Thứ Năm, 19 tháng 7, 2012

Anh hùng Đông A – Gươm Thiên Hàm Tử - Hồi 107

HỒI THỨ MỘT TRĂM LẺ BẨY

Trận Hàm tử giết tươi Toa Đô
(Bình Ngô đại cáo)

Đến  đó Lý Quán vào trình:
– Thần tiếp nhận thương binh. Tất cả 13.215 người. Thần đã chuyển tới trại điều trị. Binh sĩ từ  Trường yên, Tây kết, Chương dương chạy về gồm 35.200, tất cả đều mất giáp, trụ, vũ khí. Như vậy sau 3 trận Trường yên, Tây kết, Chương dương mình có gần 5 vạn người bị loại ra khỏi vòng chiến.
Tế tác báo:
– Đạo quân Toa Đô đang bị khốn ở Thanh hóa.
A Lý Hải Nha lệnh cho Ô Mã Nhi:
– Trong lúc chiến thắng, bọn Việt không đề phòng.Tướng quân đem 1 nghìn 3 trăm quân Thiết đột dùng thuyền vào giải vây cho Toa Đô. Sau khi thoát vòng vây thì tiến ra đây, cùng truy tìm bọn Trần Huyên.
Nhìn đoàn thương binh được khiêng vào trại, A Lý Hải Nha la lên:
– Chết rồi, ta bị trúng độc kế của bọn Man Việt rồi!
Chư tướng kinh ngạc:
– Trúng độc kế?!?!?!
– Trong suốt ba trận, binh tướng Nam Man đều hô lớn bằng tiếng Mông cổ, tiếng Hán: quẳng vũ khí sẽ được tha chết. Quả nhiên người nào quẳng vũ khí thì chúng tha không chém giết. Khi quân ta chạy ra phù kiều, chúng cũng hô như vậy. Bây giờ ta có tới hơn ba vạn quân không còn giáp trụ, không còn vũ khí, nếu chúng đến tấn công thì tay không đánh đâu lại chúng? Chúng lại giả nhân, giả nghĩa đem trao trả thương binh cho ta. Bây giờ ta có rút quân cũng phải  để ra 6 vạn người tải thương. Thực là thâm độc cùng cực.
 
Vừa lúc đó thì em ruột của Thoát Hoan là Vân nam vương Hốt Khê Xích, mới từ Vân nam, chuyên chở lương đến cho đạo binh của Nạp Tốc Lạt Đình . Y than với Thoát Hoan:
– Em mới được tin đại ca thắng như chẻ tre, nên đem lương thực tiếp tế. Em phải hy sinh hơn 3 nghìn kị binh, mới mở được vòng vây đến đây. Không ngờ các căn cứ Thăng long, Tây kết, Đông bộ đầu, Chương dương bị phá.

Thoát Hoan đóng quân ở Kinh bắc suốt mười ngày, vô kế khả thi. Hằng ngày vẫn có quân bị thất lạc kéo về trình diện. Lương thực hết sạch, phải nhờ Trần Ích Tắc sai gian quan đi thu của dân. Trần Ích Tắc kinh ngạc khi thấy dân vui vẻ cung ứng trâu, bò, lợn, gà, vịt, gạo, ngô, khoai, sắn, cá khô, mực khô, tôm khô đầy đủ.
Được nửa ngày thì quân báo với  A Lý Hải Nha:
– Toàn thể binh tướng đều bị tiêu chảy. Giống hệt quân ở Tây kết, Chương dương, Thăng long. Nếu giặc tới thì không còn sức chống. Quân y sĩ nói: tiêu chảy không do dịch, không do thời khí, mà do trúng độc thực phẩm. Quân y sĩ cho biết, độc từ gạo, ngô, khoai, sắn do quân của An Nam quốc vương cung cấp. Y sĩ đã đưa ra cách giải độc: thuốc độc này bọn Man Việt đã trộn với gạo. Muốn giải độc chỉ việc vo gạo thực kỹ thì không sợ gì nữa.
A Lý Hải Nha ban lệnh:
– Vụ gạo bị tẩm độc, không được phổ biến. Mình cứ giả như không biết để chúng tiếp tục cung cấp. Như vậy mình mới có lương ăn. Nếu chúng biết mình khám phá ra, chúng sẽ đổi thuốc thì nguy!
Tế tác của đao quân Vân nam báo với Hốt Khê Xích:
– Quân Man Việt đóng chặn các ải Phù lỗ, Cụ bản, Bình lệ nguyên. Đường về Vân nam không còn.
Tế tác của đạo trung quân báo:
– Đường từ Kinh Bắc về Tư minh bị khóa chặt vô cùng, 4 hiệu binh đóng tại Kiếp bạc. Một hiệu tại Nội bàng, một hiệu tại Chi lăng. Một hiệu tại Khâu ôn, Khâu cấp. Một hiệu tại Khả lan vi, Đại trợ. Hai hiệu Hàm tử,  Tứ thần thì chặn ngay ở bắc sông Như nguyệt do đích thân Hưng Đạo vương, Hưng Ninh vương chỉ huy. Ở  phía nam, Toa Đô, Ô Mã Nhi đã phá vòng vây nhưng không được. Cả hai đang dùng thuyền vượt biển vào sông Hồng đang tiến đến đây.
Thân vương Hốt Khê Xích bàn:
– Tình thế này, ta đánh thì không còn lương, vũ khí thiếu, lam chướng gây bệnh, muỗi, đỉa hành hạ, thần trí binh tướng mất hết; chi bằng ta rút binh, chỉnh đốn lại những vạn phu bị tổn thất, rồi sẽ sang trả thù sau.
Các tướng đều tán thành.
Thoát Hoan than:
– Thôi thì đành vậy. Ta chuẩn bị. Hai ngày nữa, rút quân.
A Lý Hải Nha họp chư tướng ban lệnh:
– Đạo binh Vân nam rút theo đường tiến quân. Phải cẩn thận khi qua Cụ bản, Phù lỗ, Bình lệ nguyên. Tối đề phòng truy binh. Đại vương Hốt Khê Xích và tướng Nạp Tốc Lạt Đình chỉ huy cánh quân này.
Nạp Tốc Lạt Đình đề nghị:
– Cuộc chiến khủng khiếp vừa qua, cánh quân Vân Nam không bị tấn công, tinh lực còn nguyên. Chúng tôi xin rút ngay sáng mai.
– Được.
– Còn lại thì chia làm bốn cánh rút lui.
– Cánh thứ nhất, đại vương Giảo Kỳ với các tướng Lý Quán, Đường Ngột Đải chỉ huy 4 vạn phu đóng ở Kiếp bạc đem theo thương binh, đi đầu.
– Cánh thứ nhì Hữu thừa Khoan Triệt với các tướng Mang Cổ Đái, Bôn Kha Đa, Nạp Hải, Tôn Lâm Đức, chỉ huy 4 vạn phu đóng ở bắc Như nguyệt rút thứ nhì.
– Cánh thứ ba, binh bộ thị lang Diệc Hắc Mê Thất với các tướng Bột La Cách Đáp Nhĩ,  Kiết Tiết Tán Lược Nhi, Lý Bang Hiến chỉ huy 4 vạn phu đóng ở Kinh bắc rút thứ ba. Trấn Nam vương, với bộ tham mưu; An Nam quốc vương với các hàng tướng Việt đi theo đạo binh này.
– Bốn vạn phu thiện chiến, chưa bị tổn thất sẽ do Lý Hằng, Lưu Thế Anh là cánh thứ tư, cản hậu, rút sau cùng.
Lệnh rút quân ban ra. Toàn quân thu góp chiến cụ, vũ khí, để sáng hôm sau lên đường sớm.
Ngọc Trí, Ngọc Cách, Ngọc Quốc cũng ra lệnh cho tỳ nữ thu xếp hành trang. Ba nàng bàn với nhau, làm sao báo tin này cho triều đình, để truy diệt chúng? Ngọc Cách lấy giấy viết, tóm lược những gì Thoát Hoan định làm, nàng ra sau lều tìm chim ưng gửi đi. Nhưng sợ bọn Trần Ích Tắc thấy chim ưng bay lượn trên trời, rồi rình xem ai xử dụng thì nguy. Ngay lúc đó một nữ binh đóng vai tỳ nữ của nàng tên Huệ trình:
– Thưa phu nhân hiện gạo của chúng ta do quân cấp. Mà gạo này của Trần Ích Tắc nộp, e có trộn thuốc độc.
Đường Ngột Đải trao cho nó một cái thẻ bài:
– Tất cả thực phẩm của bọn gian vương đều không nên dùng. Người ra chợ đong gạo, mua thực phẩm của dân đem về đây.
Con Huệ vừa rời doanh trại, ra cái chợ gần đó, thì nó thấy một người đàn bà gánh gạo đang nghỉ bên đường. Bà ta đon đả:
– Cô ơi! gạo tám thơm, mời cô mua cho.
– Một đấu bao nhiêu tiền?
– Một đồng 2 đấu! Hai đồng một đấu.
Thấy lối trả lời rõ ràng là ký hiệu của Khu mật viện, Huệ mở to mắt nhìn bà ta, thấy trên chiếc khăn vuông có gài miếng vải vàng. Biết là người của Khu mật viện. Nhìn trước, nhìn sau không có ai, Huệ dơ ngón tay chỏ giật giật mấy cái ra hiệu, hàm của mình là vệ úy (# đại úy ngày nay), rồi vờ hỏi:
– Gạo có độc không?
– Không!
Huệ trao chiếc ống bạc đựng thư cho bà bán gạo dặn:
– Tin khẩn cấp nghe.
Rồi hỏi:
– Gánh gạo này ước bao nhiêu đấu?
– Hai chục.
– Em trả chị 20 đồng. Thôi em vào trại đây.
Huệ mua thêm ba con gà, mấy con cá nữa rồi về trại.
            Bữa cơm chiều hôm đó, Đường Ngột Đải ăn chung với Lý Hằng. Ngọc Quốc, Ngọc Cách được dịp họp chợ với nhau bằng tiếng Việt, hai ông chồng ngơ ngơ, ngác ngác nhìn nhau.
Lý Hằng có tất cả 10 vợ, thì 5 là người Hoa, 2 là người Tây vực, 2 là người Thảo nguyên. Nhưng y sủng ái Ngọc Quốc  nhất, vì nàng được đào tạo bản lĩnh bắt nai tinh vi mà y không biết. Còn những cô gái kia, chỉ biết vâng, dạ, hầu hạ. Trong cuộc nam xâm, y chỉ mang mình Ngọc Quốc theo mà thôi. Qua trận chiến kinh thiên động địa ở Tây kết, Chương dương, Đông bộ đầu, Thăng long; vốn thông minh tuyệt đỉnh, y thấy Ngọc Trí cứu Thoát Hoan; Ngọc Cách cứu Đường Ngột Đải; Ngọc Quốc cứu y. Y ngạc nhiên khi cả ba nàng cùng cầm cờ xanh phất lên thì quân Việt không bắn tên, không chém giết. Trong lòng y nảy ra những nghi vấn:
            – Có thể đây là ký hiệu để binh, tướng Việt biết người nhà mà không xuống tay.
            – Có thể đúng như Ích Tắc, Di Ái tố cáo ba nàng làm gian tế cho An Nam, nên An Nam ra lệnh cho binh tướng không được bắn giết các nàng.
            Y nhủ thầm:
            – Dù đúng, dù sai, trong cuộc rút quân này, biết bao nhiêu nguy nan đang chờ ta ở dọc đường. Ta cứ theo sát Ngọc Quốc, thì không sợ bọn An Nam bắn giết.
Sau bữa ăn, y gặp riêng Thoát Hoan, A Lý Hải Nha, Đường Ngột Đải bàn về vụ này. Thoát Hoan cũng đã nghi ngờ như Lý Hằng. Y ban chỉ:
 – Nếu như ba nàng làm gian tế cho An Nam, thì có thể do chúng ta đối xử tử tế với các nàng, nên các nàng nghĩ đến tình nghĩa vợ chồng mà cứu chúng ta. Vậy dù có, dù không, chúng ta cứ tin người, ắt các nàng thiên về chúng ta hơn là An Nam.
            Lý Hằng bàn:
            – Ngày mai mình rút quân, thế nào cũng bị An Nam phục binh đánh. Cả ba chúng ta đều đem các nàng sát bên cạnh, ta cũng mang theo cờ xanh, bọn binh tướng Việt thấy mình phất cờ xanh thì không tấn công!
            Cả ba im lặng không hở môi cho vợ biết. Chúng nào có biết ký hiệu phất cờ của các nàng là:

 1 lần chĩa về trước,
1 lần phất lên
1 lần phất xuống,
1 lần phất phải,
1 lần phất trái,
 3 lần quay tròn.
Còn như phất không đúng thì là kẻ thù, đã giết, tra khảo các nàng, rồi giả xưng. Phải giết chết.

Sáng hôm sau, Thoát Hoan cỡi ngựa đi cạnh xe của Ngọc Trí. Y định bỏ cái ống đồng ô nhục, nhưng từng cứu mạng y lại. Trần Ích Tắc nghĩ thầm:
            – Thoát Hoan rút quân về thì mình hy vọng gì làm vua Đại Việt? Mình phải khích y, để y còn mang quân sang nữa mới được.
            Nghĩ vậy y can:
– Vương gia! Vương gia nói rằng mình rút quân về để chỉnh bị binh mã rồi sang báo thù. Thế thì nên đem cái ống đồng này theo. Đợi một năm, hai năm, vương gia sẽ sang báo thù, mình còn dựng lại cột đồng chứ?
Thoát Hoan thấy Ich Tắc có lý, y ra lệnh cho đem cỗ xe 4 ngựa kéo cái ống đồng khổng lồ theo sau.
Ngọc Trí thực tế hơn:
– Phải đấy, đường rút quân phải qua nhiều nơi nguy hiểm. Lỡ ra gặp bọn Dã Tượng, Quốc Toản, Quốc Kiện ném đá. Bọn Địa Lô, Phạm Ngũ Lão bắn tên còn có chỗ ẩn thân.
            Vừa lúc đó tin báo:
– Cánh quân Vân nam rút qua Phù lỗ thì gặp truy binh của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật. Đó là hiệu binh Văn Thiên Tường do hai cựu tướng Tống là Triệu Nhất, Triệu Trung chỉ huy. Hơn ha nghìn quân bị giết bị bắt. Rồi khi quân tới Cụ bản lại bị truy binh của hiệu Thiệu Hưng, do Triệu Hòa, chỉ huy. Hơn 3 nghìn quân bị đánh cắt hậu, bỏ vũ khí xin hàng. Khi tới Thảo lâm thì bị hai tên Hà Đặc, Hà Chương thống lĩnh hiệu binh Trung thánh dực, chặn đánh phía trước.
Thoát Hoan ngơ ngác:
– Hiệu binh này trước kia do Văn chiêu  hầu Trần Văn Lộng thống lĩnh. Lộng hàng ta. Sao bây giờ thống lĩnh lại là Hà Đặc, Hà Chương?
Trần Ích Tắc nhắc:
– Lộng hàng ta, nhưng binh tướng không theo y. Nạp Tốc Lạt Đình không đề phòng, cho quân hiệu Trung thánh dực đóng chung với quân Vân nam trấn thủ các đồn từ biên giới tới Kinh bắc. Vì vậy khi Trần Nhật Duật đánh các ải Thảo lâm, Phù lỗ, Cụ bản, Bình lệ nguyên, bọn Việt trở dáo, thành ra các căn cứ trên thất thủ. Khi Trần Văn Lộng hàng ta thì Trần Nhật Duật bổ nhiệm anh em Hà Đặc, Hà Chương thay thế Trần Văn Lộng.
– Thế sao vương không cho ta biết? Lý lịch anh em họ Hà ra sao?
– So với Lộng thì kiến thức, học thức của anh em họ Hà thua xa. Nhưng hai tên này do Vũ Uy vương đào tạo, do Nhân Huệ vương dạy Binh thư yếu lược, Vạn kiếp tông bí truyền thư, nên về phương diện xung phong hãm trận, chúng giỏi vô cùng. Thứ nữa 2 tên này can đảm, lỳ lợm. Dù mình đánh thế nào chúng cũng không lui, sẵn sàng thí mạng cùi chứ không chịu hàng.
Lát sau quân báo:
– Theo đúng kế hoạch của Nhật Duật, thì anh em họ Hà chặn đường đánh cầm chừng, chờ bọn Triệu Trung tới đánh vào hậu quân Vân nam. Nhưng bọn họ Hà hung hãn quá, mà quân Triệu Trung chưa tới, nên Hà Đặc bị trúng tên tử thương. Hà Chương bị bắt. Tuy chúa tướng bị bắt, bị giết, nhưng Vệ Đại đởm của hiệu Trung thánh dực nhập trại ta, cứu Hà Chương ra. Chúng lại ăn trộm được y phục vũ khí của ta, rồi cho hơn 3 trăm quân đột nhập vào trại ta chém giết. Giữa lúc đó hiệu binh Văn Thiên Tường, Thiệu Hưng tới. Quân ta bị đánh tan tác, binh tướng mạnh ai nấy chạy về Vân Nam.
Thoát Hoan nhìn A Lý Hải Nha:
– Cơ chừng này chúng ta khó mang thân về nước được.
A Lý Hải Nha lệnh cho quân lên đường. Lịch kịch mãi sang giờ thân (15-17 giờ) mới tới Hà bắc. Viên tướng Lý Bang Hiến đi đầu trình với A Lý Hải Nha:
– Phía trước là sông Như nguyệt, có bốn cầu phao do cánh thứ ba bắc. Vậy ta nên vượt sông, hay qua đêm tại đây?
– Chia lực lượng làm 2, một nửa đóng phía bắc, một nửa đóng phía nam của sông Như nguyệt. Cắt cử mỗi mố cầu 1 bách phu gác. Cánh phía nam 2 vạn quân do Diệc Hắc Mê Thất với tướng Bột La Cách Đáp Nhĩ chỉ huy. Cánh phía bắc 2 vạn quan do Kiết Tiết Tán Lược Nhi, Lý Bang Hiến chỉ huy. Bộ tham mưu đóng phía bắc. An Nam quốc vương và tùy tùng đóng phía nam.
Quân sĩ bắt đầu nấu ăn chiều. Đến đó quân báo:
  – Cánh thứ nhất, do đại vương Giảo Kỳ với các tướng Lý Quán, Đường Ngột Đải chỉ huy 4 vạn phu đóng ở Kiếp bạc đem theo thương binh đi đầu. Khi qua Nội bàng, không gặp quân địch. Khi tới Chi lăng thì gặp quân Việt chặn đánh phía sau, cắt 3 nghìn người. Đám 3 nghìn này bị An Nam cầm tù. Đại tướng quân Lý Quán bị vợ của Dã Tượng chặn đường. Hai người đấu với nhau, Lý Quán bị Thúy Hồng giết chết. Hữu thừa Đường Ngột Đải đấu với Dã Tượng bị bại. Dã Tượng đuổi theo, may nhờ phu nhân của Đường Ngột Đải chặn hậu, xin với Dã Tượng, Đường Ngột Đải mới thoát nạn. Đại vương Giảo Kỳ đi đầu không cứu đoạn hậu quân, thúc tiền quân tiến mau. Khi tới Khả lan vi, quân Việt trong ải đánh trống khua chiêng, nhưng không xuất trại tấn công. Vì vậy tất cả thương binh đều về tới Tư minh. Trong 4 vạn quân rút lui, bị bắt, bị chết hơn 1 vạn.
A Lý Hải Nha hỏi:
– Không biết tướng nào tổng chỉ huy cuộc truy đuổi này? Tài dùng binh của y quá cao. Y vận động các hiệu binh nhanh, gọn gàng. Nếu như y chặn ở Nội bàng thì ta bỏ thương binh lại, chúng phải nuôi. Chúng đợi tới Chi lăng mới đánh cắt hậu quân. Tiền quân mệt mỏi không còn sức quay lại cứu hậu quân.
– Thưa nghe nói là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng!
Thoát Hoan cùng chư tướng ăn cơm chiều vừa xong thì quân báo:
– Cánh thứ nhì hữu thừa Khoan Triệt với các tướng Mang Cổ Đái, Bôn Kha Đa, Nạp Hải, Tôn Lâm Đức, chỉ huy 4 vạn phu đóng ở bắc Như nguyệt rút về tới Chi lăng thì gặp quân Việt dàn ra tấn công cực hung dữ. Quan quân liều chết chống trả tới chiều mới thoát. Quân Việt dùng Ngưu binh đuổi theo ngày đêm không ngừng. Khi tới Khả lan vi thì trúng phục binh của Phạm Ngũ Lão và vợ hắn là Thủy Tiên. Quan, quân vừa đánh vừa chạy. Về tới  Tư minh thì 4 vạn chỉ còn 2 vạn người.

A Lý Hải Nha họp  chư tướng lại nghe báo cáo tình hình, rồi giải tán. Đèn trong trại vừa tắt, binh tướng riu riu ngủ thì tiếng quân reo, tiếng trống thúc vang dội.  Quân báo:
– Quân Việt thủy, bộ, Ngưu binh đông như kiến đang tấn công vào cánh quân phía nam sông Như nguyệt. Người chỉ huy là Hưng Ninh vương. Trên sông Như nguyệt, Thủy quân của hạm đội Bạch đằng từ phía đông tiến về, đô đốc An Nam là Võ Văn Sáu đổ quân lên đánh ép hai bên hông.
A Lý Hải Nha hỏi:
– Hiệu binh tấn công là hiệu nào?
– Là Tứ thần, của Hoài Nhân vương Trần Quốc Kiện, với Nguyễn Khoái. Hiệu Thiên thuộc của Trấn biên tướng quân Nguyễn Thế Lộc, Nguyễn Lĩnh.
Một lát quân báo:
– Quân sĩ ào ào bỏ chạy qua phù kiều. Quá nửa ngã xuống sông, một số lớn quẳng vũ khí chạy thoát thân.
Thoát Hoan nổi giận:
– Trời ơi! Quân mình đông hơn quân Man Việt, mà sao không đánh, bỏ chạy như vịt vậy?
Quân lại báo:
– Thình lình bọn Ngạc ngư xuất hiện, phá 4 phù kiều. Quân sĩ kinh hoảng nhảy xuống sông bơi sang bờ bắc. Một số đầu hàng. Hai tướng Diệc Hắc Mê Thất, Bột La Cách Đáp Nhĩ bị thương, đang được cứu trị.
A Lý Hải Nha than:
– Thế thì đạo binh của Lý Hằng bị mất đường về rồi!
Đến đó pháo nổ liên tiếp, quân reo vang trời. Thị vệ báo:
– Hưng Đạo vương đích thân chỉ huy bọn Đại đởm An Nam, hiệu binh Hàm tử của Trần Quốc Toản. Hiệu binh Tiền thánh dực, của Hưng Trí vương Quốc Hiện. Ngưu binh do bốn tướng trâu hung hãn nhất là vợ chồng Trần Long Nhất, Phạm Trang Tiên ; Vũ Long Nhị Hoàng Trang Liên; đang tấn công vào doanh trại. Chúng đã lọt vào trong căn cứ, chém giết cực kỳ tàn bạo. Hai tướng Kiết Tiết Tán Lược Nhi, Lý Bang Hiến đang chỉ huy quân chống trả.
Một lát quân báo:
– Thình lình quân Man ngừng tấn công, thế mà binh tướng mình cứ  ùn ùn chạy về phương bắc.
Thoát Hoan ban chỉ:
– Lý Bang Hiến đem kị binh mở đường máu, rút trước. Khiết Tiết Tán Lược Nhi đi cản hậu.
Quân Nguyên đã tập hợp được, lũ lượt rút lui. Một phần không còn giáp trụ, một phần không còn vũ khí. Vừa ra khỏi trại 10 dặm thì quân Việt lại tấn công. Hiệu binh tấn công vẫn là Hàm tử. Quân bộ phối hợp với Ngưu binh tấn công nhịp nhàng, trận đia biến đổi ảo diệu. Con vượn trắng dẫn đầu. Cứ một trượng vung lên lại một quân Nguyên tan xương nát thịt. Các tướng Nguyên không ai đỡ nổi một côn của bạch viên. Quân tướng Nguyên quẳng chiến cụ, bỏ lều trại, chen nhau chạy. Quân Việt vừa reo hò vừa truy sát chém giết. Quân Nguyên chạy dược 15 dặm, lại gặp phục binh của hiệu Hàm tử đánh vào đội Thị vệ của Thoát Hoan với bộ tham mưu.
 Trần Quốc Toản, Trần Đại Như Vân được lệnh Hưng Đạo vương:
“Đuổi Thoát Hoan, làm cho y kinh hoảng. Nhưng đừng giết y“.
 Ngay từ khi nhập trại Nguyên, Như Vân dẫn một đô nữ binh của hiệu Hàm tử xung vào trung quân, nơi có soái kỳ của Thoát Hoan. Đây là những thiếu nữ của Hàm tử, võ công rất cao. Cả đô do bạch viên dẫn đầu, đuổi theo Thoát Hoan bén gót. Tên bắn như mưa, mã tấu chém phầm phập, bọn Thị vệ bị thương, bị chết gần hết. Kinh hoàng, Thoát Hoan lấy cờ xanh ra phất, nhưng vô hiệu. Quân Việt thấy cờ phất không đúng quy tắc, càng đánh dữ hơn.
 Như Vân biết mặt Thoát Hoan, nàng chỉ cờ theo y, quân Việt xúm vào vây. Bạch Viên vung côn lên 4 Thị vệ nát thây. Nhờ bọn Thị vệ đều là cao thủ võ lâm Trung nguyên hết sức cản Bạch Viên. Thoát Hoan bỏ ngựa, nhảy lên xe chui vào trong ống đồng. Tên bắn vào ống đồng kêu lên những tiếng leng keng không dứt. Bạch Viên vọt tới như thiên tướng, cây côn sắt đập vào ống đồng kêu lên những tiếng chói tai. Ngọc Trí cầm cờ xanh phất, nhưng Bạch Viên không biết nàng là ai, không biết ký hiệu cờ xanh. Nó nhảy lên xe chở ống đồng. 
Vừa lúc đó Trần Ích Tắc, thoát vòng vây Như nguyệt chạy tới. Thấy Thoát Hoan lâm nguy, y đoạt được cây côn của một Thị vệ tấn công bạch viên. Tuy Ích Tắc là cao thủ số một số hai của tiều Trần, về chiêu số y bỏ xa Bạch Viên, nhưng công lực thì y thua xa.
Không may Thoát Hoan, Trần Quốc Toản trông thấy y chui vào ống đồng. Nhấp nhô mấy cái hầu đã tới gần. Hầu cầm viên đá vận sức ném:
– Ném chết tên giặc Thát đát này!
Bồng một tiếng lớn chói tai, lửa tóe ra, viên đá vỡ tan tành.
Ngồi trong ống đồng tai bị ù, hồn phiêu, phách tán, Thoát Hoan hướng xe của Ngọc Trí vẫy:
– Vương phi! Sang đây, cứu ta với.
Ngọc Trí bỏ xe mình sang xe chở ống đồng, tay cầm cờ xanh phất. Quốc Toản lại ném hai tảng đá nữa:
– Bồng, bồng.
Ngọc Trí đứng lên trước xe, tay cầm cây cờ xanh vẫy liên tiếp. Như Vân nhận được mặt Ngọc Trí, ký hiệu phất cờ đúng; nàng ra hiệu cho đội nữ binh ngừng tấn công. Vòng vây dãn ra. Ngọc Trí hướng Quốc Toản:
– Quân hầu! Xin quân hầu dung mạng!
Quốc Toản bỏ Thoát Hoan, chỉ cờ cho trận địa biến đổi. Bạch Viên đã đánh bay côn của Ích Tắc. Nó định giết y, thì thấy kỳ hiệu của Như Vân bảo lui. Nó bỏ xe, tung mình vào hàng ngũ quân Nguyên. Đội hình Nguyên vỡ tan.
Tuy bị chết hụt, nhưng Thoát Hoan cũng kịp thấy Như Vân. Y hỏi Ngọc Trí:
– Nữ tướng này là ai? Thị còn quá trẻ, mà hung hãn cực kỳ. Nhan sắc e hơn cả công chúa An Tư.
Ngọc Trí đã gặp Như Vân trong lần nàng đột nhập vào Hoàng thành. Nhưng nàng giả tảng:
– Không biết nữa. An Nam có quá nhiều nữ tướng. Thiếp không biết.
 Trần Ích Tắc đang thở dốc sau trận đấu vơi Bạch Viên. Y trả lời:
– Đó là con gái của phản vương Ngột A Đa tên Trần Đại Như Vân. Thị là vợ tên nhóc Trần Quốc Toản. Hôm trước thị đã theo vương phi Tháp Sát Nhi đem thương binh đến cho mình.
Tuy võ công Ích Tắc thuộc loại đại cao thủ, không thua gì Vũ Uy vương, nhưng bị Bạch Viên đánh cho mất vũ khí, ngựa bị giết, vai bị thương. Y tung mình lên chui vào trong ống đồng với Thoát Hoan.
Đoàn bại binh vừa đánh, vừa chạy; tới sáng, cứ một quãng lại gặp  chiến sĩ Hàm tử  bắn tên, Ngưu binh tấn công, Quốc Toản ném đá, Bạch Viên vác gậy đập. Cuối cùng thì xe chở Thoát Hoan tới Vạn kiếp. Người mệt đến lê bước không nổi. Ngựa đói lè lưỡi ra.
Giữa lúc đó Lý Hằng, Lưu Thế Anh với tàn binh tới. Y bị thương nhẹ. Lưu Thế Anh trình:
– Bị ba hiệu binh vây đánh: một hiệu chặn đầu, hai hiệu đánh vào hậu quân. Khi vượt qua sông Sách, cầu phao bị Ngạc binh cắt đứt. Binh tướng một số hàng giặc, một số bị giết. May nhờ phu nhân của Lý Hằng xin với giặc, mới thoát về đây gần vạn người.
Ích Tắc hỏi:
– Tướng tổng chỉ huy là ai?
– Chiêu Minh vương Trần Quang Khải.
Cả đoàn ngừng lại nghỉ ngơi được hơn giờ, Lý Bang Hiến báo:
– Phía trước không có giặc. Mình nên đi tiếp hay nghỉ?
A Lý Hải Nha ra lệnh:
– Đi tiếp.
Trong ống đồng Thoát Hoan hỏi Ích Tắc:
– Vương theo đạo binh của Diệc Hắc Mê Thất, Bột La Cách Đáp Nhĩ, bị vây ở nam Như nguyệt. Làm sao vương thoát được?
– Thần bơi qua sông.
– Cuộc chiến ra sao?
Bột La Cách Đáp Nhĩ thuật thay Ích Tắc:

  Binh tướng phía nam Như nguyệt choàng dậy thức giấc vì tiếng reo hò của quân Việt. Quân Việt dùng Vạn kiếp tông bí truyền thư, trận thế biến ảo tinh kỳ. Không may y đụng phải một tướng trẻ, chính là Hoài Nhân vương. Vương đánh ba chiêu y bị phun máu miệng. Vương định đánh chiêu thứ tư kết thúc tính mạng y, thì Trần Ích Tắc quát lên:
– Không được hại người.
Rồi y xả kiếm tấn công Hoài Nhân, Hoài Nhân không đỡ, mà rút kiếm xỉa thẳng vào ngực Ích Tắc. Ích Tắc quát:
– Thằng ôn con, mày là con anh Hoảng, tao là chú mày. Mày thấy chú không hành lễ. Đồ mất dậy.
Võ công Ích Tắc cao hơn Hoài Nhân một bậc. Y xỉa tay kẹp cứng kiếm của Hoài Nhân, tay kia đưa kiếm định chặt Hoài Nhân làm 2, thì có tiếng nói đầm ấm:
– A Di Đà Phật. Vương xưng là chú mà lại định giết cháu ư?
Rồi thấp thoáng bóng nâu, một vị tướng mình hạc, xương mai trông như một vị bồ tát, phóng hai chỉ, chỉ thứ nhất trúng kiếm của Ích Tắc. Choang, kiếm của Ích Tắc bị gẫy đôi. Chỉ thứ nhì  trúng chiếc mũ đồng trên đầu y. Bộp! Y bật người, ngã lộn đi hai vòng. Vị tướng đó đánh chiêu thứ ba, Ích Tắc lăn mình tránh khỏi. Y tung người dậy:
– A Di Đà Phật! Xin Bồ tát từ bi hỷ xả, tha mạng. Chúng mình là anh em, tại sao lại giết nhau?
Thì ra vị tướng đó là Hưng Ninh vương, anh ruột Hưng Đạo vương, anh con bác của Ích Tắc. Hưng Ninh vương chỉ mặt Ích Tắc:
– Người mãi quốc cầu vinh, người hại chết em ruột là An Tư. Hôm nay ta phải đại khai sát giới. Ta chỉ đánh ba chiêu, nếu mi đỡ được thì ta tha cho.
 Hưng Ninh vương đánh một chiêu nhẹ nhàng như gió thoảng. Ich Tắc  vận công đỡ! Xèo một tiếng, người y bật về sau hai trượng. Khí huyết đảo lộn cực kỳ khó chịu, y ọe một tiếng, miệng phun máu. Hưng Ninh vương đánh chiêu thứ nhì. Ích Tắc nghiến răng đỡ. Bình một tiếng, y bay tung ra xa, rơi ngay trước mặt công chúa Nang Tiên. Nang Tiên điểm huyệt y. Y tê liệt nằm bất động. Công chúa rút kiếm chĩa vào ngực Ích Tắc:
– Ích Tắc! Chú là chú mà không giữ lời di chúc của tổ tiên, hại cô An Tư. Hôm nay đứa  cháu dâu này phải giết chú để trả thù cho cô .
Hưng Ninh vương xua tay:
– Nang Tiên! Từ 5 đời trong tộc Đông a chúng ta giữ di chúc của tổ tiên: tuyệt đối không chém giết nhau. Không để người khác giết tộc thuộc trước mặt mình. Ích Tắc phản cha, bội anh, muôn đời ô danh. Như vậy đủ rồi. Cháu tha cho chú ấy lần này nữa thôi.
Nang Tiên thu kiếm lại, Hoài Nhân vương cúi xuống giải huyệt cho Ích Tắc. Sự thực công lực Nang Tiên không đủ điểm huyệt làm Ích Tắc tê liệt. Vốn cực thông minh, để động lòng từ bi của Bồ tát Tuệ Trung, y giả như bị tê liệt, nằm bất động. Khi Hoài Nhân vương cúi xuống giải huyệt cho y, y vung tay, một con dao trủy thủ đâm vào ngực trái vương. Vương bay tung ra xa, Ích Tắc vùng dậy chạy biến vào đám quân Nguyên đang chiến đấu tuyệt vọng.
Hưng Ninh vương, Nang Tiên chạy lại xem xét: Con dao trủy thủ đâm trúng tim, xương ngực Hoài Nhân vương bị bẹp dúm. Vương đã hoăng. Trước cái chết của đứa cháu thân yêu, bồ tát Tuệ Trung không còn nghĩ đến tam quy, ngũ giới hay thất bát giới. Vương vung thiền trượng xông vào hàng ngũ quân Nguyên. Vương đi đến đâu, trượng thép vung lên, dù binh, dù tướng cũng vỡ ngực, gẫy xương sống đến đó. Hoài Nhân vương tuẫn quốc, phó tướng của là Nguyễn Khoái cùng binh tướng hiệu Tứ Thần uất ức, đánh như điên, như khùng. Gần như trọn vẹn đám quân Nguyên ở nam Như nguyệt bị giết sạch“.(1)

Thoát Hoan khen Ích Tắc:
– Suốt 20 năm qua, vương ở trời nam, không ngớt cung cấp tin tức về Thiên triều. Việc vương phóng chỉ đánh bay kiếm An Tư cứu cô gia, tỏ lòng trung của vương. Hôm nay vương giết một trong hai tướng tài nhất của An Nam. Chứng tỏ vương trung thành với Thiên triều. Cô gia sẽ tâu với phụ hoàng về tấm lòng của vương. (2) Dù vương không được làm An Nam quốc vương, Thiên triều sẽ phong cho vương 3 nghìn mẫu ruộng vùng mầu mỡ Kinh hồ.
Tế tác báo:
– Thình lình hiệu binh Hàm tử đang truy sát ta, rút về Thăng long, không rõ lý do.
Thoát Hoan, A lý Hải Nha thở phào, như trút được gánh nặng:
– Thoát được một đại hung thần.
Khi đoàn bại binh đến gần Chi lăng, thì quân báo:
– Quân Tống, quân Việt dàn trận hai bên đường. Giữa đường một đội Tượng binh với Ngưu binh, không còn đường đi.
A Lý Hải Nha kinh ngạc:
– Quân Tống?
– Vâng, chúng mặc y phục Tống, kéo cờ Tống. Còn quân Việt thì là hiệu Văn bắc của tên Dã Tượng.
Trần Ích Tắc vọt lên tiền quân, một lát y trở lại nói với Thoát Hoan:
– Đúng quân Tống, đó là hiệu binh Thiệu hưng.
– Mới bốn hôm trước bọn Thiệu hưng còn vây đánh quân Vân nam. Chúng biết bay hay sao, mà hôm nay đã có mặt ở đây?
Trần Ích Tắc giảng giải:
– Không có gì lạ cả. Người chỉ huy trận truy sát là Hưng Nhượng vương. Y ra lệnh cho hiệu Thiệu Hưng vượt qua bến đò Phú lương, rồi theo đường thượng đạo tới đây.
A Lý Hải Nha ra lệnh:
– Chỉ có cách liều mạng phá vòng vây mà thôi.
 Các tướng lắc đầu:
– Phá thế nào được? Với địa thế này! Ta bị kẹp giữa hai quả núi! Phía trước Tượng binh, Ngưu binh. Hai bên thì hiệu Thiệu Hưng, Văn bắc. Dù có trăm vạn binh cũng không phá nổi. Huống hồ sau bốn ngày vừa đánh, vừa chạy, binh tướng không hèn, nhưng người, ngựa không còn sức.
Trần Ích Tắc hiến kế:
– Tên Dã Tượng có con vợ đẹp là Thúy Hồng. Y rất nể vợ. Ở đây vương phi Ngọc Trí, phu nhân của Tả thừa Lý Hằng là Ngọc Quốc, vốn học cùng trường với vợ Dã Tượng. Hai phu nhân đừng quản ngại, dùng lời lẽ ty tiện xin với Thúy Hồng, thì may ra mới thoát nạn.
Thoát Hoan nhìn Ngọc Trí, Ngọc Quốc:
– Không biết vương phi với phu nhân có nghĩ đến tình vợ chồng mấy năm qua, mà cứu chúng ta không?
Hai nàng nhìn nhau, rồi cùng ra lệnh cho xe lên trước. Nhìn quân khí hùng tráng của 2 hiệu binh, 2 nàng thở dài nói với nhau:
– Vòng vây chặt thế này, dù bọn Nguyên có liều chết cũng uổng mạng mà thôi.
Thúy Hồng, Ngọc Hoa, Vương Chân Phương đứng giữa đường vẫy tay. Ngọc Trí, Ngọc Quốc theo đến chỗ trung quân. Yết Kiêu, Dã Tượng, Triệu Trung đứng dậy chào, dùng lễ công chúa tiếp đón. Vương Chân Phương lễ phép nói với 2  nàng Ngọc:
– Trời cho hai công chúa tấm nhan sắc tuyệt thế, mà phải vì nước ẩn thân vào chốn hang hùm. Có phải 2 công chúa tới đây xin mở vòng vây cho chúng không?
– Đúng như chị nói.
Yết Kiêu nói lạnh như băng:
– Nể mặt 2 em. Chúng ta sẵn sàng tha cho các em. Nhưng bọn tướng sĩ thì không! Vì chúng ta không có quyền.
Thúy Hồng  thấy Ngọc Trí ênh ếch nước mắt muốn khóc, nàng an ủi:
– Anh Yết Kiêu cũng như anh Dã Tượng không có quyền tha cho bại binh. Quyền mở cho quân Nguyên thoát chỉ Hưng Nhượng vương là người tổng lĩnh cuộc truy quét mới có quyền. Vậy em nói với Thoát Hoan tạm đóng quân lại. Đợi anh Yết Kiêu sai sứ xin chỉ dụ của vương đã.
– Độ bao nhiêu lâu?
– Vương đang ở Khả lan vi.  Ngựa đi từ dây tới đó phải 3 giờ. Trở về 3 giờ. Mau thì nửa ngày. Lâu thì 2  ngày.
– Lương thực chỉ còn nửa ngày, nếu 2 ngày quân không về tới Tư minh thì chết đói hết. Trong 2 ngày đó quân Việt có tấn công không?
Dã Tượng dơ tay hứa:
– Không giết người, nhưng ném đá giết Thoát Hoan, Ích Tắc thì không hứa. Anh với Quốc Toản đã hẹn ném Thoát Hoan, Ích Tắc 100 tảng đá. Quốc Toản đã ném đủ 100 tảng mà chưa giết được tên nào; còn anh mới ném có 61 tảng. Thiếu 39 tảng, thì nhân dịp này phải ném cho đủ. Tỷ như tảng thứ 62 mà Ích Tắc chết, thì anh vẫn ném vào xác y cho đủ 100 tảng mới thôi! Còn lương ư? Nếu lính Nguyên quẳng vũ khí hàng thì sẽ được nuôi ăn đầy đủ.
Ngọc Trí bật lên tiếng khóc:
– Anh không nghĩ đến công lao của em mà nới cho Thoát Hoan chút nào  ư? Dù sao y cũng là chồng em. Y sủng ái em cùng cực.
Sự  thực Dã Tượng được mật chỉ của Hưng Đạo vương không giết Thoát Hoan. Nhưng hầu muốn dùng Ngọc Trí nhắn tin cho y bở vía. Bây gờ thấy Ngọc Trí khóc, lòng người anh hùng nhũn ra:
– Nếu y cứ núp dưới váy em thì sao anh ném chết y  được. Em là công chúa! Anh mà ném đá chết cô công chúa thì e đức vua chặt đầu anh.
Nghe Dã Tượng nới, lập tức Ngọc Trí cười tươi:
– Đa tạ anh voi đồng quê.
Hai nàng Ngọc trở lại thuật cho Thoát Hoan tất cả những gì khi đi sứ. Thuật luôn vụ Dã Tượng đe ném đá. Thoát Hoan, Ich Tắc mặt nhìn mặt; như cùng nói với nhau:
– Đại hung thần đang chờ!!!
Hôm sau, đám tướng sĩ Nguyên đã phải nhịn đói một bữa sáng, thì Thúy Hồng tới trao cho Ngọc Trí cây cờ, trên có bút tự của Hưng Nhượng vương rất lớn:
Đại xá Thát đát.
 Tế tác báo:
– Quân Việt mở đường. Hiệu binh Thiệu Hưng rút vào trấn Chi lăng, chỉ còn hiệu Văn bắc dàn bên đường.
A Lý Hải Nha ra lệnh:
– Rút quân! Lý Hằng, Lưu Thế Anh đi cản hậu.
Xe Ngọc Trí đi đầu, trên cắm cây soái kỳ của Hưng Nhượng vương. Tiếp sau là xe chở ống đồng, trên có Thoát Hoan, Ích Tắc.
Đoàn quân đói khát lên đường. Khi đi ngang chỗ eo núi, binh Việt dàn hai bên, có tiếng loa gọi bằng tiếng Quảng:
– Các người là người Hoa, là con cháu Phục hy, Thần nông, Hoàng đế, bị Thát đát đem xuống đây chịu chết. Hãy bỏ vũ khí, chạy vào rừng, sẽ được tha chết, được nuôi ăn.
Rồi một người khổng lồ đứng trện mỏm núi hét lớn:
– Ném đá giết tên ác tặc Thát đát Thoát Hoan. Giết tên bội cha phản anh Ích Tắc!
Thoát Hoan nhìn lên thì là Dã Tượng. Không còn hồn vía nào nữa, y chui vào ống đồng. Dã Tượng ném đá:
Bồng, bồng .
Thoát Hoan giật bắn người lên. Cạnh y, Trần Ích Tắc cũng đang run rẩy, hai hàm răng đánh vào nhau cầm cập. Trong khi đó lính Nguyên gốc Hán đói quá, thi nhau chạy vào rừng.
Thoát khỏi Chi lăng, tế tác báo:
– Phía trước có hai con đường đi. Một qua ải Đại trợ, một qua ải Khả lan vi. Xin quân sư cho biết, mình nên đi đường nào?
     – Đi theo đường Đại trợ.
Quân tiến vào vùng Đại trợ. Thình lình trống thúc vang dội, quân reo như sóng biển. Tế tác báo:
– Phía trước là hiệu binh Thần cách. Chúa tướng là Nguyễn Địa Lô, phó tướng là Nguyễn Lộc. Chúng dàn ra chặn mất đường đi!
Thoát Hoan nhìn Ngọc Trí, Ngọc Quốc:
– Tên Địa Lô này tài trí chỉ thua Hưng Đạo vương. Y đã phục binh thì không thể địch lại. Vậy hai nàng thử năn nỉ với y xem sao?
Ngọc Trí, Ngọc Quốc phất cờ xanh, trên xe có cây soái kỳ đại xá của Hưng Nhượng vương. Hai xe tới trước. Địa Lô dùng lễ công chúa đón tiếp:
– Chào nhị vị công chúa.
Ngọc Trí bực mình:
– Anh với chúng em thân nhau từ hồi ở Cố trạch, Văn sơn, rồi cùng theo Vũ Uy vương vào Thục. Bây giờ khách sáo thế đấy! Đừng ỷ mình đẹp trai, cầm quân trong tay rồi dè bỉu với bọn lấy chồng Thát đát nghe!
– Khiếp! Hai cô em làm vương phi rồi khó tính với anh quá! Lớn rồi! Hăm mấy tuổi rồi! Không còn là cô gái ăn quà như mỏ khoét nữa đâu!
Ngọc Quốc chỉ vào cây soái kỳ đại xá:
– Hưng Nhượng vương đã ban lệnh đại xá. Sao anh còn phục binh ở đây? Anh với chúng em từng gặp nhau ở Cố trạch. Nhớ lại hồi chúng em theo Vũ Uy vương sống trong trang ấp Văn sơn của anh. Anh hứa sau này sẽ chiếu cố cho bọn em. Chiếu cố gì mà Hưng Nhượng vương đã ân xá, ỷ có quân trong tay, anh dàn ra bắt nạt bọn em. Chiếu cố của Nam thiên đệ nhất mỹ nam tử là như thế đấy! Ôi Nam thiên đệ nhất tài tử gì mà bắt nạt các cô em gái! Hư! Hay bây giờ bọn em có chồng, già rồi nên anh ghét mặt!
Địa Lô cười:
– Nhị vị công chúa đừng nổi giận. Anh là tướng, là Thiên lôi! Ông trời Hưng Nhượng chỉ đâu đánh đó. Việc anh dàn quân là do lệnh của Hưng Nhượng vương. Các cô còn quá trẻ, còn đẹp hơn tiên nga mà hỏa tính lại vượng thế đấy. Hai cô phải hiểu cho anh! Quân giặc qua vùng trấn nhậm. Anh phải dàn quân phòng thủ chứ có chém giết đâu? Em nói với Thoát Hoan rằng Hưng Nhượng vương ban chỉ không được chém giết binh tướng Nguyên. Còn ném đá giết y với Ích Tắc thì vương không ban chỉ gì cả. Vì vậy anh Dã Tượng đang chờ phía trước ném đá giết Thoát Hoan, Ích Tắc đấy. Em muốn cứu chồng thì đứng án trước miệng ống đồng. Hoặc bảo hắn núp trong váy em. Em là công chúa Việt, anh Dã Tượng gan có to bằng cái đình cũng không dám bắn, ném đá giết các em. Anh ấy mà ném đá giết cộng chúa thì đức vua sẽ chặt đầu ngay.
Được vuốt ve bằng những lời ngọt ngào. Hai nàng hết sợ, vui vẻ trở lại thuật cho Thoát Hoan nghe. Thoát Hoan cười:
– Không ngờ váy của hai em lại là chỗ ẩn thân của anh. Thôi, nhục thì nhục, còn hơn bị đá ném chết.
Ích Tắc nói một câu cực vô duyên:
– Thái tử bảo chui vào váy 2 nàng là nhục ư? Hai nàng đẹp như tiên, được chui vào váy nàng không khác gì vào động Đào hoa!
Hai nàng, một nàng đứng trấn ở miệng trước ống đồng. Một nàng trấn phía sau. Gió thổi váy hai nàng bay phần phật. Bên trong Thoát Hoan, Ích Tắc mừng chi siết kể:
– Mình được màn trời che chở. Cũng may hai nàng sạch sẽ, bằng không e chết ngộp.
Đoàn xe ngựa lại lên đường. Thấy không có phục binh, Thoát Hoan, Ích Tắc chui ra khỏi ống đồng ngắm cảnh núi rừng. Khi còn cách biên giới khoảng hơn bốn dặm thì qua một mỏm núi. Thoáng nhìn thấy Dã Tượng đứng trên đó cầm tảng đá lớn, tay vung lên, hòn đá bay tới rít lên vo vo. Thoát Hoan kinh hồn động phách không kịp chui vào ống đồng. Y tốc  váy vợ chui vào. Ích Tắc chui vào váy Ngọc Quốc. (2)
Dã Tượng hét:
– Tên Thát đát Thoát Hoan. Tên giặc bán nước Ich Tắc! Tao đã thề ném chúng mày 100 viên đá, nhưng còn thiếu ba viên. Tao ném cho đủ để giết chúng mày! Viên thứ chín mươi tám, chết này!
Tảng đá bay đến chui tọt vào trong ống đồng.
– Bồng.
Thoát Hoan, Ích Tắc chói tai, rụt đầu trong váy 2 nàng, kinh hoảng. Hai tay nắm lấy hai chân các nàng. Cũng may hai nàng Ngọc Trí, Ngọc Quốc đều cao, váy lại dài nên Ích Tắc, Thoát Hoan ẩn trọn vẹn thân mình.
– Chín mươi chín chín, chết này.
– Bồng.
– Một trăm này!
– Bồng.
Viên đá thứ một trăm, vỡ tan, mảnh trúng vào bốn con ngựa kéo xe. Quá đau đớn chúng hí lên, rồi vọt sang đất Trung nguyên.
Thoát Hoan, Ích Tắc biết đã thoát chết. Cả hai chui ra khỏi ống đồng, ngửa mặt nhìn trời. Nắng tháng 5 chói chang. Cả hai thở phào, mặt nhìn mặt:
  Chúng ta còn sống!

Quân rút sang đất Trung nguyên hết. Thì một Thị vệ cõng trên vai một tướng cùng hơn mười người hộ tống, đầy mình thương tích chạy về. Ngọc Quốc tinh mắt thét lên:
– Chồng tôi!
Rồi nhảy xuống xe. Mọi người xúm lại xem, quả là Lý Hằng. Y đã chết từ bao giờ! Y bị trúng một mũi tên thép vào đầu gối. Ích Tắc rút tên ra thì tên đó không phải tên của quân Việt, mà tên của người đi săn. A Lý Hải Nha hỏi nguyên do, một thương binh nói:
– Tả thừa đi đoạn hậu. Khi cùng 3 trăm quân cản hậu đi qua lũy Đại trợ, dân chúng mang gậy, dao, cung tên xông ra đánh. Chúng tôi chỉ vào cờ có bút tích của Hưng Nhượng vương. Chúng không lý đến. Tụi man dân thực kinh khủng. Chúng lăn xả vào chém giết. Tả thừa bị trúng tên vào đầu gối. Cũng may Trung lang tướng Địa Lô xuất hiện, xông vào can thiệp. Nhưng mấy lão già, mấy mụ nhà quê hung dữ cùng cực. Có đứa bị chặt đứt tay, có đứa lòi ruột ra, chúng vẫn chém giết. Khi chúng tôi buông vũ khí hàng, chúng cũng vẫn đâm chém. Bọn trẻ con thúc trâu húc chúng tôi, có đứa xua chó ra cắn nữa.
Địa Lô trách chúng, bọn đàn bà trả lời:
– Tha cho bọn ác quỷ là quyền của Hưng Nhượng vương. Nhưng năm trước dân chúng đã mở cửa hàng, mà bọn ác quỷ còn đốt hết nhà, giết hơn nghìn người. Bây giờ chúngï tôi trả thù.
Trần Ích Tắc lắc đầu:
– Không phải man dân tự động đánh quan, quân đâu, mà tên thầy chùa mũi trâu Địa Lô dàn cảnh đấy. Tên này mưu mẹo không biết đâu mà lường.
Trong suốt cuộc chiến, có nhiều tướng Nguyên tử trận, nhưng trong cuộc rút lui này 2 tướng Lý Hằng, Lý Quán, là 2 tướng cấp bộ cao. Cao hơn cả Toa Đô, Ô Mã Nhi, chỉ thấp hơn A Lý Hải Nha mà thôi. Hằng là một trong 5 khai quốc công thần của Nguyên. Năm ấy y 50 tuổi.

Đúng lúc đó tại Thăng long, dân chúng lũ lượt kéo nhau trở về. Trong Hoàng thành thái hậu, hoàng hậu chỉ huy thái giám cung nga dọn dẹp các cung điện.
Thượng hoàng thiết triều. Bách quan không thiếu một người. Chiêu Minh vương Trần Quang Khải tâu với thượng hoàng:
– Bọn Ô Mã Nhi, Toa Đô tưởng Thoát Hoan còn tại đây. Chúng dùng thuyền chở hết binh tướng, bọn tay sai gốc Việt theo sông Hồng tiến về Thăng long. Chúng bị đô đốc Võ Văn Sáu cho chiến thuyền chặn mất đường lui ra biển, bịt đường tiến lên. Chưa biết chúng sẽ đổ bộ lên Hàm tử hay  A lỗ.  Thần đã báo cho Quốc Toản biết. Quốc Toản đem hiệu Hàm tử đánh đuổi chúng.
Hưng Đạo vương ban chỉ!:
– Hiệu binh Hàm tử vừa về tới Hàm tử. Vậy ban lệnh cho đô đốc Sáu ép để bọn Ô Mã Nhi, Toa Đô đổ binh lên Hàm tử cho Quốc Toản giết chúng.
Hưng Vũ vương tâu:
– Ô Mã Nhi, Toa Đô là hai tướng có tài dùng binh như thần. Võ công tuyệt đỉnh. Cần giết chúng đi để trừ hậu hoạn.
Hưng Đạo vương đề nghị:
– Quân số của Toa Đô còn hơn 7 vạn người. Nhưng chúng ở Chiêm lâu ngày, bệnh hoạn, đói khát, không thể địch lại hiệu binh Hàm tử. Võ công của hai tên này so với Quốc Toản, khó biết ai hơn ai. Vậy xin Hưng Ninh vương đem hiệu binh Tiền thánh dực, của Hưng Trí vương Quốc Hiện, hiệu binh Tả thánh dực, của Hưng Hiếu vương Quốc Uy đến trợ chiến.

Trong khi đang say chiến thăng đuổi theo Thoát Hoan, Ích Tắc; Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản được lệnh Hưng Nhượng vương cho rút hiệu binh Hàm tử về hậu cứ để dưỡng sức. Hưng Nhượng vương nói với ông em mà vương yêu nhất:
– Dù binh tướng của em được luyện tập, chịu gian khổ giỏi, dù họ có tinh thần chiến đấu hăng say, nhưng hiệu binh vừa trải qua 8 trận, 4 tháng không nghỉ. Em phải rút về Hàm tử cho họ phục hồi sức lực!
Thấy hầu vẫn chưa bằng lòng, vương tính đốt ngón tay:
– Hiệu binh của em đã đánh liền tám trận. Trận thứ nhất chặn Lý Hằng, Ô Mã Nhi ở Đâu đỉnh. Trận thứ nhì trấn Thăng long. Trận thứ ba trợ Chiêu Văn ở Ái châu. Trận thứ tư tái chiếm Trường yên. Trận thứ  năm đánh Tây kết. Trận thứ sáu đuổi Thoát Hoan ở Gia lâm. Trận thứ bẩy đuổi Thoát Hoan ở Như nguyệt. Trận thứ tám phục kích dọc đường Kiếp bạc, Chi lăng!
Hầu vui vẻ, ra lệnh lui binh. Xa Hàm tử  gần 2 năm, bây giờ chíến sĩ Hàm tử được về quê. Tuyên cao thái phi, Thánh mẫu Hồng Liên truyền làm tiệc khao quân ba ngày, làm lễ cầu siêu cho tử sĩ. Thấy tài sản của ấp phong súc tích, dư giả, phu nhân Như Vân truyền phát bổng thưởng thêm ba tháng cho chiến sĩ và gia đình.
Bà cháu xa nhau 3 năm, mà Tuyên cao thái phi cảm thấy như cả chục năm. Cao thái phi than:
– Cô An Tư tuẫn quốc, bà đau xót trong lòng. Nhưng nghĩ đến chững chiến thắng của cháu bà mừng vô hạn. Toàn quốc, chỗ nào cũng bị binh ách, người chết, nhà cháy. Duy Hàm tử  thì vô sự.
Phi tát yêu Như Vân:
– Bao giờ cháu dâng cho bà một thằng Quốc Toản con đây? Hai con tắm rửa rồi lên đây, bà có món quà cho hai con.
Quốc Toản, Như Vân thay y phục, tắm rửa rồi lên sảnh. Vừa bước vào, cả hai thấy hai phụ nữ đẹp tuyệt thế đang đứng tươi cười. Cả 2 vợ chồng gần như tê liệt, không bước thêm được bước nào. Vì 2 người đó là vương phi Ý Ninh, vương phi Thanh Nga. Quốc Toản, Như Vân ôm chầm lấy mẹ. Cả bốn người lặng đi, không nói lên lời. Như Vân tỉnh trước, phu nhân hỏi vương phi Thanh Nga:
      – Mẹ! Mẹ về bao giờ vậy? Bố có về không?
      – Không!
      Bà cháu, mẹ con, dâu rể được hưởng tình nhân luân trong ba ngày. Quốc Toản hỏi tin tức về Vũ Uy vương. Vương phi  Ý Ninh đáp:
– Trong nhà mình nảy ra hai cái họa, làm bố lâm vào thế khó xử. Địa vị bố tại Nguyên quá lớn, lại là người uy tín cực cao trong giòng họ nhà mình. Uy tín bố áp chú Hoảng (vua Thánh tông, dương kim Thượng hoàng). Nếu bố về thì chú Hoảng phải đặt bố vào địa vị nào? Đến Hưng Đạo vương vì uy tín quá cao, nên không dám giữ chức gì, mà chỉ lĩnh Tiết chế, để chú Hoảng khỏi lo lắng. Cái họa Di Ái làm cho bố mẹ không thể về quê chung sức với anh em chống giặc. Chức tước của bố là Trấn tây vương, cao gấp bội tước An Nam quốc vương của chú Hoảng. Tất cả tướng sĩ Nguyên đều khuất phục bố. Bố về thì chú Hoảng sẽ đặt bố vào địa vị nào? Bây giờ nảy ra cái vụ Ích Tắc! Bố càng không nên về.
– Dạ! Con hiểu ý bố.
Phi chỉ vào Tuyên cao thái phi:
– Bố mẹ đều biết rõ chi tiết vụ cô An Tư tuẫn quốc. Bố biết bà nội đau đớn lắm, nên người sai mẹ về thỉnh bà nội sang, để mẹ con gặp nhau. Bố nhìn thấy trước Thoát Hoan thất bại, ắt Hốt Tất Liệt sẽ đem quân sang đánh nữa. Con cần có mặt để đánh y. Bố dặn mẹ: mũi nhọn dễ gẫy. Với võ công, uy tín, chiến công của con, danh dự quá lớn. Con cần xa Đại việt một thời gian, để tránh lòng ghen ghét, của những kẻ xung quanh. Vậy sau trận này con xin Thượng hoàng hộ tống bà nội thăm bố, để xa nước một thời gian, cho cái mũi nhọn lờn đi một chút đã.
– Con hiểu ý bố. Con sẽ xin Thượng hoàng.
 Mấy hôm sau, trưa ngày 19 tháng 5, năm Ất đậu (23-6-1285) Đại tư  xã Thượng báo với hầu:
– Không biết có biến chuyển gì không, mà các chiến thuyền của hạm đội Thăng long, Bạch đằng di chuyển qua ấp, đi về phía Thăng long nườm nượp.
      Hầu chưa kịp ra sông quan sát thì quân báo:
            – Phán thủ thượng vị Nhân đức hầu Trần Toàn thống lĩnh hạm đội Âu Cơ, Hoàng sa bá Võ Văn Sáu thống lĩnh hiệu binh Bạch đằng xin cầu kiến.
Quốc Toản với Trần Toàn là anh em cháu chú cháu bác. Hầu phải gọi Toàn bằng anh.
      – Mời vào.
      Lễ nghi tất.
      Đô đốc Võ Văn Sáu cáo:
            – Thuộc hạ được tin bọn Toa Đô, Ô Mã Nhi, Lưu Khánh, Tiểu Lý thu dụng dân thuyền, tập trung chiến thuyền của bọn Trần Quang Kiện, Trần Tú Hoãn khi đầu hàng trao cho chúng. Chúng rút toàn bộ quân mã mặt trận phía nam ra biển. Thuộc hạ cử chiến thuyền theo dõi, báo cho Phán thủ thượng vị Nhân đức hầu Trần Toàn. Tin tế tác báo rằng, Toa Đô chưa biết Thoát Hoan bỏ chạy. Y định tiến về Thăng long hợp binh với nhau. Thuộc hạ được lệnh của Hưng Đạo vương khóa phía sau đoàn thuyền của chúng. Phán thủ thượng vị Nhân đức hầu Trần Toàn.
chặn phía trước không cho chúng tiến về Thăng long.
      Quốc Toản chưa có quyết định gì thì có ngựa trạm đem lệnh  của Hưng Đạo vương tới. Hầu mở lệnh ra đọc, rồi nói:
      – Hưng Đạo vương ban lệnh: bọn Toa Đô, Ô Mã Nhi quả chưa biết Thoát Hoan đã chạy, chúng định đem quân ra hợp với Hoan. Quân số của chúng khoảng 7 vạn. Chúng chia ra hai đoàn. Đoàn thứ nhất do Ô Mã Nhi, Lưu Khánh chỉ huy. Đoàn thứ nhì do Toa Đô, Tiểu Lý chỉ huy. Hưng Đạo vương đã cử Hưng Ninh vương đem hiệu binh Tiền thánh dực, của Hưng Trí vương Quốc Hiện, hiệu binh Tả thánh dực, của Hưng Hiếu vương Quốc Uy phục sẵn tại Tây kết. Hạm đội Âu cơ dàn ra chặn phía trước, bắt buộc Ô Mã Nhi phải đổ quân vào Tây kết cho Hưng Ninh vương diệt chúng. Hạm đội Bạch đằng chặn đánh cắt đôi đội hình của chúng, bắt buộc Toa Đô, Tiểu Lý phải đổ lên Hàm tử. Hiệu Hàm tử với hạm đội Bạch đằng thanh toán đám quân của Toa Đô.
      Hầu nói với Trần Toàn:
      – Anh mau tới Tây kết nhận lệnh của Hưng Ninh vương.
      Toàn cáo biệt lên đường.
      Quốc Toản với Võ Văn Sáu đem bản đồ khu Hàm tử ra nghiên cứu. Sáu bàn:
      – Đoàn của Thoát Hoan có 170 thuyền, của Ô Mã Nhi có 210 thuyền. Trung bình mỗi thuyền có 150 người. Thoát Hoan sẽ đổ lên Hàm tử  3 vạn. Quân Toa Đô ở Chiêm lâu ngày, bị bệnh do lam chướng, do muỗi, thiếu ăn; sức chiến đấu kém, thì khi đổ bộ lên, chỉ cần 1 hiệu Hàm tử đủ tiêu diệt chúng.
Vương phi Ý Ninh mỉm cười:
– Đô đốc quá giỏi thủy chiến, đánh Mông cổ trên biển như đánh vịt quen rồi, nên muốn dùng sức mạnh. Tôi nghĩ trường hợp này không nên.  Binh thư yếu lược có nói:
“Phàm dụng binh chi đạo,
Toàn quân vi thượng sách,
Phá quân thứ chi“.
Quân của Toa Đô trên 3 vạn. Hiệu Hàm tử vạn rưỡi. Mình có diệt được chúng cũng mất 5, 6 nghìn người. Aáy là không kể ấp này sẽ bị cháy nhà, hoa mầu tan tác.
Phi nhìn Quốc Toản:
– Con được Thượng hoàng khen là dùng binh như thần. Vậy con định sao?
– Ngày mai 20 tháng 5, là ngày nước sông Hồng ròng, mực nước xuống thấp nhất vào giờ ngọ, mùi, thân. Đô đốc dấu các chiến thuyền của mình vào các nhánh sông nhỏ. Tôi ước tính đoàn thuyền của Ô Mã Nhi sẽ đi trước. Đoàn của Toa Đô đi sau. Ta để cho đoàn của Ô Mã Nhi đi qua. Bấy giờ đô đốc đổ chiến thuyền từ sông, lạch nhỏ ra chặn đường tiến của Toa Đô. Khi đoàn của Toa Đô tới Hàm tử, đô đốc xua thủy quân đánh chúng. Tôi sẽ sai Ngạc binh đục thuyền chúng. Thuyền chìm chúng phải ghé vào bờ đổ bộ lên. Từ bờ sông tới đê khoảng 25 trượng (50 m) là vùng lầy lội, đầy hố nước. Chúng phải lội bùn tới bờ đê. Tôi sẽ dàn Nỏ thần, cung thủ tại đê, đợi chúng lội nửa đường thì bắn. Bấy giờ chúng tiến lên, hay lùi cũng chết. Trên bãi sông có bốn bờ đỗi tiến vào đê không lầy lội. Có thể những tướng lĩnh của chúng dùng mộc đỡ tên, đổ bộ vào đê. Tôi trấn một lối, mẹ tôi trấn một lối, bạch viên trấn một lối, vương phi Thanh Nga trấn một lối; Như Vân điều quân giữ ấp. Tất cả trấn không cho chúng lên bờ.

      Ngày 20 tháng 5 năm ất dậu (23-6-1285) niên hiệu Thiệu Bảo thứ 7 đời vua Trần Nhân tông. Bên Trung nguyên là niên hiệu Chí Nguyên thứ 22 đời Thế tổ Hốt Tất Liệt.

Tại Hàm tử, vương phi Ý Ninh, vương phi Trung nghĩa vương Thanh Nga, Hoài Văn hầu, phu nhân Trần Đại Như Vân đã bố trí quân xong từ cuối giờ thìn. Ba binh Tế tác leo lên cây cao, nhìn về cuối sông Hồng. Nước sông tiếp tục rút xuống. Sang giờ ngọ, Tế tác báo:
– Từ cuối giòng, một hàng thuyền kéo cờ Nguyên đang tiến tới. Chúng thúc trống, khua chiêng vang vang.
Hơn khắc sau đoàn thuyền đi ngang qua Hàm tử. Tế tác báo:
– Tổng cộng 180 thuyền.
Phu nhân Như Vân biết đây là đoan thứ nhất của Ô Mã Nhi với Lưu Khánh. Đợi đoàn thuyền đi xa, phu nhân cầm dùi đánh ba tiếng chiêng. Lập tức thuyền của hạm đội Bạch đằng từ các nhánh sông nhỏ tiến ra sông Hồng. Các chiến hạm dàn ra  thành 3 hàng, chặn đường tiến về trước. Thủy quân vừa dàn xong thì Tế tác báo:
– Thuyền Nguyên ở cuối sông đếm không hết, đang tiến lên. Chúng thúc trống, khua chiêng.
Đoàn thuyền Nguyên tới khúc Hàm tử thì đoàn chiến thuyền Bạch đằng dàn ngang. Thuyền nguyên cũng dàn ngang. Nhưng sông hẹp quá, mỗi hàng chỉ được 5 chiếc. Đây là những thuyền chở bộ binh, kị binh. Binh sĩ không quen thủy chiến. Bước lên sàn thuyền, thuyền chòng chành, ngã xiêu, ngã lộn. Trong khi chiến sĩ thủy quân Bạch đằng là những người sinh ra, lớn trên biển, luyện tập quen. Họ tung mình sang thuyền Nguyên, chém giết như chém bầy heo. Chỉ không đầy một khắc, bốn hàng chiến thuyền Nguyên bị chiếm.
Thình lình quân Nguyên kêu thét lên:
– Thuyền thủng đáy, nước tràn vào thuyền.
– Thuyền chìm.
Những người lái thuyền thấy thuyền chìm thì áp vào bờ. Không có cầu leo lên, mạnh ai nấy  nhảy xuống sông, lóp ngóp lội vào bờ. Cả một khúc sông lố nhố đầy người. Một số đã vào được  bờ. Vũ khí không, giáp trụ không, cung tên không. Tất cả đưa mắt nhìn vào con đê cao vòi vọi. Phía sau thủy quân Việt đang bắn như bắn vịt.
Tiểu Lý nói với Toa Đô:
– Quân mình là quân bộ, quân kị, không địch lại bọn thủy quân Bạch đằng. Chúng dùng Ngạc binh đục thuyền. Bây giờ mình phải tiến quân lên đê rồi chiếm mấy ngôi làng, sau đó tiến về Thăng long.
Toa Đô hỏi một tên hướng đạo người Việt:
– Đây là đâu? Trên bờ có quân Việt không?
Thình lình trống thúc vang dội! Trên ba cây cao cạnh bờ đê ba ngọn cờ Đại Việt kéo lên. Trên bờ đê hơn mười cây cờ mang chữ:
Phá cường địch báo hoàng ân.
Tên dẫn đường kinh hoảng hét lên:
– Trên bờ có hiệu binh Hàm tử. Hiệu này do Hoài Văn hầu thống lĩnh.
Toàn thế binh tướng Nguyên từng nghe đồn đại về hiệu binh Hàm tử với Hoài Văn hầu, hiệu Tứ thần với Hoài Nhân vương. Bây giờ giữa lúc họ đang bị chìm thuyền, lội lõm bõm ở bờ sông, tìm cách lên bờ đê thì trên bờ đê lại xuất hiện hiệu Hàm tử.
Phía sau thủy quân Việt vẫn nã tên veo véo.Toa Đô lăm lăm đoản đao, men theo một bờ đỗi. Tiểu Lý men theo một bờ đỗi. Quân sĩ xếp hàng theo sau. Một số lội ruộng tiến vào đê, tránh tên của thủy quân Việt.
Thình lình một tiếng keng vang lên. Trên đê cung thủ Việt xuất hiện bắn xuống. Binh tướng Nguyên kêu thét lên kinh khủng. Toa Đô, Tiểu Lý nhấp nhô mấy cái đã lên được đê. Tiểu Lý  gặp một tướng trẻ, thân thể hùng vĩ chính là Quốc Toản. Quốc Toản đánh một chiêu, y bị bay tung xuống sông. Y bơi lóp ngóp lại một con thuyền chìm, phần trên nhô trên mặt nước. Hoài Văn hầu lại đánh ba chiêu liền, tất cả binh sĩ theo sau Tiểu Lý bị bay tung xuống ruộng.
Toa Đô dẫn đầu một đội quân, vừa lên được đê thì gặp bạch viên. Bạch viên  xáng một côn sắt. Toa Đô khinh thường dùng đao gạt. Choang một tiếng, đao của y suýt vuột khỏi tay. Cánh tay y tê rần. Y vọt mình lên đê. Bạch viên lại vung côn tấn công. Toa Đô là một tướng võ công cao nhất quân Nguyên. Hồi đánh Tống, đánh Nhật, không một tướng nào chịu của y được quá 20 chiêu. Còn bạch viên thì công lực thâm hậu, nhưng chiêu số chỉ có giới hạn. Quân Nguyên theo sau Toa Đô đã lên được trên đê khá đông, đang giao chiến với quân Hàm tử. Thanh Nga trấn trên một bờ đỗi. Kiếm thuật của phi khá tinh vi, nên không một tên lính Nguyên nào lên được đê. Tại bờ đỗi vương phi Ý Ninh trấn, quân Nguyên, tướng Nguyên nào cũng chỉ chịu được 2, 3 chiêu là mất mạng.
Hoài Văn hầu đánh bay Tiểu Lý rồi, thì không còn tướng nào dám tiến lên. Thấy bạch viên bắt đầu yếu thế, hầu hú lên một tiếng lanh lảnh, vọt mình tới. Còn ở trên không hầu rút thanh kiếm Trấn bắc xỉa vào giữa làn đao quang của y.  Choảng một tiếng, cánh tay Toa Đô tê rần, đao suýt vuột khỏi tay. Y cảm thấy chân khí bị mất hết. Y nhảy lùi lại, quát lên:
– Phải chăng mi là Trần Quốc Toản?
– Chính thị.
– Uổng cho mi là đệ nhất cao thủ An Nam, mà hai người đánh một. Nếu mi là anh hùng hãy cùng ta đơn độc đấu.
Quốc Toản cười nhạt:
– Bạch viên đâu phải người? Mi muốn đơn đấu ư? Được, nếu mi thắng ta, ta sẽ mở vòng vây cho tất cả binh tướng của mi rời đây.
Toa Đô cũng đánh cuộc:
– Ngược lại nếu mi thắng ta thì ta đầu hàng An Nam cùng với tất cả binh tướng.
Bạch viên tung mình leo lên chót vót cây đa bên cạnh.
Như Vân cầm cờ phất, quân Hàm tử, lui vào trong làng, nhưng vẫn dàn trận nghiêm chỉnh. Quân Nguyên ào ào lên đê. Toa Đô nhìn binh tướng của mình, hơn 3 vạn, mà bị thủy quân giết, bị chết đuối, bị tên bắn ở bờ đê, chỉ còn hơn vạn, y phục tả tơi, vũ khí không còn.
 Y đứng thủ thế:
– Nào mời!
Hoài Văn hầu biết đây là một kỳ tài võ học, cần phải giết y để bớt một mối nguy cho binh tướng Việt. Hầu xuất chiêu: Lâm trung kiến ngưu, một chiêu cực kỳ phức tạp trong bộ Tán lạc tiêu hồn chưởng. Toa Đô thấy chưởng đối phương như có như không. Y vận đủ mười thành công lực đỡ. Xèo, kình lực của y biến mất. Y đánh một chiêu trong bộ  Thái cực chưởng mà y học được của võ lâm Trung nguyên, chân từ Càn vị bước sang Trấn vị. Quốc Toản phát chiêu Phản bản hoàn nguyên đỡ. Hai chưởng chạm nhau, hầu cảm thấy như đánh vào bị bông. Kinh hãi hầu nghĩ:
– Thái cực chưởng là chưởng đặt căn bản trên Dịch lý, thì  Mục ngưu chưởng không phá được. Hầu lui lại sau, tay vòng ra lưng móc cái chài. Hầu dùng Thiên la thập bát thức, chân từ Khôn vị, bước sang Đoài vị. Chài chụp lên đầu Toa Đô. Toa Đô kinh hoàng tay rút kiếm. Kiếm rít lên vo vo. Đấu được trên trăm chiêu, thấy Thiên la thập bát thức không khống chế được Thái cực kiếm. Quốc Toản quẳng chài, tay rút thanh Trấn bắc. Hầu dùng Mê linh kiếm pháp. Lại hơn trăm chiêu, vẫn không thắng đối thủ. Thình lình Toa Đô xả một chiêu rất thô kệch. Vương phi Ý Ninh đứng lược trận, nhắc con:
– Kiếm pháp Hồi cương.
Bất đắc dĩ Quốc Toản phải trực diện đỡ. Chít một tiếng, kiếm của Toa Đô bị đứt tận chuôi. Biết nguy, y lao đầu vào Quốc Toản, hai tay bóp cổ hầu. Lúc tay y dơ lên, hầu xỉa kiếm vào nách phải y. Kiếm xuyên thủng áo giáp từ ngực xéo xuống bụng. Quá đau, y bóp cổ hầu. Bạch viên ở trên cao  thấy chủ lâm nguy, nó nhảy xuống, tay xáng một côn vào lưng Toa Đô. Bốp, xương sống Toa Đô bị dập, y buông Quốc Toản ra, người lảo đảo. Hầu rút kiếm khỏi thân y, đưa một nhát, đầu y rơi xuống đất.
Tiểu Lý thấy Toa Đô chết, y rút kiếm tự tử. Phu nhân Như Vân hô lớn:
      – Ngừng tay!
      Nàng đánh một chưởng, khiến kiếm của y văng ra xa. Như Vân điểm huyệt rồi nắm tay y:
      – Tướng quân! Được thua là truyện thường tình của binh gia. Huống hồ tướng quân là người Hán, việc gì phải chết cho Thát đát.
Như Vân phất cờ, quân Hàm tử bao vây đám quân Nguyên trên đê. Vương phi Ý Ninh hô bằng tiếng Hoa vùng Kinh hồ, Lâm an:
– Đầu hàng thì được tha chết.
Đám quân Nguyên quẳng vũ khí quỳ gối xin hàng.
Phu nhân Như Vân ra lệnh cho quân Hàm tử:
– Đây là những tinh hoa của tộc Hán, bị rợ Thát đát đem sang đây chịu chết. Hãy đối xử tử tế, nuôi ăn thực chu đáo.
Đô đốc Võ Văn Sáu báo cáo:
      – Thưa vương phi, thuộc hạ bắt được 72 thuyền của Nguyên, cầm tù 8 nghìn người.
      Đạo binh Hàm tử cũng thu được hơn một vạn binh đầu hàng. Sau khi cho tù binh ăn uống với thịt cá ê hề. Như Vân chuyển họ xuống hạm đội Bạch đằng chở về Thăng long.

Có sứ giả của Thượng hoàng tới. Vương phi Ý Ninh hỏi:
– Mặt trận Tây kết thế nào?
Sứ giả trình:
– Ô Mã Nhi với đoàn thuyền chở quân đổ lên Tây kết. Khi đổ một nửa thì bị hai hiệu binh Tiền thánh dực, của Hưng Trí vương Quốc Hiện, hiệu binh Tả thánh dực, của Hưng Hiếu vương Quốc Uy ép hai bên. Trên sông hạm đội Thăng long với đội Ngạc binh đánh đắm gần hết các thuyền chở quân. Ô Mã Nhi xung sát thì gặp Hưng Ninh vương. Vương chỉ đánh 10 chiêu, y lạc bại, bị vương điểm huyệt. Biết vương là bồ tát tại thế, y niệm:
– Nam mô Tuệ Trung bồ tát. Xin bồ tát mở lượng từ bi đại xá cho đệ tử.
Vương hạ lệnh:
– Nếu hô tất cả binh tướng đầu hàng ta sẽ tha chết.
Ô Mã Nhi làm theo. Giữ lời hứa, vương cấp cho Ô Mã Nhi với Lưu Khánh một con thuyền, trên có 10 thủy thủ Mông cổ, cùng lương thực, nước ngọt, rồi cho  hạm đội Thăng long hộ tống y tới bờ biển.
Sứ giả nói:
– Triều đình biết quân hầu sẽ thắng, nên sai tôi tới thưa với hầu: đem tù binh về Thăng long. Thỉnh hầu về Thăng long nghị sự.
Hầu hỏi vương phi Ý Ninh, Thanh Nga:
– Hai mẹ có về Thăng long không?
Vương phi Ý Ninh lắc đầu:
– Vai vế trong họ của bố, địa vị bố quá lớn. Mẹ về, triều đình phải đón tiếp phiền phức quá. Mẹ không về đâu. Con với Như Vân về được rồi. Mẹ ở đây với bà nội. Sau trận này uy tín, công lao của con quá lớn. Nhớ, phải thực nhũn nhặn, bằng không triều đình sẽ cho rằng con kiêu căng.
– Mẹ ơi! Con là cháu nội của một ông vua uyên thâm Phật pháp mà! Mẹ khỏi lo.
Quốc Toản, Như Vân về tới Thăng long giữa lúc triều đình thiết triều. Hầu bưng cái hộp đựng đầu Toa Đô đâng cho hoàng đế Thiệu Bảo. Hoàng đế để hộp giữa án thư, rồi mở ra cho triều đình xem. Ngài nói:
– Làm tôi phải nên như người này.
Rồi ngài lấy áo long bào trùm lên hộp, ban chỉ cho Tổng thái giám:
– Khanh hãy về Hàm tử lấy thây người này, ráp với đầu, rồi chôn cất tử tế, để sau này vợ con người ta sang, còn biết nơi chôn cất, mà cải táng mang về.
Hoài Văn hầu nghĩ thầm:
– Trong nhà mình đã có ông bác là Tuệ Trung bồ tát, thêm ông vua Thiệu Bảo này là đệ tử của ông bác, nhân từ hiếm có!
Về phần Hoài Văn hầu, đau xót vì Hoài Nhân vương tuẫn quốc. Hầu hỏi Thượng hoàng bằng ngôn từ bình dân:
– Thưa chú! Kể từ khi viễn tổ Tự An ban luật:
“ Người trong giòng hộ Đông a tuyệt đối không được giết nhau. Tuyệt đối không để người ngoài giết người trong giòng họ trước mặt mình“.
Chính vì vậy mà chú ban chỉ ân xá cho ông Trần Di Ái, các chú Trần Văn Lộng, Trần Quang Kiện, Trần Tú Hoãn về tội bắt cóc cháu, mưu xóa bỏ chứng cớ làm gian tế cho Mông cổ. Từ khi cháu học được bản lĩnh thừa sức chặt cổ bọn bắt cóc mình, nhưng tuân chỉ chú, cháu đành ngậm bồ hòn. Thế rồi ông Di Ái phản quốc, các chú Tắc, Lộng, Kiện, Hoãn đâm sau lưng tộc Đông a, đâm sau lưng binh tướng hy sinh vì triều đình. Thảm thiết hơn nữa chú Ích Tắc đang tâm giết em ruột là cô An Tư, cháu ruột là Quốc Kiện. Không biết bây giờ cháu có thể tìm chú ấy, để xử tội không? (3)
Thượng hoàng còn đang suy nghĩ thì Hưng Ninh vương trả lời:
– Quốc Toản ơi! Cháu có tin rằng bác yêu thương cháu không?
– A Di Đà Phật, cháu biết bác là bồ tát, lòng dạ rộng hơn biển.
– An Tư chết, Quốc Kiện chết, chẳng qua là số phận, nghiệp quả  do kiếp trước để lại. Nếu cháu tìm chú Ích Tắc, giết chú ấy thì nghiệp quả của cô An Tư, của Hoài Nhân vẫn chưa hết.
– Thưa bác, hiện bà nội cháu là Tuyên cao thái phi, ngày đêm thương nhớ cô An Tư, thân thể hao mòn. Cháu nghĩ chỉ có cái đầu chú Ich Tắc mới có thể để cho bà nội cháu nguôi mối thương tâm.
Như Vân bước ra xin tâu.  Thượng hoàng vẫy tay:
– Cháu là vợ Quốc Toản, thì là người tộc Đông a. Cháu cứ tâu.
– Chú là Thượng hoàng Đại Việt. Chú ban chỉ  ân xá cho những người như chú Tắc, Kiện, Lộng, Hoãn thì chỉ có hiệu lực trong lãnh thổ  Đại Việt.  Nếu chú vẫn quyết tâm nhẹ tay với mấy người đó thì cháu tin rằng anh Quốc Toản sẽ nhờ phụ vương cháu, hiện đang thống lĩnh Cần vương Tống xuống tay. Hoặc giả bố Nhật Duy, mẹ Ý Ninh của chúng  cháu ra tay, e còn kinh khiếp hơn nữa.
Nghe Như Vân nhắc đến Vũ Uy vương, cả triều đình đều ớn xương sống. Như Vân tâu tiếp:
– Vương mẫu Thanh Nga, Ý Ninh mới từ Trung nguyên về Hàm tử vấn an bà nội. Hai vị có dự trận Hàm tử. Sau buổi thiết triều này cháu sẽ về khải với hai vị, để hai vị sang Trung nguyên hành sự. Cháu cam đoan rằng chú Ích Tắc ba đầu sáu tay cũng bị vương mẫu Ý Ninh chặt hết. Sớm thì một tháng, trễ thì nửa năm.

––––––––––––––––––––––––––––

           
(1). Về cái chết của Hoài Nhân vương Quốc Kiện, các sách sử chép lầm là Hoài Văn hầu Quốc Toản. Nguyên do sách Kinh thế đại điển tư lục đã lầm chữ Nhân thành chữ Văn.
Nguyên sử, q.209, An nam truyện chép:
“Quan quân (chỉ quân Nguyện) rút đến sông Như nguyệt
Nhật Huyên (vua Thánh tông) sai Hoài Văn hầu đến đánh“.
Kinh thế đại điển tư lục chép:
“Thoát Hoan chạy đến sông Như nguyệt, Nhật Huyên sai Hoài Văn hầu đuổi theo. Giết được Hoài Vân hầu“.
Thế rồi các sách cứ theo Kinh thế đại điển tư lục chép lại. Do lầm chữ Nhân thành chữ Văn. Rồi quyết rằng Trần Quốc Toản tuẫn quốc tại sông Như nguyệt.
ĐVSKTT chép về hội nghị Bình than (1282) ghi rằng khi Hoài Văn hầu tử trận, vua rất thương tiếc, truy phong tước vương. ĐVSKTT không chép rõ Hoài Văn hầu tử trận năm nào!Tại đâu?
Ngày mà  Kinh thế đại điển tư lục chép Hoài Văn hầu bị giết là ngày 6 tháng 5 năm Ất dậu (10-06-1285). Trong khi gia phả của Chiêu quốcvương, chính vương chép:
“ Trận Như Nguyệt, ngày 6-5, niên hiệu Chí nguyên thứ 22, Quốc Kiện đuổi theo chú, buông lời vô lễ. Giết Quốc Kiện“.
 Rõ ràng Ích Tắc thuật mình giết Hoài Nhân vương thì sai thế nào được.
 Các gia phả  của giòng Hưng Nhượng vương, Hưng Vũ vương, chính gia phả của Chiêu Quốc vương đều chếp Quốc Toản giết Toa Đô, bắt Ô Mã Nhi.
Nếu Quốc Toản tuẫn quốc ngày 6 tháng 5, thì sao ngày 20 tháng 5, tức 14 ngày sau vương có thể giết Toa Đô ở Hàm tử? Rồi chính vương đánh bay Ô Mã Nhi xuống sông Bạch đằng, Đỗ Hành dùng câu liêm móc y lên chiến thuyền bắt sống y vào ngày 8 tháng 3 năm  Mậu tý  (9-4-1288)? Tức gần 3 năm sau.
Trong các gia phả đều chép ngày giỗ Hoài Nhân vương Quốc Kiện là 6 tháng 5. Ngày giỗ của Hoài Văn vương Quốc Toản là 18 tháng 9.
Tôi chỉnh lại một sai lầm lớn của lịch sử với tất cả dè dặt.

Tra trong Nguyên sử, Việt sử, gia phả chúng tôi ghi nhận Hoài Văn vương là tướng vô địch, đánh đâu thắng đó. Vương đã đánh các trận sau.
– Một là trận Đâu đỉnh, chặn đạo quân dùng thượng đạo đánh úp Chi lăng, do Lý Hằng, Ô Mã Nhi chỉ huy. (Cùng Hoài Nhân vương)
– Hai là trận trấn Thăng long chặn không cho Mông cổ chiếm Thăng long (cùng Hoài Nhân vương).
– Ba là trận cứu viện Chiêu Văn vương ở Thanh hóa (Cùng Chiêu Minh vương)
– Bốn là trận tái chiếm Trường yên (Cùng 2 vua, Khâm Từ hoàng hậu)
– Năm là trận Tây kết (Cùng Hoài Nhân vương)
– Sáu là trận tái chiếm Thăng long (Cùng Chiêu Minh vương, Chiêu Văn vương, Hoài Nhân vương)
– Bẩy là trận truy Thoát Hoan ở Như nguyệt (Cùng Hưng Đạo vương, Hưng Ninh vương, Hoài Nhân vương).
– Tám là trận Hàm tử, giết Toa Đô (cùng nhiều tướng)
– Chín là trận Bạch đằng bắt Ô Mã Nhi (cùng nhiều tướng)
Gia phả  của giòng Hưng Vũ vương, Hưng Hiếu vương, Nhượng vương, Hưng Trí vương, gia phả của con cháu Hoài Văn vương ở Phúc kiến đều có bài tán giống nhau như sau:
Tam tổ thị Hoài Văn,
       Trí dũng thực vô biên,
                      Niên thiếu cam thống khổ.
Lao tù tại Trường yên.
Ngự tứ Trấn bắc kiếm.
Cửu độ phá ác Nguyên
       Truy Thoát Hoan Như nguyệt
       Hàm tử trảm Toa Đô.
       Bạch đằng cầm Ô Mã.
       Di dức vạn vạn niên.

Tạm dịch:
Tổ thứ ba Hoài Văn,(1)
Trí, dũng thực vô cùng.
Thời niên thiếu thống khổ,
Bị cầm tù tại Trường yên (2)
Được  ban kiếm Trấn Bắc,(3)
Chín trận phá giặc Nguyên,(4)
Đuổi Thoát Hoan Như nguyệt,
Trận Hàm tử giết Toa Đô, (5)
Trận Bạch đằng bắt Ô Mã i,(6)
Để đức lại vạn năm.

1. Các gia phả con cháu họ Trần chia làm 3: một là Đế phái, tức hậu duệ các vua. Hai là Thánh phái, hậu duệ của Hưng Đạo vương. Ba là vương phái, hậu duệ của chư vương. Gia phả con cháu Trần Quốc Toản thuộc Đế phái. Nên chép tổ thứ nhất là vua Trần Thái tông. Tổ thứ nhì là Vũ Uy vương. Tổ thứ ba là Hoài Văn vương. Như con cháu Minh Trí hầu Trần Linh thuộc Vương phái. Vì hầu là con của Hưng Ninh vương. Như họ Đặng ở Hành thiện, Nam định thuộc Thánh phái, vì là hậu duệ của Hưng Hiếu vương Quốc Uy, con thứ ba của Hưng Đạo vương.

2. Sử  không chép vụ Trần Quốc Toản bị Trần Di Ái, Trần Quang Kiện, Lê Tắc bắt giam ngài tại Trường yên. Vụ việc này chỉ chép trong gia phả.      

3. Chỉ Trần Quốc Toản được vua ban cho thanh kiếm Trấn Bắc. 

4. Chín trận đã chép ở trên.       

5. Quốc Toản đánh trận Hàm tử, Bạch đằng, chứng tỏ ngài không tuẫn quốc như sách Kinh thế đại điển tư lục chép.

Đầu thế kỷ thứ 20, nhà thơ Phan Kế Bính có làm lài thơ ca tụng vương, được chép trong các sách giáo khoa dành cho học sinh cấp tiểu học, nay là cấp 1.

Giỏi thay  Trần Quốc Toản,
Tuổi trẻ dư can đảm.
Dốc bụng báo hoàng ân,
Cả gan bình quốc nạn.
Cờ bay giặc hãi hùng.
Giáo trở Nguyên tan rã,
Lừng lẫy tiếng anh hùng.
Giỏi thay Trần Quốc Toản.

Gia phả của con cháu Hưng Vũ vương (con trưởng của Hưng Đạo vương) còn chép thêm 4 chiến công của Hoài Văn vương nữa là 13:
– Trợ Chiêm, bắt gian vương Chiêm,
– Đánh trận Hỏa giáp, phá đạo quân Sài Thung, bắt gian vương Di Ái.
– Đánh chặn Thoát Hoan ở Bắc cương (cùng Vũ Uy vương).
– Giải phóng Thăng long.
Vì vậy mới có câu :
Hoài Văn thập tam chiến,
Uy vũ chấn Trung nguyên.
Nghĩa là: Hoài Văn vương thắng 13 trận, oai rung động Trung nguyên.

(2). Dã sử, huyền sử Việt đều nói rằng Thoát Hoan, Ích Tắc bị Trần Quốc Toản, Dã Tượng ném đá truy kích mấy trăm dặm. Hai người phải chui vào váy của vợ Thoát Hoan, Lý Hằng mới thoát chết. Từ đấy trong dân gian có câu tục ngữ: núp váy vợ. Hoặc chửi tục: Đồ hèn! Núp váy vợ. Khi viết đến đây tôi đẳn đo: có nên chép sự kiện dơ bẩn này vào bộ sách thuật hành trạng của những anh hùng bậc thánh của Đại việt không? Sau khi tham khảo ý kiến cua 50 độc giả, 50  văn hữu, tất cả đều đồng ý thuật lại, vì đó là nguồn gốc một từ ngữ dân gian. Một nét văn hóa gần nghìn năm của người Việt.

            Tội Trần Ích Tắc quá nặng với Đại việt.
            Sau khi Thoát Hoan đại bại, rút về năm 1288, Nguyên Thế tổ Hốt Tất Liệt đầy y ra Dương châu. Bọn triều thần tâu những công lao làm gian tế của Ích Tắc, nhà vua ban cho chức Bình chương sự ở Ngạc châu (Hồ quảng), tương đương với ngày nay là Trợ lý chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh. Lại ban cho 500 mẫu ruộng. Thế tổ băng, Thái tử Chân Kim lên kế vị tức vua Thành tông, nhớ tội Ích Tắc làm hại Ngọc Kỳ, nhà vua ban chỉ thu lại số ruộng trên. Gia thuộc trải qua một thời kỳ túng thiếu, đến nỗi phải đi đánh cá sinh sống. Năm 1308 Nguyên Vũ Tông lên ngôi, xét lại sử cũ, thấy Ích Tắc gìa nua, thương tình lại ban cho số ruộng cũ. Trong bài chiếu, có đoạn:

            “Vớt kẻ đắm thuyền, cứu người chết cháy là điều nên làm.
            “ Xét công lao Ích Tắc là người từng theo quân vương 2 lần, ban lương ăn, tối sống nhờ trọ; ở bên hồ gần 30 năm, thờ trải 4 triều, chi vẫn không sai tiết cũ“.

             Đứng trên phía Nguyên, thì là điều vua tỏ lòng thương xót kẻ bán nước theo Nguyên. Nhưng đứng trên lòng người Việt, đây là áng văn phỉ nhổ. Sau Ích Tắc chết ở Ngạc châu, thọ 70 tuổi,  vua Nguyên ban thụy là Trung mẫn.

(3). Ích Tắc bội cha, phản anh chỉ vì muốn được giặc ban cho cái danh An Nam quốc vương. Aáy vậy mà y còn tỏ ra mặt dầy, khi làm bài thơ tự biện hộ: mình theo Nguyên không giống Tấn Văn công bôn ba hải ngoại, muốn làm chúa Tấn. Mà giống như Vi tử Khải hàng Võ vương để giữ gìn lăng tẩm tiên vương.

Xuất quốc,
Đương niên trượng nghĩa xuất Nam bang,
Cảnh cảnh đan ai đối bỉ sương.
Bất thị Văn công đào Tấn nạn (a)
Thứ cơ Vi tử kế Ân vong.(b)
Cơ cừu vị dẫn tiền nhân chí.
Giản sách tư lưu hậu thế phương!
Hoàn vũ xa thư hội đồng nhật,
Cố gia tông tự Việt sơn trường.

Bỏ nước,
Năm xưa vì nghĩa bỏ Nam bang,
Phơi với trời xanh tấm dạ vàng.
Nào phải vua Văn lo nạn Tấn,
Những mong ông Khải nối giòng vong.
Cơ cừu hai chữ lòng tiên tổ,
Sử sách muôn đời tiếng vẻ vang.
Bốn bể thông đồng khi gặp hội,
Nước còn đồi núi, lửa còn hương.

(a)   Thời Xuân thu, Chiến quốc, Tấn linh công sủng ái một cơ thiếp. Bà này muốn giết các con chồng là Thái tử Lịch Sanh, Trùng Nhĩ, để dành ngôi vua cho con mình. Bà cùng gian thần giả chỉ dụ của Linh công gọi Lịch Sanh về rồi ban chỉ giết. Lịch Sanh biết lệnh giả, vẫn về, chịu chết để được tiếng là tử hiếu, thần trung. Em Lịch Sanh là Trùng Nhĩ, bỏ nước lưu vong. Sau mượn quân Tần về chiếm lại ngôi, tức Tấn Văn công. Ích Tắc tự  ví mình theo Nguyên, không phải giống Lịch Sanh, mưu cầu ngôi vua. Trong khi sự thực Ích Tắc muốn tranh ngôi với Thánh tông.

(b)   Vi Tử Khải, con vua Trụ. Khi Võ vương phạt Trụ. Vi tử Khải xin hàng, mong được tha mạng, để gìn giữ lăng tẩm tổ tiên, và  muốn sống để nối dõi dòng giống. Võ vương chuẩn cho.

Thế nhưng thực tế, Thoát Hoan sai binh lính quật lăng vua Thái tông, đem xương vứt ra đồng cho chó tha. Nhưng đó là lăng giả. Vậy mà Ích Tắc vẫn cúc cung trung thành với Nguyên.
Suốt trong chiều dài 5 nghìn năm lịch sử, mỗi lần các triều đại Trung nguyên muốn thôn tính Đại việt, họ đều tìm những kẻ ngu xuẩn, vô tài, bất đức, rồi lên mật nhân nghĩa trợ giúp. Chưa một lần nào bọn vong quốc này thành công, và mưu đồ của Trung nguyên đạt được.
Gần đây nhất, Việt gian Hoàng Văn Hoan, tranh quyền với nhóm Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, bị thất bại, trốn sang Trung quốc, mưu cầu thế lực Trung quốc về ngồi lên đầu, lên cổ dân Việt. Cuối cùng chết trong cô độc. Hồn bay phiêu phưởng làm ma đói ở Bắc kinh.
Ấy thế mà khi thấy Hoan chạy sang Trung quốc, bọn lưu manh thất nghiệp, chết đói ở Paris, đội tên cộng sản cù lần, nửa mùa Trương Như Tảng lên đầu, kéo sang Bắc kinh, quỳ gối bái tên Hoàng Văn Hoan làm lãnh tụ, xin Trung quốc cho tiền, cho súng về nước giết cha, giết mẹ. Trung quốc không thí cho một tệ, đuổi về. Kinh tởm hơn nữa tên ký giả Cậu Chó (Tô Văn) từ Mỹ sang Pháp cúc cung theo mấy tên lưu manh hề. Chẳng được đồng nòo, bị đánh thuốc độc bán thân bất toại, chết trong ô nhục.

Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét