhìn trước, nhìn sau không có ai, Huệ dơ ngón tay chỏ
giật giật mấy cái ra hiệu, hàm của mình là vệ úy (# đại úy ngày nay), rồi vờ
hỏi:
– Gạo có độc không?
– Không!
Huệ trao chiếc ống bạc đựng thư cho bà bán gạo dặn:
– Tin khẩn cấp nghe.
Rồi hỏi:
– Gánh gạo này ước bao nhiêu đấu?
– Hai chục.
– Em trả chị 20 đồng. Thôi em vào trại đây.
Huệ mua thêm ba con gà, mấy con cá nữa rồi về trại.
Bữa cơm chiều hôm đó, Đường Ngột Đải ăn chung với Lý Hằng. Ngọc Quốc,
Ngọc Cách được dịp họp chợ với nhau bằng tiếng Việt, hai ông chồng ngơ ngơ,
ngác ngác nhìn nhau.
Lý Hằng có tất cả 10 vợ, thì 5 là người Hoa, 2 là người Tây vực, 2 là người
Thảo nguyên. Nhưng y sủng ái Ngọc Quốc nhất,
vì nàng được đào tạo bản lĩnh bắt nai tinh vi mà y không biết. Còn những cô gái
kia, chỉ biết vâng, dạ, hầu hạ. Trong cuộc nam xâm, y chỉ mang mình Ngọc Quốc
theo mà thôi. Qua trận chiến kinh thiên động địa ở Tây kết, Chương dương, Đông
bộ đầu, Thăng long; vốn thông minh tuyệt đỉnh, y thấy Ngọc Trí cứu Thoát Hoan;
Ngọc Cách cứu Đường Ngột Đải; Ngọc Quốc cứu y. Y ngạc nhiên khi cả ba nàng cùng
cầm cờ xanh phất lên thì quân Việt không bắn tên, không chém giết. Trong lòng y
nảy ra những nghi vấn:
– Có thể đây là ký hiệu để binh, tướng
Việt biết người nhà mà không xuống tay.
– Có thể đúng như Ích Tắc, Di Ái tố
cáo ba nàng làm gian tế cho An Nam, nên An Nam ra lệnh cho binh tướng không được
bắn giết các nàng.
Y nhủ thầm:
– Dù đúng, dù sai, trong cuộc rút
quân này, biết bao nhiêu nguy nan đang chờ ta ở dọc đường. Ta cứ theo sát Ngọc
Quốc, thì không sợ bọn An Nam bắn giết.
Sau bữa ăn, y gặp riêng Thoát Hoan,
A Lý Hải Nha, Đường Ngột Đải bàn về vụ này. Thoát Hoan cũng đã nghi ngờ như Lý
Hằng. Y ban chỉ:
– Nếu như ba nàng làm gian tế cho
An Nam, thì có thể do chúng ta đối xử tử tế với các nàng, nên các nàng nghĩ đến
tình nghĩa vợ chồng mà cứu chúng ta. Vậy dù có, dù không, chúng ta cứ tin người,
ắt các nàng thiên về chúng ta hơn là An Nam.
Lý Hằng bàn:
– Ngày mai mình rút quân, thế nào
cũng bị An Nam phục binh đánh. Cả ba chúng ta đều đem các nàng sát bên cạnh, ta
cũng mang theo cờ xanh, bọn binh tướng Việt thấy mình phất cờ xanh thì không
tấn công!
Cả ba im lặng không hở môi cho vợ
biết. Chúng nào có biết ký hiệu phất cờ của các nàng là:
1 lần chĩa về
trước,
1 lần phất lên
1 lần phất xuống,
1 lần phất phải,
1 lần phất trái,
3 lần quay
tròn.
Còn như phất không đúng thì là kẻ thù, đã giết, tra
khảo các nàng, rồi giả xưng. Phải giết chết.
Sáng hôm sau, Thoát Hoan cỡi ngựa đi cạnh xe của Ngọc Trí. Y định bỏ cái
ống đồng ô nhục, nhưng từng cứu mạng y lại. Trần Ích Tắc nghĩ thầm:
– Thoát Hoan rút quân về thì mình hy
vọng gì làm vua Đại Việt? Mình phải khích y, để y còn mang quân sang nữa mới được.
Nghĩ vậy y can:
– Vương gia! Vương gia nói rằng mình rút quân về để chỉnh bị binh mã rồi
sang báo thù. Thế thì nên đem cái ống đồng này theo. Đợi một năm, hai năm, vương
gia sẽ sang báo thù, mình còn dựng lại cột đồng chứ?
Thoát Hoan thấy Ich Tắc có lý, y ra lệnh cho đem cỗ xe 4 ngựa kéo cái ống
đồng khổng lồ theo sau.
Ngọc Trí thực tế hơn:
– Phải đấy, đường rút quân phải qua nhiều nơi nguy hiểm. Lỡ ra gặp bọn Dã
Tượng, Quốc Toản, Quốc Kiện ném đá. Bọn Địa Lô, Phạm Ngũ Lão bắn tên còn có chỗ
ẩn thân.
Vừa lúc đó tin báo:
– Cánh quân Vân nam rút qua Phù lỗ thì gặp truy binh của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật. Đó là hiệu binh Văn Thiên Tường do hai
cựu tướng Tống là Triệu Nhất, Triệu Trung chỉ huy. Hơn ha nghìn quân bị giết bị
bắt. Rồi khi quân tới Cụ bản lại bị
truy binh của hiệu Thiệu Hưng, do Triệu Hòa, chỉ huy. Hơn 3 nghìn quân bị đánh
cắt hậu, bỏ vũ khí xin hàng. Khi tới Thảo lâm thì bị hai tên Hà Đặc, Hà Chương
thống lĩnh hiệu binh Trung thánh dực, chặn đánh phía trước.
Thoát Hoan ngơ ngác:
– Hiệu binh này trước
kia do Văn chiêu hầu Trần Văn Lộng thống
lĩnh. Lộng hàng ta. Sao bây giờ thống lĩnh lại là Hà Đặc, Hà Chương?
Trần Ích Tắc nhắc:
– Lộng hàng ta, nhưng
binh tướng không theo y. Nạp Tốc Lạt Đình không đề
phòng, cho quân hiệu Trung thánh dực đóng chung với quân Vân nam trấn thủ các đồn
từ biên giới tới Kinh bắc. Vì vậy khi Trần Nhật Duật đánh các ải Thảo lâm, Phù
lỗ, Cụ bản, Bình lệ nguyên, bọn Việt trở dáo, thành ra các căn cứ trên thất
thủ. Khi Trần Văn Lộng hàng ta thì Trần Nhật Duật bổ nhiệm anh em Hà Đặc, Hà Chương thay thế Trần Văn Lộng.
– Thế
sao vương không cho ta biết? Lý lịch anh em họ Hà ra sao?
– So với
Lộng thì kiến thức, học thức của anh em họ Hà thua xa. Nhưng hai tên này do Vũ
Uy vương đào tạo, do Nhân Huệ vương dạy Binh thư yếu lược, Vạn kiếp tông bí
truyền thư, nên về phương diện xung phong hãm trận, chúng giỏi vô cùng. Thứ nữa
2 tên này can đảm, lỳ lợm. Dù mình đánh thế nào chúng cũng không lui, sẵn sàng
thí mạng cùi chứ không chịu hàng.
Lát sau
quân báo:
– Theo đúng
kế hoạch của Nhật Duật, thì anh em họ Hà chặn đường đánh cầm chừng, chờ bọn
Triệu Trung tới đánh vào hậu quân Vân nam. Nhưng bọn họ Hà hung hãn quá, mà
quân Triệu Trung chưa tới, nên Hà Đặc bị trúng tên tử thương. Hà Chương bị bắt.
Tuy chúa tướng bị bắt, bị giết, nhưng Vệ Đại đởm của hiệu Trung thánh dực nhập
trại ta, cứu Hà Chương ra. Chúng lại ăn trộm được y phục vũ khí của ta, rồi cho
hơn 3 trăm quân đột nhập vào trại ta chém giết. Giữa lúc đó hiệu binh Văn Thiên
Tường, Thiệu Hưng tới. Quân ta bị đánh tan tác, binh tướng mạnh ai nấy chạy về
Vân Nam.
Thoát
Hoan nhìn A Lý Hải Nha:
– Cơ
chừng này chúng ta khó mang thân về nước được.
A Lý Hải
Nha lệnh cho quân lên đường. Lịch kịch mãi sang giờ thân (15-17 giờ) mới tới Hà
bắc. Viên tướng Lý Bang Hiến đi đầu trình với A Lý Hải Nha:
– Phía
trước là sông Như nguyệt, có bốn cầu phao do cánh thứ ba bắc. Vậy ta nên vượt
sông, hay qua đêm tại đây?
– Chia
lực lượng làm 2, một nửa đóng phía bắc, một nửa đóng phía nam của sông Như
nguyệt. Cắt cử mỗi mố cầu 1 bách phu gác. Cánh phía nam 2 vạn quân do Diệc Hắc Mê
Thất với tướng Bột La Cách Đáp Nhĩ chỉ
huy. Cánh phía bắc 2 vạn quan do Kiết Tiết Tán Lược
Nhi, Lý Bang Hiến chỉ huy. Bộ tham mưu đóng phía bắc. An Nam quốc vương và tùy
tùng đóng phía nam.
Quân sĩ
bắt đầu nấu ăn chiều. Đến đó quân báo:
– Cánh thứ nhất,
do đại vương
Giảo Kỳ với các tướng Lý Quán, Đường Ngột Đải
chỉ huy 4 vạn phu đóng ở Kiếp bạc đem theo thương binh đi đầu. Khi qua Nội
bàng, không gặp quân địch. Khi tới Chi lăng thì gặp quân Việt chặn đánh phía
sau, cắt 3 nghìn người. Đám 3 nghìn này bị An Nam cầm tù. Đại tướng quân Lý
Quán bị vợ của Dã Tượng chặn đường. Hai người đấu với nhau, Lý Quán bị Thúy
Hồng giết chết. Hữu thừa Đường Ngột Đải đấu với Dã Tượng bị bại. Dã Tượng đuổi
theo, may nhờ phu nhân của Đường Ngột Đải chặn hậu, xin với Dã Tượng, Đường
Ngột Đải mới thoát nạn. Đại vương Giảo Kỳ đi đầu không cứu đoạn hậu quân, thúc
tiền quân tiến mau. Khi tới Khả lan vi, quân Việt trong ải đánh trống khua
chiêng, nhưng không xuất trại tấn công. Vì vậy tất cả thương binh đều về tới Tư
minh. Trong 4 vạn quân rút lui, bị bắt, bị chết hơn 1 vạn.
A Lý Hải Nha hỏi:
– Không biết tướng nào tổng chỉ huy cuộc truy đuổi này? Tài
dùng binh của y quá cao. Y vận động các hiệu binh nhanh, gọn gàng. Nếu như y
chặn ở Nội bàng thì ta bỏ thương binh lại, chúng phải nuôi. Chúng đợi tới Chi lăng
mới đánh cắt hậu quân. Tiền quân mệt mỏi không còn sức quay lại cứu hậu quân.
– Thưa nghe nói là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng!
Thoát Hoan cùng chư tướng ăn cơm chiều vừa xong thì quân báo:
– Cánh thứ nhì hữu thừa Khoan Triệt với các tướng Mang Cổ
Đái, Bôn Kha Đa, Nạp Hải, Tôn Lâm Đức, chỉ huy 4 vạn phu đóng ở bắc Như nguyệt
rút về tới Chi lăng thì gặp quân Việt dàn ra tấn công cực hung dữ. Quan quân
liều chết chống trả tới chiều mới thoát. Quân Việt dùng Ngưu binh đuổi theo ngày
đêm không ngừng. Khi tới Khả lan vi thì trúng phục binh của Phạm Ngũ Lão và vợ
hắn là Thủy Tiên. Quan, quân vừa đánh vừa chạy. Về tới Tư minh thì 4 vạn chỉ còn 2 vạn người.
A Lý Hải
Nha họp chư tướng lại nghe báo cáo tình
hình, rồi giải tán. Đèn trong trại vừa tắt, binh tướng riu riu ngủ thì tiếng quân
reo, tiếng trống thúc vang dội. Quân
báo:
– Quân
Việt thủy, bộ, Ngưu binh đông như kiến đang tấn công vào cánh quân phía nam
sông Như nguyệt. Người chỉ huy là Hưng Ninh vương. Trên sông Như nguyệt, Thủy
quân của hạm đội Bạch đằng từ phía đông tiến về, đô đốc An Nam là Võ Văn Sáu đổ
quân lên đánh ép hai bên hông.
A Lý Hải
Nha hỏi:
– Hiệu
binh tấn công là hiệu nào?
– Là Tứ
thần, của Hoài Nhân vương
Trần Quốc Kiện, với Nguyễn Khoái. Hiệu
Thiên thuộc của Trấn biên tướng quân Nguyễn Thế Lộc, Nguyễn Lĩnh.
Một lát quân báo:
– Quân sĩ ào ào bỏ chạy qua phù kiều. Quá nửa ngã xuống sông,
một số lớn quẳng vũ khí chạy thoát thân.
Thoát Hoan nổi giận:
– Trời ơi! Quân mình đông hơn quân Man Việt, mà sao không
đánh, bỏ chạy như vịt vậy?
Quân lại báo:
– Thình lình bọn Ngạc ngư xuất hiện, phá 4 phù kiều. Quân
sĩ kinh hoảng nhảy xuống sông bơi sang bờ bắc. Một số đầu hàng. Hai tướng
Diệc Hắc Mê Thất, Bột La Cách Đáp Nhĩ bị thương, đang được cứu trị.
A Lý Hải Nha than:
– Thế thì đạo binh của Lý Hằng bị mất đường về rồi!
Đến đó pháo
nổ liên tiếp, quân reo vang trời. Thị vệ báo:
– Hưng Đạo vương
đích thân chỉ huy bọn Đại đởm An Nam, hiệu binh Hàm tử của Trần Quốc Toản. Hiệu
binh Tiền thánh dực, của Hưng Trí vương Quốc Hiện. Ngưu
binh do bốn tướng trâu hung hãn nhất là vợ chồng Trần Long Nhất, Phạm Trang Tiên ; Vũ Long Nhị
Hoàng Trang Liên; đang tấn
công vào doanh trại. Chúng đã lọt vào trong căn cứ, chém giết cực kỳ tàn bạo.
Hai tướng Kiết Tiết Tán Lược Nhi, Lý Bang Hiến đang chỉ huy quân chống trả.
Một lát quân báo:
– Thình lình quân Man ngừng tấn công, thế mà binh tướng mình cứ ùn ùn chạy về phương bắc.
Thoát Hoan ban chỉ:
– Lý Bang Hiến đem kị binh mở đường máu, rút trước. Khiết Tiết Tán Lược Nhi
đi cản hậu.
Quân Nguyên đã tập hợp được, lũ lượt rút lui. Một phần không còn giáp trụ,
một phần không còn vũ khí. Vừa ra khỏi trại 10 dặm thì quân Việt lại tấn công.
Hiệu binh tấn công vẫn là Hàm tử. Quân bộ phối hợp với Ngưu binh tấn công nhịp
nhàng, trận đia biến đổi ảo diệu. Con vượn trắng dẫn đầu. Cứ một trượng vung
lên lại một quân Nguyên tan xương nát thịt. Các tướng Nguyên không ai đỡ nổi
một côn của bạch viên. Quân tướng Nguyên quẳng chiến cụ, bỏ lều trại, chen nhau
chạy. Quân Việt vừa reo hò vừa truy sát chém giết. Quân Nguyên chạy dược 15 dặm,
lại gặp phục binh của hiệu Hàm tử đánh vào đội Thị vệ của Thoát Hoan với bộ
tham mưu.
Trần Quốc Toản, Trần Đại Như Vân được
lệnh Hưng Đạo vương:
“Đuổi Thoát Hoan, làm cho y kinh hoảng. Nhưng
đừng giết y“.
Ngay từ khi nhập trại Nguyên, Như
Vân dẫn một đô nữ binh của hiệu Hàm tử xung vào trung quân, nơi có soái kỳ của
Thoát Hoan. Đây là những thiếu nữ của Hàm tử, võ công rất cao. Cả đô do bạch
viên dẫn đầu, đuổi theo Thoát Hoan bén gót. Tên bắn như mưa, mã tấu chém phầm
phập, bọn Thị vệ bị thương, bị chết gần hết. Kinh hoàng, Thoát Hoan lấy cờ xanh
ra phất, nhưng vô hiệu. Quân Việt thấy cờ phất không đúng quy tắc, càng đánh dữ
hơn.
Như Vân biết mặt Thoát Hoan, nàng
chỉ cờ theo y, quân Việt xúm vào vây. Bạch Viên vung côn lên 4 Thị vệ nát thây.
Nhờ bọn Thị vệ đều là cao thủ võ lâm Trung nguyên hết sức cản Bạch Viên. Thoát Hoan bỏ
ngựa, nhảy lên xe chui vào trong ống đồng. Tên bắn vào ống đồng kêu lên những
tiếng leng keng không dứt. Bạch Viên vọt tới như thiên tướng, cây côn sắt đập vào
ống đồng kêu lên những tiếng chói tai. Ngọc Trí cầm cờ xanh phất, nhưng Bạch
Viên không biết nàng là ai, không biết ký hiệu cờ xanh. Nó nhảy lên xe chở ống đồng.
Vừa lúc đó
Trần Ích Tắc, thoát vòng vây Như nguyệt chạy tới. Thấy Thoát Hoan lâm nguy, y đoạt
được cây côn của một Thị vệ tấn công bạch viên. Tuy Ích Tắc là cao thủ số một
số hai của tiều Trần, về chiêu số y bỏ xa Bạch Viên, nhưng công lực thì y thua
xa.
Không may Thoát Hoan, Trần Quốc Toản trông thấy y chui vào ống đồng. Nhấp
nhô mấy cái hầu đã tới gần. Hầu cầm viên đá vận sức ném:
– Ném chết tên giặc Thát đát này!
Bồng một
tiếng lớn chói tai, lửa tóe ra, viên đá vỡ tan tành.
Ngồi trong ống đồng tai bị ù, hồn phiêu, phách tán, Thoát Hoan hướng xe của
Ngọc Trí vẫy:
– Vương phi! Sang đây, cứu ta với.
Ngọc Trí bỏ xe mình sang xe chở ống đồng, tay cầm cờ xanh phất. Quốc Toản
lại ném hai tảng đá nữa:
– Bồng, bồng.
Ngọc Trí đứng lên trước xe, tay cầm cây cờ xanh vẫy liên tiếp. Như Vân nhận
được mặt Ngọc Trí, ký hiệu phất cờ đúng; nàng ra hiệu cho đội nữ binh ngừng tấn
công. Vòng vây dãn ra. Ngọc Trí hướng Quốc Toản:
– Quân hầu! Xin quân hầu dung mạng!
Quốc Toản bỏ Thoát Hoan, chỉ cờ cho trận địa biến đổi. Bạch Viên đã đánh
bay côn của Ích Tắc. Nó định giết y, thì thấy kỳ hiệu của Như Vân bảo lui. Nó bỏ
xe, tung mình vào hàng ngũ quân Nguyên. Đội hình Nguyên vỡ tan.
Tuy bị chết hụt, nhưng Thoát Hoan cũng kịp thấy Như Vân. Y hỏi Ngọc Trí:
– Nữ tướng này là ai? Thị còn quá trẻ, mà hung hãn cực kỳ. Nhan sắc e hơn
cả công chúa An Tư.
Ngọc Trí đã gặp Như Vân trong lần nàng đột nhập vào Hoàng thành. Nhưng nàng
giả tảng:
– Không biết nữa. An Nam có quá nhiều nữ tướng. Thiếp không biết.
Trần Ích Tắc đang thở dốc sau trận đấu
vơi Bạch Viên. Y trả lời:
– Đó là con gái của phản vương Ngột A Đa tên Trần Đại Như Vân. Thị là vợ tên
nhóc Trần Quốc Toản. Hôm trước thị đã theo vương phi Tháp Sát Nhi đem thương
binh đến cho mình.
Tuy võ công Ích Tắc thuộc loại đại cao thủ, không thua gì Vũ Uy vương, nhưng
bị Bạch Viên đánh cho mất vũ khí, ngựa bị giết, vai bị thương. Y tung mình lên
chui vào trong ống đồng với Thoát Hoan.
Đoàn bại binh vừa đánh, vừa chạy; tới sáng, cứ một quãng lại gặp chiến sĩ Hàm tử bắn tên, Ngưu binh tấn công, Quốc Toản ném đá,
Bạch Viên vác gậy đập. Cuối cùng thì xe chở Thoát Hoan tới Vạn kiếp. Người mệt đến
lê bước không nổi. Ngựa đói lè lưỡi ra.
Giữa lúc đó Lý Hằng, Lưu Thế Anh với tàn binh tới. Y bị thương nhẹ. Lưu Thế
Anh trình:
– Bị ba hiệu binh vây đánh: một hiệu chặn đầu, hai hiệu đánh vào hậu quân.
Khi vượt qua sông Sách, cầu phao bị Ngạc binh cắt đứt. Binh tướng một số hàng
giặc, một số bị giết. May nhờ phu nhân của Lý Hằng xin với giặc, mới thoát về đây
gần vạn người.
Ích Tắc hỏi:
– Tướng tổng chỉ huy là ai?
– Chiêu Minh vương
Trần Quang Khải.
Cả đoàn ngừng lại nghỉ ngơi được hơn giờ, Lý Bang Hiến báo:
– Phía trước không có giặc. Mình nên đi tiếp hay nghỉ?
A Lý Hải Nha ra lệnh:
– Đi tiếp.
Trong ống đồng Thoát Hoan hỏi Ích Tắc:
– Vương theo đạo binh của Diệc Hắc Mê Thất, Bột La Cách Đáp Nhĩ, bị vây ở nam Như nguyệt. Làm sao vương thoát được?
– Thần bơi qua sông.
– Cuộc chiến ra sao?
Bột La Cách
Đáp Nhĩ thuật thay Ích Tắc:
“ Binh
tướng phía nam Như nguyệt choàng dậy thức giấc vì tiếng reo hò của quân Việt.
Quân Việt dùng Vạn kiếp tông bí truyền thư, trận thế biến ảo tinh kỳ. Không may
y đụng phải một tướng trẻ, chính là Hoài Nhân vương. Vương đánh ba chiêu y bị
phun máu miệng. Vương định đánh chiêu thứ tư kết thúc tính mạng y, thì Trần Ích
Tắc quát lên:
– Không được hại người.
Rồi y xả kiếm tấn công Hoài Nhân, Hoài Nhân
không đỡ, mà rút kiếm xỉa thẳng vào ngực Ích Tắc. Ích Tắc quát:
– Thằng ôn con, mày là con anh Hoảng, tao là
chú mày. Mày thấy chú không hành lễ. Đồ mất dậy.
Võ công Ích Tắc cao hơn Hoài Nhân một bậc. Y
xỉa tay kẹp cứng kiếm của Hoài Nhân, tay kia đưa kiếm định chặt Hoài Nhân làm
2, thì có tiếng nói đầm ấm:
– A Di Đà Phật. Vương xưng là chú mà lại định
giết cháu ư?
Rồi thấp thoáng bóng nâu, một vị tướng mình
hạc, xương mai trông như một vị bồ tát, phóng hai chỉ, chỉ thứ nhất trúng kiếm
của Ích Tắc. Choang, kiếm của Ích Tắc bị gẫy đôi. Chỉ thứ nhì trúng chiếc mũ đồng trên đầu y. Bộp! Y bật người,
ngã lộn đi hai vòng. Vị tướng đó đánh chiêu thứ ba, Ích Tắc lăn mình tránh khỏi.
Y tung người dậy:
– A Di Đà Phật! Xin Bồ tát từ bi hỷ xả, tha
mạng. Chúng mình là anh em, tại sao lại giết nhau?
Thì ra vị tướng đó là Hưng Ninh vương, anh
ruột Hưng Đạo vương, anh con bác của Ích Tắc. Hưng Ninh vương chỉ mặt Ích Tắc:
– Người mãi quốc cầu vinh, người hại chết em
ruột là An Tư. Hôm nay ta phải đại khai sát giới. Ta chỉ đánh ba chiêu, nếu mi đỡ
được thì ta tha cho.
Hưng
Ninh vương đánh một chiêu nhẹ nhàng như gió thoảng. Ich Tắc vận công đỡ! Xèo một tiếng, người y bật về
sau hai trượng. Khí huyết đảo lộn cực kỳ khó chịu, y ọe một tiếng, miệng phun
máu. Hưng Ninh vương đánh chiêu thứ nhì. Ích Tắc nghiến răng đỡ. Bình một
tiếng, y bay tung ra xa, rơi ngay trước mặt công chúa Nang Tiên. Nang Tiên điểm
huyệt y. Y tê liệt nằm bất động. Công chúa rút kiếm chĩa vào ngực Ích Tắc:
– Ích Tắc! Chú là chú mà không giữ lời di
chúc của tổ tiên, hại cô An Tư. Hôm nay đứa
cháu dâu này phải giết chú để trả thù cho cô .
Hưng Ninh vương xua tay:
– Nang Tiên! Từ 5 đời trong tộc Đông a chúng
ta giữ di chúc của tổ tiên: tuyệt đối không chém giết nhau. Không để người khác
giết tộc thuộc trước mặt mình. Ích Tắc phản cha, bội anh, muôn đời ô danh. Như
vậy đủ rồi. Cháu tha cho chú ấy lần này nữa thôi.
Nang Tiên thu kiếm lại, Hoài Nhân vương cúi
xuống giải huyệt cho Ích Tắc. Sự thực công lực Nang Tiên không đủ điểm huyệt
làm Ích Tắc tê liệt. Vốn cực thông minh, để động lòng từ bi của Bồ tát Tuệ
Trung, y giả như bị tê liệt, nằm bất động. Khi Hoài Nhân vương cúi xuống giải
huyệt cho y, y vung tay, một con dao trủy thủ đâm vào ngực trái vương. Vương
bay tung ra xa, Ích Tắc vùng dậy chạy biến vào đám quân Nguyên đang chiến đấu tuyệt
vọng.
Hưng Ninh vương, Nang Tiên chạy lại xem xét:
Con dao trủy thủ đâm trúng tim, xương ngực Hoài Nhân vương bị bẹp dúm. Vương đã
hoăng. Trước cái chết của đứa cháu thân yêu, bồ tát Tuệ Trung không còn nghĩ đến
tam quy, ngũ giới hay thất bát giới. Vương vung thiền trượng xông vào hàng ngũ
quân Nguyên. Vương đi đến đâu, trượng thép vung lên, dù binh, dù tướng cũng vỡ
ngực, gẫy xương sống đến đó. Hoài Nhân vương tuẫn quốc, phó tướng của là Nguyễn
Khoái cùng binh tướng hiệu Tứ Thần uất ức, đánh như điên, như khùng. Gần như
trọn vẹn đám quân Nguyên ở nam Như nguyệt bị giết sạch“.(1)
Thoát
Hoan khen Ích Tắc:
– Suốt
20 năm qua, vương ở trời nam, không ngớt cung cấp tin tức về Thiên triều. Việc
vương phóng chỉ đánh bay kiếm An Tư cứu cô gia, tỏ lòng trung của vương. Hôm
nay vương giết một trong hai tướng tài nhất của An Nam. Chứng tỏ vương trung thành
với Thiên triều. Cô gia sẽ tâu với phụ hoàng về tấm lòng của vương. (2) Dù vương
không được làm An Nam quốc vương, Thiên
triều sẽ phong cho vương 3 nghìn mẫu ruộng vùng mầu mỡ Kinh hồ.
Tế tác báo:
– Thình lình hiệu binh Hàm tử đang truy sát ta, rút về Thăng
long, không rõ lý do.
Thoát Hoan, A lý Hải Nha thở phào, như trút được gánh nặng:
– Thoát được một đại hung thần.
Khi đoàn bại binh đến gần Chi lăng, thì quân báo:
– Quân Tống, quân Việt dàn trận hai bên đường. Giữa đường
một đội Tượng binh với Ngưu binh, không còn đường đi.
A Lý Hải Nha kinh ngạc:
– Quân Tống?
– Vâng, chúng mặc y phục Tống, kéo cờ Tống. Còn quân Việt
thì là hiệu Văn bắc của tên Dã Tượng.
Trần Ích Tắc vọt lên tiền quân, một lát y trở lại nói với
Thoát Hoan:
– Đúng quân Tống, đó là hiệu binh Thiệu hưng.
– Mới bốn hôm trước bọn Thiệu hưng còn vây đánh quân Vân
nam. Chúng biết bay hay sao, mà hôm nay đã có mặt ở đây?
Trần Ích Tắc giảng giải:
– Không có gì lạ cả. Người chỉ huy trận truy sát là Hưng Nhượng
vương. Y ra lệnh cho hiệu Thiệu Hưng vượt qua bến đò Phú lương, rồi theo đường
thượng đạo tới đây.
A Lý Hải Nha ra lệnh:
– Chỉ có cách liều mạng phá vòng vây mà thôi.
Các tướng lắc đầu:
– Phá thế nào được? Với địa thế này! Ta bị kẹp giữa hai quả
núi! Phía trước Tượng binh, Ngưu binh. Hai bên thì hiệu Thiệu Hưng, Văn bắc. Dù
có trăm vạn binh cũng không phá nổi. Huống hồ sau bốn ngày vừa đánh, vừa chạy,
binh tướng không hèn, nhưng người, ngựa không còn sức.
Trần Ích Tắc hiến kế:
– Tên Dã Tượng có con vợ đẹp là Thúy Hồng. Y rất nể vợ. Ở
đây vương phi Ngọc Trí, phu nhân của Tả thừa Lý Hằng là Ngọc Quốc, vốn học cùng
trường với vợ Dã Tượng. Hai phu nhân đừng quản ngại, dùng lời lẽ ty tiện xin
với Thúy Hồng, thì may ra mới thoát nạn.
Thoát Hoan nhìn Ngọc Trí, Ngọc Quốc:
– Không biết vương phi với phu nhân có nghĩ đến tình vợ chồng
mấy năm qua, mà cứu chúng ta không?
Hai nàng nhìn nhau, rồi cùng ra lệnh cho xe lên trước. Nhìn
quân khí hùng tráng của 2 hiệu binh, 2 nàng thở dài nói với nhau:
– Vòng vây chặt thế này, dù bọn Nguyên có liều chết cũng
uổng mạng mà thôi.
Thúy Hồng, Ngọc Hoa, Vương Chân Phương đứng giữa đường vẫy tay. Ngọc Trí, Ngọc Quốc
theo đến chỗ trung quân. Yết Kiêu, Dã Tượng, Triệu Trung đứng dậy chào, dùng lễ
công chúa tiếp đón. Vương Chân Phương lễ phép nói với 2 nàng Ngọc:
– Trời cho hai công chúa tấm nhan sắc tuyệt thế, mà phải vì
nước ẩn thân vào chốn hang hùm. Có phải 2 công chúa tới đây xin mở vòng vây cho
chúng không?
– Đúng như chị nói.
Yết Kiêu nói lạnh như băng:
– Nể mặt 2 em. Chúng ta sẵn sàng tha cho các em. Nhưng bọn
tướng sĩ thì không! Vì chúng ta không có quyền.
Thúy Hồng thấy
Ngọc Trí ênh ếch nước mắt muốn khóc, nàng an ủi:
– Anh Yết Kiêu cũng như anh Dã Tượng không có quyền tha cho bại binh. Quyền mở
cho quân Nguyên thoát chỉ Hưng Nhượng vương là người tổng lĩnh cuộc truy quét
mới có quyền. Vậy em nói với Thoát Hoan tạm đóng quân lại. Đợi anh Yết Kiêu sai
sứ xin chỉ dụ của vương đã.
– Độ bao nhiêu lâu?
– Vương đang ở Khả lan vi. Ngựa đi từ dây tới đó phải 3 giờ. Trở về 3
giờ. Mau thì nửa ngày. Lâu thì 2 ngày.
– Lương thực chỉ còn nửa ngày, nếu 2 ngày quân không về
tới Tư minh thì chết đói hết. Trong 2 ngày đó quân Việt có tấn công không?
Dã Tượng dơ tay hứa:
– Không giết người, nhưng ném đá giết Thoát Hoan, Ích Tắc
thì không hứa. Anh với Quốc Toản đã hẹn ném Thoát Hoan, Ích Tắc 100 tảng đá.
Quốc Toản đã ném đủ 100 tảng mà chưa giết được tên nào; còn anh mới ném có 61
tảng. Thiếu 39 tảng, thì nhân dịp này phải ném cho đủ. Tỷ như tảng thứ 62 mà
Ích Tắc chết, thì anh vẫn ném vào xác y cho đủ 100 tảng mới thôi! Còn lương ư?
Nếu lính Nguyên quẳng vũ khí hàng thì sẽ được nuôi ăn đầy đủ.
Ngọc Trí bật lên tiếng khóc:
– Anh không nghĩ đến công lao của em mà nới cho Thoát Hoan
chút nào ư? Dù sao y cũng là chồng em. Y
sủng ái em cùng cực.
Sự thực Dã Tượng được
mật chỉ của Hưng Đạo vương không giết Thoát Hoan. Nhưng hầu muốn dùng Ngọc Trí
nhắn tin cho y bở vía. Bây gờ thấy Ngọc Trí khóc, lòng người anh hùng nhũn ra:
– Nếu y cứ núp dưới váy em thì sao anh ném chết y được. Em là công chúa! Anh mà ném đá chết cô
công chúa thì e đức vua chặt đầu anh.
Nghe Dã Tượng nới, lập tức Ngọc Trí cười tươi:
– Đa tạ anh voi đồng quê.
Hai nàng Ngọc trở lại thuật cho Thoát Hoan tất cả những gì
khi đi sứ. Thuật luôn vụ Dã Tượng đe ném đá. Thoát Hoan, Ich Tắc mặt nhìn mặt;
như cùng nói với nhau:
– Đại hung thần đang chờ!!!
Hôm sau, đám tướng sĩ Nguyên đã phải nhịn đói một bữa sáng,
thì Thúy Hồng tới trao cho Ngọc Trí cây cờ, trên có bút tự của Hưng Nhượng vương
rất lớn:
Đại xá Thát đát.
Tế tác báo:
– Quân Việt mở đường. Hiệu binh Thiệu Hưng rút vào trấn
Chi lăng, chỉ còn hiệu Văn bắc dàn bên đường.
A Lý Hải Nha ra lệnh:
– Rút quân! Lý Hằng, Lưu Thế Anh đi cản hậu.
Xe Ngọc Trí đi đầu, trên cắm cây soái kỳ của Hưng Nhượng
vương. Tiếp sau là xe chở ống đồng, trên có Thoát Hoan, Ích Tắc.
Đoàn quân đói khát lên đường. Khi đi ngang chỗ eo núi, binh
Việt dàn hai bên, có tiếng loa gọi bằng tiếng Quảng:
– Các người là người Hoa, là con cháu Phục hy, Thần nông,
Hoàng đế, bị Thát đát đem xuống đây chịu chết. Hãy bỏ vũ khí, chạy vào rừng, sẽ
được tha chết, được nuôi ăn.
Rồi một người khổng lồ đứng trện mỏm núi hét lớn:
– Ném đá giết tên ác tặc Thát đát Thoát Hoan. Giết tên bội
cha phản anh Ích Tắc!
Thoát Hoan nhìn lên thì là Dã Tượng. Không còn hồn vía nào
nữa, y chui vào ống đồng. Dã Tượng ném đá:
– Bồng, bồng .
Thoát Hoan giật bắn người lên. Cạnh y, Trần Ích Tắc cũng đang
run rẩy, hai hàm răng đánh vào nhau cầm cập. Trong khi đó lính Nguyên gốc Hán đói
quá, thi nhau chạy vào rừng.
Thoát khỏi Chi lăng, tế tác báo:
– Phía trước có hai con đường đi. Một qua ải Đại trợ, một
qua ải Khả lan vi. Xin quân sư cho biết, mình nên đi đường nào?
– Đi theo đường
Đại trợ.
Quân tiến vào vùng Đại trợ. Thình lình trống thúc vang
dội, quân reo như sóng biển. Tế tác báo:
– Phía trước là hiệu binh Thần cách. Chúa tướng là Nguyễn
Địa Lô, phó tướng là Nguyễn Lộc. Chúng dàn ra chặn mất đường đi!
Thoát Hoan nhìn Ngọc Trí, Ngọc Quốc:
– Tên Địa Lô này tài trí chỉ thua Hưng Đạo vương. Y đã phục
binh thì không thể địch lại. Vậy hai nàng thử năn nỉ với y xem sao?
Ngọc Trí, Ngọc Quốc phất cờ xanh, trên xe có cây soái kỳ đại
xá của Hưng Nhượng vương. Hai xe tới trước. Địa Lô dùng lễ công chúa đón tiếp:
– Chào nhị vị công chúa.
Ngọc Trí bực mình:
– Anh với chúng em thân nhau từ hồi ở Cố trạch, Văn sơn, rồi
cùng theo Vũ Uy vương vào Thục. Bây giờ khách sáo thế đấy! Đừng ỷ mình đẹp
trai, cầm quân trong tay rồi dè bỉu với bọn lấy chồng Thát đát nghe!
– Khiếp! Hai cô em làm vương phi rồi khó tính với anh quá!
Lớn rồi! Hăm mấy tuổi rồi! Không còn là cô gái ăn quà như mỏ khoét nữa đâu!
Ngọc Quốc chỉ vào cây soái kỳ đại xá:
– Hưng Nhượng vương đã ban lệnh đại xá. Sao anh còn phục binh
ở đây? Anh với chúng em từng gặp nhau ở Cố trạch. Nhớ lại hồi chúng em theo Vũ Uy vương sống trong trang ấp Văn sơn của anh.
Anh hứa sau này sẽ chiếu cố cho bọn em. Chiếu cố gì mà Hưng Nhượng vương đã ân
xá, ỷ có quân trong tay, anh dàn ra bắt nạt bọn em. Chiếu cố của Nam thiên đệ
nhất mỹ nam tử là như thế đấy! Ôi Nam thiên đệ nhất tài tử gì mà bắt nạt các cô
em gái! Hư! Hay bây giờ bọn em có chồng, già rồi nên anh ghét mặt!
Địa Lô cười:
– Nhị vị công chúa đừng nổi giận. Anh là tướng, là Thiên lôi!
Ông trời Hưng Nhượng chỉ đâu đánh đó. Việc anh dàn quân là do lệnh của Hưng Nhượng
vương. Các cô còn quá trẻ, còn đẹp hơn tiên nga mà hỏa tính lại vượng thế đấy.
Hai cô phải hiểu cho anh! Quân giặc qua vùng trấn nhậm. Anh phải dàn quân phòng
thủ chứ có chém giết đâu? Em nói với Thoát Hoan rằng Hưng Nhượng vương ban chỉ
không được chém giết binh tướng Nguyên. Còn ném đá giết y với Ích Tắc thì vương
không ban chỉ gì cả. Vì vậy anh Dã Tượng đang chờ phía trước ném đá giết Thoát
Hoan, Ích Tắc đấy. Em muốn cứu chồng thì đứng án trước miệng ống đồng. Hoặc bảo
hắn núp trong váy em. Em là công chúa Việt, anh Dã Tượng gan có to bằng cái đình cũng không dám
bắn, ném đá giết các em. Anh ấy mà ném đá giết cộng chúa thì đức vua sẽ chặt đầu
ngay.
Được vuốt ve bằng những lời ngọt ngào. Hai nàng hết sợ, vui
vẻ trở lại thuật cho Thoát Hoan nghe. Thoát Hoan cười:
– Không ngờ váy của hai em lại là chỗ ẩn thân của anh. Thôi,
nhục thì nhục, còn hơn bị đá ném chết.
Ích Tắc nói một câu cực vô duyên:
– Thái tử bảo chui vào váy 2 nàng là nhục ư? Hai nàng đẹp
như tiên, được chui vào váy nàng không khác gì vào động Đào hoa!
Hai nàng, một nàng đứng trấn ở miệng trước ống đồng. Một nàng
trấn phía sau. Gió thổi váy hai nàng bay phần phật. Bên trong Thoát Hoan, Ích
Tắc mừng chi siết kể:
– Mình được màn trời che chở. Cũng may hai nàng sạch sẽ, bằng
không e chết ngộp.
Đoàn xe ngựa lại lên đường. Thấy không có phục binh, Thoát
Hoan, Ích Tắc chui ra khỏi ống đồng ngắm cảnh núi rừng. Khi còn cách biên giới
khoảng hơn bốn dặm thì qua một mỏm núi. Thoáng nhìn thấy Dã Tượng đứng trên đó
cầm tảng đá lớn, tay vung lên, hòn đá bay tới rít lên vo vo. Thoát Hoan kinh
hồn động phách không kịp chui vào ống đồng. Y tốc váy vợ chui vào. Ích Tắc chui vào váy Ngọc
Quốc. (2)
Dã Tượng hét:
– Tên Thát đát Thoát Hoan. Tên giặc bán nước Ich Tắc! Tao
đã thề ném chúng mày 100 viên đá, nhưng còn thiếu ba viên. Tao ném cho đủ để
giết chúng mày! Viên thứ chín mươi tám, chết này!
Tảng đá bay đến chui tọt vào trong ống đồng.
– Bồng.
Thoát Hoan, Ích Tắc chói tai, rụt đầu trong váy 2 nàng, kinh
hoảng. Hai tay nắm lấy hai chân các nàng. Cũng may hai nàng Ngọc Trí, Ngọc Quốc
đều cao, váy lại dài nên Ích Tắc, Thoát Hoan ẩn trọn vẹn thân mình.
– Chín mươi chín chín, chết này.
– Bồng.
– Một trăm này!
– Bồng.
Viên đá thứ một trăm, vỡ tan, mảnh trúng vào bốn con ngựa
kéo xe. Quá đau đớn chúng hí lên, rồi vọt sang đất Trung nguyên.
Thoát Hoan, Ích Tắc biết đã thoát chết. Cả hai chui ra
khỏi ống đồng, ngửa mặt nhìn trời. Nắng tháng 5 chói chang. Cả hai thở phào,
mặt nhìn mặt:
– Chúng ta còn
sống!
Quân rút sang đất Trung nguyên hết. Thì một Thị vệ cõng trên
vai một tướng cùng hơn mười người hộ tống, đầy mình thương tích chạy về. Ngọc
Quốc tinh mắt thét lên:
– Chồng tôi!
Rồi nhảy xuống xe. Mọi người xúm lại xem, quả là Lý Hằng.
Y đã chết từ bao giờ! Y bị trúng một mũi tên thép vào đầu gối. Ích Tắc rút tên
ra thì tên đó không phải tên của quân Việt, mà tên của người đi săn. A Lý Hải
Nha hỏi nguyên do, một thương binh nói:
– Tả thừa đi đoạn hậu. Khi cùng 3 trăm quân cản hậu đi
qua lũy Đại trợ, dân chúng mang gậy, dao, cung tên xông ra đánh. Chúng tôi chỉ
vào cờ có bút tích của Hưng Nhượng vương. Chúng không lý đến. Tụi man dân thực
kinh khủng. Chúng lăn xả vào chém giết. Tả thừa bị trúng tên vào đầu gối. Cũng
may Trung lang tướng Địa Lô xuất hiện, xông vào can thiệp. Nhưng mấy lão già,
mấy mụ nhà quê hung dữ cùng cực. Có đứa bị chặt đứt tay, có đứa lòi ruột ra,
chúng vẫn chém giết. Khi chúng tôi buông vũ khí hàng, chúng cũng vẫn đâm chém.
Bọn trẻ con thúc trâu húc chúng tôi, có đứa xua chó ra cắn nữa.
Địa Lô trách chúng, bọn đàn bà trả lời:
– Tha cho bọn ác quỷ là quyền của Hưng Nhượng vương. Nhưng
năm trước dân chúng đã mở cửa hàng, mà bọn ác quỷ còn đốt hết nhà, giết hơn
nghìn người. Bây giờ chúngï tôi trả thù.
Trần Ích Tắc lắc đầu:
– Không phải man dân tự động đánh quan, quân đâu, mà tên thầy
chùa mũi trâu Địa Lô dàn cảnh đấy. Tên này mưu mẹo không biết đâu mà lường.
Trong suốt cuộc chiến, có nhiều tướng Nguyên tử trận, nhưng
trong cuộc rút lui này 2 tướng Lý Hằng, Lý Quán, là 2 tướng cấp bộ cao. Cao hơn
cả Toa Đô, Ô Mã Nhi, chỉ thấp hơn A Lý Hải Nha mà thôi. Hằng là một trong 5
khai quốc công thần của Nguyên. Năm ấy y 50 tuổi.
Đúng lúc đó tại Thăng long, dân chúng lũ lượt kéo nhau
trở về. Trong Hoàng thành thái hậu, hoàng hậu chỉ huy thái giám cung nga dọn
dẹp các cung điện.
Thượng hoàng thiết triều. Bách quan không thiếu một người.
Chiêu Minh vương Trần Quang Khải tâu với thượng hoàng:
– Bọn Ô Mã Nhi, Toa Đô tưởng Thoát Hoan còn tại đây. Chúng
dùng thuyền chở hết binh tướng, bọn tay sai gốc Việt theo sông Hồng tiến về Thăng
long. Chúng bị đô đốc Võ Văn Sáu cho chiến thuyền chặn mất đường lui ra biển,
bịt đường tiến lên. Chưa biết chúng sẽ đổ bộ lên Hàm tử hay A lỗ.
Thần đã báo cho Quốc Toản biết. Quốc Toản đem hiệu Hàm tử đánh đuổi
chúng.
Hưng Đạo vương ban chỉ!:
– Hiệu binh Hàm tử vừa về tới Hàm tử. Vậy ban lệnh cho đô
đốc Sáu ép để bọn Ô Mã Nhi, Toa Đô đổ binh lên Hàm tử cho Quốc Toản giết chúng.
Hưng Vũ vương tâu:
– Ô Mã Nhi, Toa Đô là hai tướng có tài dùng binh như
thần. Võ công tuyệt đỉnh. Cần giết chúng đi để trừ hậu hoạn.
Hưng Đạo vương đề nghị:
– Quân số của Toa Đô còn hơn 7 vạn người. Nhưng chúng ở Chiêm
lâu ngày, bệnh hoạn, đói khát, không thể địch lại hiệu binh Hàm tử. Võ công của
hai tên này so với Quốc Toản, khó biết ai hơn ai. Vậy xin Hưng Ninh vương đem
hiệu binh Tiền thánh dực, của Hưng Trí vương Quốc Hiện, hiệu binh
Tả thánh dực, của Hưng Hiếu vương Quốc Uy đến
trợ chiến.
Trong khi đang say
chiến thăng đuổi theo Thoát Hoan, Ích Tắc; Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản được
lệnh Hưng Nhượng vương cho rút hiệu binh Hàm tử về hậu cứ để dưỡng sức. Hưng Nhượng
vương nói với ông em mà vương yêu nhất:
– Dù binh tướng của
em được luyện tập, chịu gian khổ giỏi, dù họ có tinh thần chiến đấu hăng say,
nhưng hiệu binh vừa trải qua 8 trận, 4 tháng không nghỉ. Em phải rút về Hàm tử
cho họ phục hồi sức lực!
Thấy hầu vẫn chưa
bằng lòng, vương tính đốt ngón tay:
– Hiệu binh của em đã
đánh liền tám trận. Trận thứ nhất chặn Lý Hằng, Ô Mã Nhi ở Đâu đỉnh. Trận thứ
nhì trấn Thăng long. Trận thứ ba trợ Chiêu Văn ở Ái châu. Trận thứ tư tái chiếm
Trường yên. Trận thứ năm đánh Tây kết.
Trận thứ sáu đuổi Thoát Hoan ở Gia lâm. Trận thứ bẩy đuổi Thoát Hoan ở Như nguyệt.
Trận thứ tám phục kích dọc đường Kiếp bạc, Chi lăng!
Hầu vui vẻ, ra lệnh
lui binh. Xa Hàm tử gần 2 năm, bây giờ chíến
sĩ Hàm tử được về quê. Tuyên cao thái phi, Thánh mẫu Hồng Liên truyền làm tiệc
khao quân ba ngày, làm lễ cầu siêu cho tử sĩ. Thấy tài sản của ấp phong súc
tích, dư giả, phu nhân Như Vân truyền phát bổng thưởng thêm ba tháng cho chiến
sĩ và gia đình.
Bà cháu xa nhau 3 năm,
mà Tuyên cao thái phi cảm thấy như cả chục năm. Cao thái phi than:
– Cô An Tư tuẫn quốc, bà đau
xót trong lòng. Nhưng nghĩ đến chững chiến thắng của cháu bà mừng vô hạn. Toàn
quốc, chỗ nào cũng bị binh ách, người chết, nhà cháy. Duy Hàm tử thì vô sự.
Phi tát yêu Như Vân:
– Bao giờ cháu dâng
cho bà một thằng Quốc Toản con đây? Hai con tắm rửa rồi lên đây, bà có món quà
cho hai con.
Quốc Toản, Như Vân
thay y phục, tắm rửa rồi lên sảnh. Vừa bước vào, cả hai thấy hai phụ nữ đẹp
tuyệt thế đang đứng tươi cười. Cả 2 vợ chồng gần như tê liệt, không bước thêm được
bước nào. Vì 2 người đó là vương phi Ý Ninh, vương phi Thanh Nga. Quốc Toản, Như
Vân ôm chầm lấy mẹ. Cả bốn người lặng đi, không nói lên lời. Như Vân tỉnh trước,
phu nhân hỏi vương phi Thanh Nga:
– Mẹ! Mẹ về bao giờ vậy? Bố có về không?
– Không!
Bà cháu, mẹ con, dâu rể được hưởng tình
nhân luân trong ba ngày. Quốc Toản hỏi tin tức về Vũ Uy vương. Vương phi Ý Ninh đáp:
– Trong nhà mình nảy
ra hai cái họa, làm bố lâm vào thế khó xử. Địa vị bố tại Nguyên quá lớn, lại là
người uy tín cực cao trong giòng họ nhà mình. Uy tín bố áp chú Hoảng (vua Thánh
tông, dương kim Thượng hoàng). Nếu bố về thì chú Hoảng phải đặt bố vào địa vị
nào? Đến Hưng Đạo vương vì uy tín quá cao, nên không dám giữ chức gì, mà chỉ
lĩnh Tiết chế, để chú Hoảng khỏi lo lắng. Cái họa Di Ái làm cho bố mẹ không thể
về quê chung sức với anh em chống giặc. Chức tước của bố là Trấn tây vương, cao
gấp bội tước An Nam quốc vương của chú Hoảng. Tất cả tướng sĩ Nguyên đều khuất
phục bố. Bố về thì chú Hoảng sẽ đặt bố vào địa vị nào? Bây giờ nảy ra cái vụ
Ích Tắc! Bố càng không nên về.
– Dạ! Con hiểu ý bố.
Phi chỉ vào Tuyên
cao thái phi:
– Bố mẹ đều biết rõ
chi tiết vụ cô An Tư tuẫn quốc.
Bố biết bà nội đau đớn lắm, nên người sai mẹ về thỉnh bà nội sang, để mẹ con
gặp nhau. Bố nhìn thấy trước Thoát Hoan thất bại, ắt Hốt Tất Liệt sẽ đem quân
sang đánh nữa. Con cần có mặt để đánh y. Bố dặn mẹ: mũi nhọn dễ gẫy. Với võ
công, uy tín, chiến công của con, danh dự quá lớn. Con cần xa Đại việt một thời
gian, để tránh lòng ghen ghét, của những kẻ xung quanh. Vậy sau trận này con xin
Thượng hoàng hộ tống bà nội thăm bố, để xa nước một thời gian, cho cái mũi nhọn
lờn đi một chút đã.
– Con hiểu ý bố. Con
sẽ xin Thượng hoàng.
Mấy hôm sau, trưa ngày 19 tháng 5, năm Ất đậu
(23-6-1285) Đại tư xã Thượng báo với
hầu:
– Không biết có biến
chuyển gì không, mà các chiến thuyền của hạm đội Thăng long, Bạch đằng di
chuyển qua ấp, đi về phía Thăng long nườm nượp.
Hầu chưa kịp ra sông quan sát thì quân
báo:
–
Phán thủ thượng vị Nhân đức hầu Trần Toàn thống lĩnh hạm đội Âu Cơ, Hoàng sa bá
Võ Văn Sáu thống lĩnh hiệu binh Bạch đằng xin cầu kiến.
Quốc Toản với Trần
Toàn là anh em cháu chú cháu bác. Hầu phải gọi Toàn bằng anh.
– Mời vào.
Lễ nghi tất.
Đô đốc Võ Văn Sáu cáo:
–
Thuộc hạ được tin bọn Toa Đô, Ô Mã Nhi, Lưu Khánh, Tiểu Lý thu dụng dân thuyền,
tập trung chiến thuyền của bọn Trần Quang Kiện, Trần Tú Hoãn khi đầu hàng trao
cho chúng. Chúng rút toàn bộ quân mã mặt trận phía nam ra biển. Thuộc hạ cử
chiến thuyền theo dõi, báo cho Phán thủ thượng vị Nhân đức hầu Trần Toàn. Tin
tế tác báo rằng, Toa Đô chưa biết Thoát Hoan bỏ chạy. Y định tiến về Thăng long
hợp binh với nhau. Thuộc hạ được lệnh của Hưng Đạo vương khóa phía sau đoàn
thuyền của chúng. Phán thủ thượng vị Nhân đức hầu Trần Toàn.
chặn phía trước không cho chúng tiến về
Thăng long.
Quốc Toản chưa có quyết định gì thì có
ngựa trạm đem lệnh của Hưng Đạo vương
tới. Hầu mở lệnh ra đọc, rồi nói:
– Hưng Đạo vương ban lệnh: bọn Toa Đô, Ô
Mã Nhi quả chưa biết Thoát Hoan đã chạy, chúng định đem quân ra hợp với Hoan.
Quân số của chúng khoảng 7 vạn. Chúng chia ra hai đoàn. Đoàn thứ nhất do Ô Mã
Nhi, Lưu Khánh chỉ huy. Đoàn thứ nhì do Toa Đô, Tiểu Lý chỉ huy. Hưng Đạo vương
đã cử Hưng Ninh vương đem hiệu binh Tiền thánh dực, của Hưng Trí vương Quốc Hiện, hiệu binh
Tả thánh dực, của Hưng Hiếu vương Quốc Uy phục
sẵn tại Tây kết. Hạm đội Âu cơ dàn ra chặn phía trước, bắt buộc Ô Mã Nhi phải đổ
quân vào Tây kết cho Hưng Ninh vương diệt chúng. Hạm đội Bạch đằng chặn đánh
cắt đôi đội hình của chúng, bắt buộc Toa Đô, Tiểu Lý phải đổ lên Hàm tử. Hiệu Hàm
tử với hạm đội Bạch đằng thanh toán đám quân của Toa Đô.
Hầu nói với Trần Toàn:
– Anh mau tới Tây kết nhận lệnh của Hưng
Ninh vương.
Toàn cáo biệt lên đường.
Quốc Toản với Võ Văn Sáu đem bản đồ khu
Hàm tử ra nghiên cứu. Sáu bàn:
– Đoàn của Thoát Hoan có 170 thuyền, của Ô
Mã Nhi có 210 thuyền. Trung bình mỗi thuyền có 150 người. Thoát Hoan sẽ đổ lên
Hàm tử 3 vạn. Quân Toa Đô ở Chiêm lâu
ngày, bị bệnh do lam chướng, do muỗi, thiếu ăn; sức chiến đấu kém, thì khi đổ bộ
lên, chỉ cần 1 hiệu Hàm tử đủ tiêu diệt chúng.
Vương phi Ý Ninh mỉm
cười:
– Đô đốc quá giỏi
thủy chiến, đánh Mông cổ trên biển như đánh vịt quen rồi, nên muốn dùng sức
mạnh. Tôi nghĩ trường hợp này không nên.
Binh thư yếu lược có nói:
“Phàm dụng binh chi đạo,
Toàn quân vi thượng sách,
Phá quân thứ chi“.
Quân của Toa Đô trên
3 vạn. Hiệu Hàm tử vạn rưỡi. Mình có diệt được chúng cũng mất 5, 6 nghìn người.
Aáy là không kể ấp này sẽ bị cháy nhà, hoa mầu tan tác.
Phi nhìn Quốc Toản:
– Con được Thượng
hoàng khen là dùng binh như thần. Vậy con định sao?
– Ngày mai 20 tháng
5, là ngày nước sông Hồng ròng, mực nước xuống thấp nhất vào giờ ngọ, mùi,
thân. Đô đốc dấu các chiến thuyền của mình vào các nhánh sông nhỏ. Tôi ước tính
đoàn thuyền của Ô Mã Nhi sẽ đi trước. Đoàn của Toa Đô đi sau. Ta để cho đoàn
của Ô Mã Nhi đi qua. Bấy giờ đô đốc đổ chiến thuyền từ sông, lạch nhỏ ra chặn đường
tiến của Toa Đô. Khi đoàn của Toa Đô tới Hàm tử, đô đốc xua thủy quân đánh
chúng. Tôi sẽ sai Ngạc binh đục thuyền chúng. Thuyền chìm chúng phải ghé vào bờ
đổ bộ lên. Từ bờ sông tới đê khoảng 25 trượng (50 m) là vùng lầy lội, đầy hố nước. Chúng phải lội bùn tới bờ
đê. Tôi sẽ dàn Nỏ thần, cung thủ tại đê, đợi chúng lội nửa đường thì bắn. Bấy
giờ chúng tiến lên, hay lùi cũng chết. Trên bãi sông có bốn bờ đỗi tiến vào đê
không lầy lội. Có thể những tướng lĩnh của chúng dùng mộc đỡ tên, đổ bộ vào đê.
Tôi trấn một lối, mẹ tôi trấn một lối, bạch viên trấn một lối, vương phi Thanh
Nga trấn một lối; Như Vân điều quân giữ ấp. Tất cả trấn không cho chúng lên bờ.
Ngày 20 tháng 5 năm ất dậu (23-6-1285) niên hiệu Thiệu Bảo thứ 7 đời vua
Trần Nhân tông. Bên Trung nguyên là niên hiệu Chí Nguyên thứ 22 đời Thế tổ Hốt Tất
Liệt.
Tại Hàm tử, vương phi Ý Ninh, vương phi Trung nghĩa vương Thanh Nga, Hoài Văn hầu, phu nhân Trần Đại Như Vân đã bố trí quân
xong từ cuối giờ thìn. Ba binh Tế tác leo lên cây cao, nhìn về cuối sông Hồng.
Nước sông tiếp tục rút xuống. Sang giờ ngọ, Tế tác báo:
– Từ cuối giòng, một hàng thuyền kéo cờ Nguyên đang tiến tới. Chúng thúc
trống, khua chiêng vang vang.
Hơn khắc sau đoàn thuyền đi ngang qua Hàm tử. Tế tác báo:
– Tổng cộng 180 thuyền.
Phu nhân Như Vân biết đây là đoan thứ nhất của Ô Mã Nhi với Lưu Khánh. Đợi đoàn
thuyền đi xa, phu nhân cầm dùi đánh ba tiếng chiêng. Lập tức thuyền của hạm đội
Bạch đằng từ các nhánh sông nhỏ tiến ra sông Hồng. Các chiến hạm dàn ra thành 3 hàng, chặn đường tiến về trước. Thủy
quân vừa dàn xong thì Tế tác báo:
– Thuyền Nguyên ở cuối sông đếm không hết, đang tiến lên. Chúng thúc trống,
khua chiêng.
Đoàn thuyền Nguyên tới khúc Hàm tử thì đoàn chiến thuyền Bạch đằng dàn
ngang. Thuyền nguyên cũng dàn ngang. Nhưng sông hẹp quá, mỗi hàng chỉ được 5
chiếc. Đây là những thuyền chở bộ binh, kị binh. Binh sĩ không quen thủy chiến.
Bước lên sàn thuyền, thuyền chòng chành, ngã xiêu, ngã lộn. Trong khi chiến sĩ
thủy quân Bạch đằng là những người sinh ra, lớn trên biển, luyện tập quen. Họ
tung mình sang thuyền Nguyên, chém giết như chém bầy heo. Chỉ không đầy một
khắc, bốn hàng chiến thuyền Nguyên bị chiếm.
Thình lình quân Nguyên kêu thét lên:
– Thuyền thủng đáy, nước tràn vào thuyền.
– Thuyền chìm.
Những người lái thuyền thấy thuyền chìm thì áp vào bờ. Không có cầu leo
lên, mạnh ai nấy nhảy xuống sông, lóp
ngóp lội vào bờ. Cả một khúc sông lố nhố đầy người. Một số đã vào được bờ. Vũ khí không, giáp trụ không, cung tên
không. Tất cả đưa mắt nhìn vào con đê cao vòi vọi. Phía sau thủy quân Việt đang
bắn như bắn vịt.
Tiểu Lý nói với Toa Đô:
– Quân mình là quân bộ, quân kị, không địch lại bọn thủy quân Bạch đằng.
Chúng dùng Ngạc binh đục thuyền. Bây giờ mình phải tiến quân lên đê rồi chiếm
mấy ngôi làng, sau đó tiến về Thăng long.
Toa Đô hỏi một tên hướng đạo người Việt:
– Đây là đâu? Trên bờ có quân Việt không?
Thình lình trống thúc vang dội! Trên ba cây cao cạnh bờ đê ba ngọn cờ Đại
Việt kéo lên. Trên bờ đê hơn mười cây cờ mang chữ:
Phá cường địch báo hoàng
ân.
Tên dẫn đường kinh hoảng hét lên:
– Trên bờ có hiệu binh Hàm tử. Hiệu này do Hoài Văn hầu thống lĩnh.
Toàn thế binh tướng Nguyên từng nghe đồn đại về hiệu binh Hàm tử với Hoài Văn
hầu, hiệu Tứ thần với Hoài Nhân vương. Bây giờ giữa lúc họ đang bị chìm thuyền,
lội lõm bõm ở bờ sông, tìm cách lên bờ đê thì trên bờ đê lại xuất hiện hiệu Hàm
tử.
Phía sau thủy quân Việt vẫn nã tên veo véo.Toa Đô lăm lăm đoản đao, men
theo một bờ đỗi. Tiểu Lý men theo một bờ đỗi. Quân sĩ xếp hàng theo sau. Một số
lội ruộng tiến vào đê, tránh tên của thủy quân Việt.
Thình lình một tiếng keng vang lên. Trên đê cung thủ Việt xuất hiện bắn
xuống. Binh tướng Nguyên kêu thét lên kinh khủng. Toa Đô, Tiểu Lý nhấp nhô mấy
cái đã lên được đê. Tiểu Lý gặp một tướng
trẻ, thân thể hùng vĩ chính là Quốc Toản. Quốc Toản đánh một chiêu, y bị bay
tung xuống sông. Y bơi lóp ngóp lại một con thuyền chìm, phần trên nhô trên mặt
nước. Hoài Văn hầu lại đánh ba chiêu liền, tất cả binh sĩ theo sau Tiểu Lý bị bay
tung xuống ruộng.
Toa Đô dẫn đầu một đội quân, vừa lên được đê thì gặp bạch viên. Bạch
viên xáng một côn sắt. Toa Đô khinh thường
dùng đao gạt. Choang một tiếng, đao của y suýt vuột khỏi tay. Cánh tay y tê
rần. Y vọt mình lên đê. Bạch viên lại vung côn tấn công. Toa Đô là một tướng võ
công cao nhất quân Nguyên. Hồi đánh Tống, đánh Nhật, không một tướng nào chịu
của y được quá 20 chiêu. Còn bạch viên thì công lực thâm hậu, nhưng chiêu số
chỉ có giới hạn. Quân Nguyên theo sau Toa Đô đã lên được trên đê khá đông, đang
giao chiến với quân Hàm tử. Thanh Nga trấn trên một bờ đỗi. Kiếm thuật của phi
khá tinh vi, nên không một tên lính Nguyên nào lên được đê. Tại bờ đỗi vương
phi Ý Ninh trấn, quân Nguyên, tướng Nguyên nào cũng chỉ chịu được 2, 3 chiêu là
mất mạng.
Hoài Văn hầu đánh bay Tiểu Lý rồi, thì không còn tướng nào dám tiến lên.
Thấy bạch viên bắt đầu yếu thế, hầu hú lên một tiếng lanh lảnh, vọt mình tới.
Còn ở trên không hầu rút thanh kiếm Trấn bắc xỉa vào giữa làn đao quang của
y. Choảng một tiếng, cánh tay Toa Đô tê
rần, đao suýt vuột khỏi tay. Y cảm thấy chân khí bị mất hết. Y nhảy lùi lại,
quát lên:
– Phải chăng mi là Trần Quốc Toản?
– Chính thị.
– Uổng cho mi là đệ nhất cao thủ An Nam, mà hai người đánh một. Nếu mi là
anh hùng hãy cùng ta đơn độc đấu.
Quốc Toản cười nhạt:
– Bạch viên đâu phải người? Mi muốn đơn đấu ư? Được, nếu mi thắng ta, ta sẽ
mở vòng vây cho tất cả binh tướng của mi rời đây.
Toa Đô cũng đánh cuộc:
– Ngược lại nếu mi thắng ta thì ta đầu hàng An Nam cùng với tất cả binh tướng.
Bạch viên tung mình leo lên chót vót cây đa bên cạnh.
Như Vân cầm cờ phất, quân Hàm tử, lui vào trong làng, nhưng vẫn dàn trận
nghiêm chỉnh. Quân Nguyên ào ào lên đê. Toa Đô nhìn binh tướng của mình, hơn 3
vạn, mà bị thủy quân giết, bị chết đuối, bị tên bắn ở bờ đê, chỉ còn hơn vạn, y
phục tả tơi, vũ khí không còn.
Y đứng thủ thế:
– Nào mời!
Hoài Văn hầu biết đây là một kỳ tài võ học, cần phải giết y để bớt một mối nguy
cho binh tướng Việt. Hầu xuất chiêu: Lâm trung kiến ngưu, một chiêu cực kỳ phức
tạp trong bộ Tán lạc tiêu hồn chưởng. Toa Đô thấy chưởng đối phương như có như
không. Y vận đủ mười thành công lực đỡ. Xèo, kình lực của y biến mất. Y đánh
một chiêu trong bộ Thái cực chưởng mà y
học được của võ lâm Trung nguyên, chân từ Càn
vị bước sang Trấn vị. Quốc Toản phát chiêu Phản bản hoàn nguyên đỡ. Hai chưởng
chạm nhau, hầu cảm thấy như đánh vào bị bông. Kinh hãi hầu nghĩ:
– Thái cực chưởng là chưởng đặt căn bản trên Dịch lý, thì Mục ngưu chưởng không phá được. Hầu lui lại
sau, tay vòng ra lưng móc cái chài. Hầu dùng Thiên la thập bát thức, chân từ Khôn
vị, bước sang Đoài vị. Chài chụp lên đầu Toa Đô. Toa Đô kinh hoàng tay rút
kiếm. Kiếm rít lên vo vo. Đấu được trên trăm chiêu, thấy Thiên la thập bát thức
không khống chế được Thái cực kiếm. Quốc Toản quẳng chài, tay rút thanh Trấn
bắc. Hầu dùng Mê linh kiếm pháp. Lại hơn trăm chiêu, vẫn không thắng đối thủ.
Thình lình Toa Đô xả một chiêu rất thô kệch. Vương phi Ý Ninh đứng lược trận,
nhắc con:
– Kiếm pháp Hồi cương.
Bất đắc dĩ Quốc Toản phải trực diện đỡ. Chít một tiếng, kiếm của Toa Đô bị đứt
tận chuôi. Biết nguy, y lao đầu vào Quốc Toản, hai tay bóp cổ hầu. Lúc tay y dơ
lên, hầu xỉa kiếm vào nách phải y. Kiếm xuyên thủng áo giáp từ ngực xéo xuống bụng.
Quá đau, y bóp cổ hầu. Bạch viên ở trên cao
thấy chủ lâm nguy, nó nhảy xuống, tay xáng một côn vào lưng Toa Đô. Bốp,
xương sống Toa Đô bị dập, y buông Quốc Toản ra, người lảo đảo. Hầu rút kiếm
khỏi thân y, đưa một nhát, đầu y rơi xuống đất.
Tiểu Lý thấy Toa Đô chết, y rút kiếm tự tử. Phu nhân Như Vân hô lớn:
– Ngừng tay!
Nàng đánh một chưởng, khiến kiếm
của y văng ra xa. Như Vân điểm huyệt rồi nắm tay y:
– Tướng quân! Được thua là
truyện thường tình của binh gia. Huống hồ tướng quân là người Hán, việc gì phải
chết cho Thát đát.
Như Vân phất cờ, quân Hàm tử bao vây đám quân Nguyên trên đê. Vương phi Ý
Ninh hô bằng tiếng Hoa vùng Kinh hồ, Lâm an:
– Đầu hàng thì được tha chết.
Đám quân Nguyên quẳng vũ khí quỳ gối xin hàng.
Phu nhân Như Vân ra lệnh cho quân Hàm tử:
– Đây là những tinh hoa của tộc Hán, bị rợ Thát đát đem sang đây chịu chết.
Hãy đối xử tử tế, nuôi ăn thực chu đáo.
Đô đốc Võ Văn Sáu báo cáo:
– Thưa vương phi, thuộc hạ bắt được
72 thuyền của Nguyên, cầm tù 8 nghìn người.
Đạo binh Hàm tử cũng thu được hơn
một vạn binh đầu hàng. Sau khi cho tù binh ăn uống với thịt cá ê hề. Như Vân chuyển
họ xuống hạm đội Bạch đằng chở về Thăng long.
Có sứ giả của Thượng hoàng tới. Vương phi Ý Ninh hỏi:
– Mặt trận Tây kết thế nào?
Sứ giả trình:
– Ô Mã Nhi với đoàn thuyền chở quân đổ lên Tây kết. Khi đổ một nửa thì bị
hai hiệu binh Tiền thánh dực, của Hưng Trí vương Quốc Hiện,
hiệu binh Tả thánh dực, của Hưng Hiếu vương Quốc Uy ép hai bên.
Trên sông hạm đội Thăng long với đội Ngạc binh đánh đắm gần hết các thuyền chở
quân. Ô Mã Nhi xung sát thì gặp Hưng Ninh vương. Vương chỉ đánh 10 chiêu, y lạc
bại, bị vương điểm huyệt. Biết vương là bồ tát tại thế, y niệm:
– Nam mô Tuệ Trung
bồ tát. Xin bồ tát mở lượng từ bi đại xá cho đệ tử.
Vương hạ lệnh:
– Nếu hô tất cả binh
tướng đầu hàng ta sẽ tha chết.
Ô Mã Nhi làm theo.
Giữ lời hứa, vương cấp cho Ô Mã Nhi với Lưu Khánh một con thuyền, trên có 10
thủy thủ Mông cổ, cùng lương thực, nước ngọt, rồi cho hạm đội Thăng long hộ tống y tới bờ biển.
Sứ giả nói:
– Triều đình biết
quân hầu sẽ thắng, nên sai tôi tới thưa với hầu: đem tù binh về Thăng long.
Thỉnh hầu về Thăng long nghị sự.
Hầu hỏi vương phi Ý
Ninh, Thanh Nga:
– Hai mẹ có về Thăng
long không?
Vương phi Ý Ninh lắc
đầu:
– Vai vế trong họ
của bố, địa vị bố quá lớn. Mẹ về, triều đình phải đón tiếp phiền phức quá. Mẹ
không về đâu. Con với Như Vân về được rồi. Mẹ ở đây với bà nội. Sau trận này uy
tín, công lao của con quá lớn. Nhớ, phải thực nhũn nhặn, bằng không triều đình
sẽ cho rằng con kiêu căng.
– Mẹ ơi! Con là cháu
nội của một ông vua uyên thâm Phật pháp mà! Mẹ khỏi lo.
Quốc Toản, Như Vân
về tới Thăng long giữa lúc triều đình thiết triều. Hầu bưng cái hộp đựng đầu
Toa Đô đâng cho hoàng đế Thiệu Bảo. Hoàng đế để hộp giữa án thư, rồi mở ra cho
triều đình xem. Ngài nói:
– Làm tôi phải nên
như người này.
Rồi ngài lấy áo long
bào trùm lên hộp, ban chỉ cho Tổng thái giám:
– Khanh hãy về Hàm
tử lấy thây người này, ráp với đầu, rồi chôn cất tử tế, để sau này vợ con người
ta sang, còn biết nơi chôn cất, mà cải táng mang về.
Hoài Văn hầu nghĩ
thầm:
– Trong nhà mình đã
có ông bác là Tuệ Trung bồ tát, thêm ông vua Thiệu Bảo này là đệ tử
của ông bác, nhân từ hiếm có!
Về phần Hoài Văn
hầu, đau xót vì Hoài Nhân vương tuẫn quốc. Hầu hỏi Thượng hoàng bằng ngôn từ
bình dân:
– Thưa chú! Kể từ
khi viễn tổ Tự An ban luật:
“ Người trong giòng hộ Đông a tuyệt đối không được giết nhau.
Tuyệt đối không để người ngoài giết người trong giòng họ trước mặt mình“.
Chính vì vậy mà chú
ban chỉ ân xá cho ông Trần Di Ái, các chú Trần Văn Lộng, Trần Quang Kiện, Trần
Tú Hoãn về tội bắt cóc cháu, mưu xóa bỏ chứng cớ làm gian tế cho Mông cổ. Từ
khi cháu học được bản lĩnh thừa sức chặt cổ bọn bắt cóc mình, nhưng tuân chỉ
chú, cháu đành ngậm bồ hòn. Thế rồi ông Di Ái phản quốc, các chú Tắc, Lộng,
Kiện, Hoãn đâm sau lưng tộc Đông a, đâm sau lưng binh tướng hy sinh vì triều đình.
Thảm thiết hơn nữa chú Ích Tắc đang tâm giết em ruột là cô An Tư, cháu ruột là Quốc
Kiện. Không biết bây giờ cháu có thể tìm chú ấy, để xử tội không? (3)
Thượng hoàng còn đang
suy nghĩ thì Hưng Ninh vương trả lời:
– Quốc Toản ơi! Cháu
có tin rằng bác yêu thương cháu không?
– A Di Đà Phật, cháu
biết bác là bồ tát, lòng dạ rộng hơn biển.
– An Tư chết, Quốc
Kiện chết, chẳng qua là số phận, nghiệp quả
do kiếp trước để lại. Nếu cháu tìm chú Ích Tắc, giết chú ấy thì nghiệp
quả của cô An Tư, của Hoài
Nhân vẫn chưa hết.
– Thưa bác, hiện bà
nội cháu là Tuyên cao thái phi, ngày đêm thương nhớ cô An Tư, thân thể hao mòn.
Cháu nghĩ chỉ có cái đầu chú Ich Tắc mới có thể để cho bà nội cháu nguôi mối thương
tâm.
Như Vân bước ra xin
tâu. Thượng hoàng vẫy tay:
– Cháu là vợ Quốc
Toản, thì là người tộc Đông a. Cháu cứ tâu.
– Chú là Thượng
hoàng Đại Việt. Chú ban chỉ ân xá cho những
người như chú Tắc, Kiện, Lộng, Hoãn thì chỉ có hiệu lực trong lãnh thổ Đại Việt.
Nếu chú vẫn quyết tâm nhẹ tay với mấy người đó thì cháu tin rằng anh
Quốc Toản sẽ nhờ phụ vương cháu, hiện đang thống lĩnh Cần vương Tống xuống tay. Hoặc giả
bố Nhật Duy, mẹ Ý Ninh của chúng cháu ra
tay, e còn kinh khiếp hơn nữa.
Nghe Như Vân nhắc đến
Vũ Uy vương, cả triều đình đều ớn xương sống. Như Vân tâu tiếp:
– Vương mẫu Thanh
Nga, Ý Ninh mới từ Trung nguyên về Hàm tử vấn an bà nội. Hai vị có dự trận Hàm
tử. Sau buổi thiết triều này cháu sẽ về khải với hai vị, để hai vị sang Trung nguyên
hành sự. Cháu cam đoan rằng chú Ích Tắc ba đầu sáu tay cũng bị vương mẫu Ý Ninh
chặt hết. Sớm thì một tháng, trễ thì nửa năm.
––––––––––––––––––––––––––––
(1). Về
cái chết của Hoài Nhân vương
Quốc Kiện, các sách sử chép lầm là Hoài Văn hầu
Quốc Toản. Nguyên do sách Kinh thế đại điển tư lục đã lầm chữ Nhân thành chữ Văn.
Nguyên
sử, q.209, An nam truyện chép:
“Quan
quân (chỉ quân Nguyện) rút đến sông Như nguyệt
Nhật
Huyên (vua Thánh tông) sai Hoài Văn hầu đến đánh“.
Kinh thế
đại điển tư lục chép:
“Thoát
Hoan chạy đến sông Như nguyệt, Nhật Huyên sai Hoài Văn hầu đuổi theo. Giết được
Hoài Vân hầu“.
Thế rồi
các sách cứ theo Kinh thế đại điển tư lục chép lại. Do lầm chữ Nhân thành chữ Văn.
Rồi quyết rằng Trần Quốc Toản tuẫn quốc tại sông Như nguyệt.
ĐVSKTT
chép về hội nghị Bình than (1282) ghi rằng khi Hoài Văn hầu tử trận, vua rất thương
tiếc, truy phong tước vương. ĐVSKTT không chép rõ Hoài Văn hầu tử trận năm
nào!Tại đâu?
Ngày
mà Kinh thế đại điển tư lục chép Hoài Văn
hầu bị giết là ngày 6 tháng 5 năm Ất dậu (10-06-1285). Trong khi gia phả của
Chiêu quốcvương, chính vương chép:
“ Trận Như Nguyệt, ngày 6-5, niên hiệu Chí nguyên thứ 22,
Quốc Kiện đuổi theo chú, buông lời vô lễ. Giết Quốc Kiện“.
Rõ ràng Ích Tắc thuật mình giết Hoài Nhân vương
thì sai thế nào được.
Các gia phả
của giòng Hưng Nhượng vương, Hưng Vũ vương, chính gia phả của Chiêu Quốc
vương đều chếp Quốc Toản giết Toa Đô, bắt Ô Mã Nhi.
Nếu Quốc
Toản tuẫn quốc ngày 6 tháng 5, thì sao ngày 20 tháng 5, tức 14 ngày sau vương
có thể giết Toa Đô ở Hàm tử? Rồi chính vương đánh bay Ô Mã Nhi xuống sông Bạch đằng,
Đỗ Hành dùng câu liêm móc y lên chiến thuyền bắt sống y vào ngày 8 tháng 3 năm Mậu tý
(9-4-1288)? Tức gần 3 năm sau.
Trong
các gia phả đều chép ngày giỗ Hoài Nhân vương Quốc Kiện là 6 tháng 5. Ngày giỗ của Hoài Văn vương Quốc Toản là 18 tháng 9.
Tôi
chỉnh lại một sai lầm lớn của lịch sử với tất cả dè dặt.
Tra trong Nguyên sử,
Việt sử, gia phả chúng tôi ghi nhận Hoài Văn vương là tướng vô địch, đánh đâu
thắng đó. Vương đã đánh các trận sau.
– Một là trận Đâu đỉnh,
chặn đạo quân dùng thượng đạo đánh úp Chi lăng, do Lý Hằng, Ô Mã Nhi chỉ huy.
(Cùng Hoài Nhân vương)
– Hai là trận trấn
Thăng long chặn không cho Mông cổ chiếm Thăng long (cùng Hoài Nhân vương).
– Ba là trận cứu
viện Chiêu Văn vương ở Thanh hóa (Cùng Chiêu Minh vương)
– Bốn là trận tái
chiếm Trường yên (Cùng 2 vua, Khâm Từ hoàng hậu)
– Năm là trận Tây
kết (Cùng Hoài Nhân vương)
– Sáu là trận tái
chiếm Thăng long (Cùng Chiêu Minh vương, Chiêu Văn vương, Hoài Nhân vương)
– Bẩy là trận truy
Thoát Hoan ở Như nguyệt (Cùng Hưng Đạo vương, Hưng Ninh vương, Hoài Nhân vương).
– Tám là trận Hàm
tử, giết Toa Đô (cùng nhiều tướng)
– Chín là trận Bạch đằng
bắt Ô Mã Nhi (cùng nhiều tướng)
Gia phả của giòng Hưng Vũ vương, Hưng Hiếu vương, Nhượng
vương, Hưng Trí vương, gia phả của con cháu Hoài Văn vương ở Phúc kiến đều có bài
tán giống nhau như sau:
Tam tổ thị Hoài Văn,
Trí dũng thực vô biên,
Niên thiếu cam thống khổ.
Lao tù tại Trường
yên.
Ngự tứ Trấn bắc
kiếm.
Cửu độ phá ác Nguyên
Truy Thoát Hoan Như nguyệt
Hàm tử trảm Toa Đô.
Bạch đằng cầm Ô Mã.
Di dức vạn vạn niên.
Tạm dịch:
Tổ thứ ba Hoài Văn,(1)
Trí, dũng thực vô
cùng.
Thời niên thiếu
thống khổ,
Bị cầm tù tại Trường
yên (2)
Được ban kiếm Trấn Bắc,(3)
Chín trận phá giặc
Nguyên,(4)
Đuổi Thoát Hoan Như
nguyệt,
Trận Hàm tử giết Toa
Đô, (5)
Trận Bạch đằng bắt Ô
Mã i,(6)
Để đức lại vạn năm.
1. Các gia phả con cháu họ Trần chia làm 3: một là Đế
phái, tức hậu duệ các vua. Hai là Thánh phái, hậu duệ của Hưng Đạo vương. Ba là
vương phái, hậu duệ của chư vương. Gia phả con cháu Trần Quốc Toản thuộc Đế
phái. Nên chép tổ thứ nhất là vua Trần Thái tông. Tổ thứ nhì là Vũ Uy vương. Tổ
thứ ba là Hoài Văn vương. Như con cháu Minh Trí hầu Trần Linh thuộc Vương phái.
Vì hầu là con của Hưng Ninh vương. Như họ Đặng ở Hành thiện, Nam định thuộc
Thánh phái, vì là hậu duệ của Hưng Hiếu vương Quốc Uy, con thứ ba của Hưng Đạo vương.
2. Sử không chép vụ Trần Quốc Toản
bị Trần Di Ái, Trần Quang Kiện, Lê Tắc bắt giam ngài tại
Trường yên. Vụ việc này chỉ chép trong gia phả.
3. Chỉ Trần Quốc Toản được vua ban cho thanh kiếm Trấn Bắc.
4. Chín trận đã chép ở trên.
5. Quốc Toản đánh trận Hàm tử, Bạch đằng, chứng tỏ ngài
không tuẫn quốc như sách Kinh thế đại điển tư lục chép.
Đầu thế kỷ thứ 20, nhà thơ Phan Kế Bính có làm lài thơ ca tụng vương, được chép
trong các sách giáo khoa dành cho học sinh cấp tiểu học, nay là cấp 1.
Giỏi
thay Trần Quốc Toản,
Tuổi trẻ
dư can đảm.
Dốc bụng
báo hoàng ân,
Cả gan
bình quốc nạn.
Cờ bay
giặc hãi hùng.
Giáo trở
Nguyên tan rã,
Lừng lẫy
tiếng anh hùng.
Giỏi
thay Trần Quốc Toản.
Gia phả
của con cháu Hưng Vũ vương (con trưởng của Hưng Đạo vương) còn chép thêm 4
chiến công của Hoài Văn vương nữa là 13:
– Trợ
Chiêm, bắt gian vương
Chiêm,
– Đánh
trận Hỏa giáp, phá đạo quân Sài Thung, bắt gian vương Di Ái.
– Đánh
chặn Thoát Hoan ở Bắc cương (cùng Vũ Uy vương).
– Giải
phóng Thăng long.
Vì vậy
mới có câu :
Hoài Văn thập tam chiến,
Uy vũ chấn Trung nguyên.
Nghĩa
là: Hoài Văn vương thắng 13 trận, oai rung động Trung nguyên.
(2). Dã sử, huyền sử Việt đều nói rằng Thoát
Hoan, Ích Tắc bị Trần Quốc Toản, Dã Tượng ném đá truy kích mấy trăm dặm. Hai người
phải chui vào váy của vợ Thoát Hoan,
Lý Hằng mới thoát chết. Từ đấy trong dân gian có câu tục ngữ: núp váy vợ. Hoặc
chửi tục: Đồ hèn! Núp váy vợ. Khi viết đến đây tôi đẳn đo: có nên chép sự kiện
dơ bẩn này vào bộ sách thuật hành trạng của những anh hùng bậc thánh của Đại
việt không? Sau khi tham khảo ý kiến cua 50 độc giả, 50 văn hữu, tất cả đều đồng ý thuật lại, vì đó
là nguồn gốc một từ ngữ dân gian. Một nét văn hóa gần nghìn năm của người Việt.
Tội Trần
Ích Tắc quá nặng với Đại việt.
Sau
khi Thoát Hoan đại bại, rút về năm 1288, Nguyên Thế tổ Hốt Tất Liệt đầy y ra Dương
châu. Bọn triều thần tâu những công lao làm gian tế của Ích Tắc, nhà vua ban
cho chức Bình chương sự ở Ngạc châu (Hồ quảng), tương đương với ngày nay là Trợ
lý chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh. Lại ban cho 500 mẫu ruộng. Thế tổ băng, Thái
tử Chân Kim lên kế vị tức vua Thành tông, nhớ tội Ích Tắc làm hại Ngọc Kỳ, nhà
vua ban chỉ thu lại số ruộng trên. Gia thuộc trải qua một thời kỳ túng thiếu, đến
nỗi phải đi đánh cá sinh sống. Năm 1308 Nguyên Vũ Tông lên ngôi, xét lại sử cũ,
thấy Ích Tắc gìa nua, thương tình lại ban cho số ruộng cũ. Trong bài chiếu, có đoạn:
“Vớt
kẻ đắm thuyền, cứu người chết cháy là điều nên làm.
“ Xét công lao Ích Tắc là người từng
theo quân vương 2 lần, ban lương ăn, tối sống nhờ trọ; ở bên hồ gần 30 năm, thờ
trải 4 triều, chi vẫn không sai tiết cũ“.
Đứng trên phía Nguyên, thì là điều vua tỏ lòng
thương xót kẻ bán nước theo Nguyên. Nhưng đứng trên lòng người Việt, đây là áng
văn phỉ nhổ. Sau Ích Tắc chết ở Ngạc châu, thọ 70 tuổi, vua Nguyên ban thụy là Trung mẫn.
(3). Ích Tắc bội cha, phản anh chỉ vì muốn được
giặc ban cho cái danh An Nam quốc vương. Aáy vậy mà y còn tỏ ra mặt dầy, khi
làm bài thơ tự biện hộ: mình theo Nguyên không giống Tấn Văn công bôn ba hải
ngoại, muốn làm chúa Tấn. Mà giống như Vi tử Khải hàng Võ vương để giữ gìn lăng
tẩm tiên vương.
Xuất quốc,
Đương
niên trượng nghĩa xuất Nam bang,
Cảnh
cảnh đan ai đối bỉ sương.
Bất thị
Văn công đào Tấn nạn (a)
Thứ cơ
Vi tử kế Ân vong.(b)
Cơ cừu
vị dẫn tiền nhân chí.
Giản
sách tư lưu hậu thế phương!
Hoàn vũ
xa thư hội đồng nhật,
Cố gia
tông tự Việt sơn trường.
Bỏ nước,
Năm xưa vì nghĩa bỏ Nam bang,
Phơi với trời xanh tấm dạ vàng.
Nào phải vua Văn lo nạn Tấn,
Những mong ông Khải nối giòng vong.
Cơ cừu hai chữ lòng tiên tổ,
Sử sách muôn đời tiếng vẻ vang.
Bốn bể thông đồng khi gặp hội,
Nước còn đồi núi, lửa còn hương.
(a)
Thời Xuân thu, Chiến quốc, Tấn linh công sủng
ái một cơ thiếp. Bà này muốn giết các con chồng là Thái tử Lịch Sanh, Trùng
Nhĩ, để dành ngôi vua cho con mình. Bà cùng gian thần giả chỉ dụ của Linh công
gọi Lịch Sanh về rồi ban chỉ giết. Lịch Sanh biết lệnh giả, vẫn về, chịu chết để
được tiếng là tử hiếu, thần trung. Em Lịch Sanh là Trùng Nhĩ, bỏ nước lưu vong.
Sau mượn quân Tần về chiếm lại ngôi, tức Tấn Văn công. Ích Tắc tự ví mình theo Nguyên, không phải giống Lịch
Sanh, mưu cầu ngôi vua. Trong khi sự thực Ích Tắc muốn tranh ngôi với Thánh
tông.
(b)
Vi Tử Khải, con vua Trụ. Khi Võ vương phạt
Trụ. Vi tử Khải xin hàng, mong được tha mạng, để gìn giữ lăng tẩm tổ tiên,
và muốn sống để nối dõi dòng giống. Võ vương
chuẩn cho.
Thế nhưng
thực tế, Thoát Hoan sai binh lính quật lăng vua Thái tông, đem xương vứt ra đồng
cho chó tha. Nhưng đó là lăng giả. Vậy mà Ích Tắc vẫn cúc cung trung thành với
Nguyên.
Suốt
trong chiều dài 5 nghìn năm lịch sử, mỗi lần các triều đại Trung nguyên muốn
thôn tính Đại việt, họ đều tìm những kẻ ngu xuẩn, vô tài, bất đức, rồi lên mật
nhân nghĩa trợ giúp. Chưa một lần nào bọn vong quốc này thành công, và mưu đồ
của Trung nguyên đạt được.
Gần đây
nhất, Việt gian Hoàng Văn Hoan, tranh quyền với nhóm Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, bị thất bại, trốn sang Trung quốc, mưu
cầu thế lực Trung quốc về ngồi lên đầu, lên cổ dân Việt. Cuối cùng chết trong
cô độc. Hồn bay phiêu phưởng làm ma đói ở Bắc kinh.
Ấy thế
mà khi thấy Hoan chạy sang Trung quốc, bọn lưu manh thất nghiệp, chết đói ở
Paris, đội tên cộng sản cù lần, nửa mùa Trương Như Tảng lên đầu,
kéo sang Bắc kinh, quỳ gối bái tên Hoàng Văn Hoan làm lãnh tụ, xin Trung quốc
cho tiền, cho súng về nước giết cha, giết mẹ. Trung quốc không thí cho một tệ, đuổi
về. Kinh tởm hơn nữa tên ký giả Cậu Chó (Tô Văn) từ Mỹ sang Pháp cúc cung theo
mấy tên lưu manh hề. Chẳng được đồng nòo, bị đánh thuốc độc bán thân bất toại,
chết trong ô nhục.
Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét