HỒI THỨ TÁM MƯƠI
Hán Việt giai huynh đệ
Vương hướng vào cử tọa:
– Mời chư tướng hiệu Thiệu Hưng nhận lệnh.
Hơn một trăm người đứng dậy:
– Thống lĩnh hiệu binh này là đại tôn sư võ học Phùng Tập.
Cạnh Phùng sư phó là : Hữu thiên ngưu vệ thượng tướng quân, An
biên tử, Trần Quốc Vỹ. Ngày mai sẽ lên đường vào giờ thìn. Ngay chiều nay Phùng
sư phó phải cho Vệ Đại đởm khởi hành trước, cùng với đội Ngao binh, Ưng binh, để
mở đường. Dùng chim ưng, Phi mã liên lạc với nhau. Hoa sơn ngũ hiệp sẽ cử người
dẫn đường, cũng là người liên lạc giữa ta với Đô đốc Giang an. Khi tới Chiêu
thông sẽ xuống thuyền đi Giang an. Từ Giang an đi Thành đô sẽ do thủy quân Tống
chuyên chở.
Yết
Kiêu vẫy tay, tướng sĩ hiệu Thiệu Hưng cùng rời phòng họp.
– Mời
chư tướng hiệu Văn Bắc nhận lệnh.
Hơn trăm
người đứng dậy.
–
Thống lĩnh hiệu binh này là : Tả thiên ngưu vệ Đại tướng quân, Khâu Bắc bá Trần
Quốc Kinh, cùng năm ái đồ của đại sư Huệ Đăng .Tất cả đều là những người văn
mô, vũ lược, kinh nghiệm chiến đấu. Đợi cho hiệu Thiệu Hưng lên đường ba ngày thì
cho hiệu Văn Bắc tiếp theo. Tuy đã có hiệu Thiệu Hưng đi trước, nhưng cũng cần
cho Vệ Đại đởm, Ngao binh, Ưng binh đi mở đường. Hoa sơn ngũ hiệp sẽ đi theo
làm người hướng đạo, liên lạc với Tống.
Sau
khi tướng soái hai hiệu binh rời phòng họp. Vũ Uy vương họp riêng với bộ tham mưu
gồm mười người. Bộ tham mưu do Địa Lô làm Thống lĩnh, gồm Quản tác chiến, phụ
trách kế hoạch hành quân. Quản Tế tác, coi về tình báo. Quản chuyển vận coi về
tiếp tế. Quản nhân sự coi về quân số và các tướng chỉ huy 7 Vệ yểm trợ gồm Nỏ
thần, Lôi tiễn, Kị binh, Ngưu binh, Đại đởm, Ngạc ngư, Phi mã.
Vì Văn
sơn là ấp phong của Địa Lô, nên Địa Lô phải trách nhiệm cung cấp thực phẩm, nơi
cư trú cho bộ tham mưu. Châu trưởng Văn sơn là Hà Bổng, người đã có công trong
trận đánh thời Nguyện phong. Châu này này là một châu bờ xôi, giếng mật; trên rừng nhiều gỗ quý, sông nhiều tôm cá, dân
chúng giầu có xúc tích.
Sau
buổi họp Vũ Uy vương, vương phi dạo quanh một vòng khu châu lỵ. Hai vị phải công
nhận châu trở về với Đại Việt, mới hơn năm qua mà đã thay đổi hẳn, phồn thịnh
không thua bất cứ châu, quận nào ở miền xuôi: nhà ngói mọc lên san sát, đường đi
lát đá. Hai bên đường trồng cây cho bóng mát. Châu có tới bốn ngôi trường, ngôi
nào cũng có trên trăm học trò học. Tại mấy bến sông, thuyền bè đậu nối tiếp
nhau. Trên đường xe ngựa, xe bò chạy rầm rập.
Phi
khen:
– Châu
trưởng Bổng quả là người có tài trị dân. Anh phải ban lệnh thăng chức tước cho
châu trưởng để khuyến khích người tài.
– Anh
sẽ tâu xin phong tước cho Hà.
Một
Phi mã tới trình cho vương ống thư. Vương phi hỏi:
– Thư
của ai vậy?
– Thư
của Đại Hành.
Vương
mở thư ra đọc:
“ Khải vương gia,
Rời Thăng long, thần phi ngựa bất kể ngày đêm. Sau ba ngày
tới tổng hành dinh của Mông Ca ở Quan trung. Vì Hốt Tất Liệt trở lại nắm binh
quyền, nên tất cả các quan của triều đình Yên kinh được thả ra khỏi nhà ngục, được
phục hồi chức tước cũ. A Lý
Hải Nha lại nắm Thừa tướng hành Trung thư tỉnh , với Tuyên phủ ty gồm 16 Thượng
thư, Tham tri chính sự. Còn A Lan Đáp Nhi, Lưu Thái Bình, Ngột A Đa phải trở về
Hoa lâm phụ tá cho A Lý Bất Ca. Bộ ba A Mít Lỗ Tề, Đi Mi Trinh, Kim Đại Hòa được
gửi vào Tứ xuyên chỉ huy ba đội Cấm
quân hộ vệ Đại hãn. A Lan Đáp Nhi lấy cớ
thần là Phi mã tướng quân, Vạn phu trưởng, vương bổ nhiệm thần coi đội Cấm vệ
cạnh Mông Ca. Ngoài ra Hốt Tất Liệt cũng tuyển mộ một số cao thủ võ lâm người Hán
thành lập đội Cấm quân, sao Ô Mã Nhi chỉ huy đem vào Tứ xuyên hộ vệ Đại Hãn.
Thần xin yết kiến Thanh Liên (Thanh Hoa) trao chiếc áo
giáp mũ bạc mà vương muốn dâng cho Đại hãn Mông Ca. Mông Ca mặc thử, mọi người đều
khen đẹp, kiên cố hơn các áo giáp Mông cổ. Mông Ca đã mặc trong hai trận đánh
với Tống.
Hiện Mông Ca cho quân nghỉ dưỡng sức sau mấy trận đánh.
Thần dùng chim ưng liên lạc được với Bạch Liên. Bạch
Liên cho biết, Hốt Tất Liệt đã chỉnh bị lại toàn thể đội ngũ tại mặt trận phía Đông,
đang chuẩn bị đánh Ngạc châu.
Báo với vương phi: thần đã liên lạc được với Trần Mạnh
Quốc, Vũ Cao San. Thiên phu của hai người hiện đóng gần Thành đô.
Có tin tức gì, thần sẽ trình vương gia sau”.
Vương
phi Ý Ninh tỏ ý thương xót thuộc cấp:
–
Chinh chiến! Đại Hành mới cưới vợ được mấy ngày, mà phải lên đường. Hoa nở có
thì. Nghĩ cũng tội nghiệp cho con bé Cẩm Nhãn, đa tình xinh đẹp mà uổng phí
những ngày hoa rực rỡ.
– Địa
Lô mới đáng thương chứ! Y là con người đa tài, đa tình mà duyên tình lại trắc
trở.
– Anh
nói! Trắc trở gì? Cu cậu quá đào hoa. Hết Như Lan, đến Chân Phương, bây giờ mới
cưới con bé Ngọc Hồng tươi như hoa. Mấy ngày nữa cu cậu phải theo mình Bắc
viện. Anh có cho con bé Ngọc Hồng theo quân không?
– Cho!
Mình đã mang mười con bé ca nhi Ngọc theo thì cũng nên cho con bé Ngọc Hồng
theo để tấu nhạc.
– Em định
dùng 10 cô Ngọc vào việc gì? Có giống năm cô Đông hoa không?
– Hơi
giống thôi!
– Hơi
là thế nào?
– 10
con bé Ngọc đẹp hơn 5 cô Đông hoa. Trong 10 con bé, thì em đã quyết định gả
Ngọc Đức, Ngọc Thiên cho hai người rồi.
– Ái
chà trong 10 cô thì hai cô này đẹp nhất. Em định gả cho ai?
– Trần
Mạnh Quốc, Vũ Cao San.
– Hai
người này xứng đáng được vợ đẹp. Tại sao em lại có ý đó?
– Anh
là đàn ông nên không mấy để ý đến những truyện tình cảm của trai gái. Cái lúc
mà chúng mình núp nghe thầy Tạ Quốc Ninh với cô Hoàng Liên nói
truyện với hai người này. Em chú ý thấy hai người nhìn cô Hoàng như ngây như
dại. Lại khi trong điện Quang minh ở Yên kinh. Hai người này hết nhìn Bích Ngoan,
Thúy Nga đến cô Hoàng Liên,
miệng nuốt nước miếng ừng ực. Em nhân không ai chú ý, đã đặt câu hỏi với hai người.
– Em
hỏi như thế nào?
“– Hai em thấy cô
Hoàng Liên,
Thanh Nga với, Thúy Nga thế nào? Có đẹp không?
– Ba người này là tiên nữ trên thế gian.
– Cao San, nếu như cho em chọn. Trong ba người em chọn ai?
– Em chọn Thúy Nga.
– Còn Mạnh Quốc! Em chọn ai?
– Em chọn cô Hoàng.
– Hai em tuổi đã trên dưới 20 rồi. Đã em nào có vợ chưa?
– Chưa! Chị gả cho chúng em mỗi đứa một cô như
Thanh Nga, Thúy
Nga đi.
– Hiện chị không còn cô nào ở cạnh cả. Đợi xong việc ở
đây, chị về nước, chị sẽ tuyển cho hai em.
Mỗi em một cô đẹp hơn Thanh Nga với Thúy Nga, rồi gửi sang cho các em.
– Chị hỏi vợ cho chúng em, như vậy chị là mẹ hai đứa bọn em rồi.
– Nếu sau này có sự! Chị bảo hai em tuân lệnh chị. Hai
em có tuân không?
– Lọ là phải nói. Chị bảo chúng em nhảy vào nước, vào
lửa chúng em cũng tuân.
– Hai em nhớ lời nhé;
– Dạ nhớ!”
– Hèn
gì trong thư Đại Hành có viết một câu:
Báo với vương phi, thần đã liên lạc được với Trần Mạnh Quốc, Vũ Cao San. Vạn phu của hai người
hiện đóng gần Thành đô. Thì ra thế. Em hành sự bí mật thật. Đến chồng ở bên
cạnh cũng không biết.
– Em
xin lỗi đã không cáo vụ này với anh trước.
– Em định
gửi hai cô Ngọc cho Trần, Vũ như thế nào?
– Trần
Mạnh Quốc, Vũ Cao San hiện
chỉ huy một vạn phu kị binh Mông Cổ đánh chiếm Thành đô. Khi Đại Hành lên đường,
em đã viết thư nhờ Đại Hành báo cho hai người này rồi. Đợi mình sang đất Tống,
mình sẽ tìm cách đem Ngọc Đức, Ngọc Thiên tới cho hai người.
– Vụ
này phải làm cho long trọng. Bởi Ngọc Đức, Ngọc Thiên là hai cô hoa khôi, đàn
ngọt, hát hay. Phải làm như mình đã làm cho năm cô Đông hoa. Để anh gửi tấu chương
về Thăng long, xin triều đình ban chỉ gả hai cô cho hai tướng. Như vậy mình cột chết hai tướng với hai cô. Tức
cột cứng hai người với Đại Việt.
– Anh
cũng xin triều đình ban ân cho hai cô như trước đây đã ban ân cho Đông hoa.
–
Chiều nay anh sẽ gửi biểu liền, sai ngựa Lưu tinh chuyển về Thăng long ngay.
Phi
trở lại với thư của Đại Hành:
– Hồi
về Thăng long, em thấy anh ra lệnh cho xưởng chế vũ khí làm một cái áo giáp
bạc, một cái mũ; bên ngoài khảm xà cừ rất đẹp. Phía trong của vỏ bạc là một lớp
gỗ trầm mỏng. Trên mũ gắn 18 viên ngọc trai. Khi Đại Hành lên đường anh trao
cho y. Áo giáp, mũ dùng vào việc gì vậy?
– Dùng
để cống cho Mông Ca hãn.
– Em
không hiểu ý anh.
– Khi
trao áo giáp cho Đại Hành, anh đã dặn y rằng:
“ Hiện Mông Ca hãn Đông chinh. Ông ta cực kỳ sủng ái Thanh Liên. Ông ta có cả nghìn
phi tần, thế mà lần viễn chinh này ông ta chỉ mang theo mình Thanh Liên. Bằng
mọi giá phải yết kiến Thanh Liên, trao áo giáp này cho Thanh Liên, để Thanh Liên
dâng Mông Ca. Tuyệt đối không cho bất cứ ai biết xuất xứ chiếc áo giáp với cái
mũ “õ.
– Em
vẫn không hiểu rõ ý định của anh.
Vương
cười:
– Vợ
chồng mình lo quốc sự, đúng ra anh không nên dấu em điều gì. Nhưng đây là một
kế tối mật, áp dụng thuật Phong thủy, thiên cơ bất khả lậu, nên không thể nói
ra. Nói ra sẽ mất linh. Sở dĩ anh cho làm áo, mũ khảm xà cừ cùng gắn ngọc trai,
bởi hôm trước nghe A Lan Đáp Nhi với Ngột A
Da nói truyện với nhau rằng Mông Ca thích những đồ trang sức vàng bạc,
giống như đàn bà. Hai người đó từng dâng cho Mông Ca một cái mũ vải gắn 5 viên
ngọc trai. Mông Ca thích lắm, luôn đội cái mũ đó khi thiết triều. Vì vậy anh
mới làm áo giáp, mũ khảm để Mông Ca mặc khi xuất trận. Tại sao phía trong áo
anh lại lót một lớp gỗ trầm mỏng? Vì gỗ trầm sẽ tạo cho người mặc một cảm giác
thơm tho.
– Thôi
em không tò mò vào việc này nữa. Em muốn biết một điều, hôm ở Yên kinh, anh nhờ
Đại Hành hỏi Thanh Liên ngày tháng năm sinh của Mông Ca, Hốt Tất Liệt, A Lý Bất
Ca. Thế anh đã có chưa?
– Có
rồi!
– Anh
tính số Tử vi của chúng chăng? Em thấy
Phụ hoàng thường chú ý vào khoa Tử vi mà dùng người. Anh học Tử vi với ai?
– Tất
cả các con trai của Phụ hoàng đều học khoa Tử vi rất sâu.
– Ai
là thầy dậy?
–
Chính Huệ Túc phu nhân. Phu nhân mới được phong làm Nguyên phi sau trận giặc
thời Nguyên Phong.
– Em
thấy Nguyên phi Huệ Túc cực kỳ kính trọng Hưng Đạo vương, và cảm tình với anh. Người không mấy ưa Chiêu Quốc vương
Ích Tắc, dù chú ấy là người bác học đa năng. Chắc vì phi căn cứ vào số Tử vi.
– Đúng
vậy.
– Anh
thấy số của ba anh
em Mông Ca ra sao?
– Số
của Mông Ca không tốt lắm. Chẳng qua con vua thì lại làm vua mà thôi. Năm nay đại
tiểu hạn đều xấu, mà y thân chinh thì cái thất bại đã trông thấy.
– Y tử
trận không?
– Mình
có thể căn cứ vào số y, rồi thiết kế giết y!
– Ừ!
Hay đấy! Vận hạn y ra sao?
– Số
của y Vũ khúc, Thiên tướng, Tướng quân thủ mệnh tại Dần. Năm nay đại hạn tại
Mùi ngộ Kình, Kiếp, Thiên thương. Tiểu hạn tại Thân ngộ Hình, Kỵ. Thiên tướng,
Tướng quân không sợ Kiếp, Không mà sợ
Kình, Hình, Kị. Đúng ra tiểu hạn ngộ Kiếp thì mệnh Thiên tướng bất kịï. Nhưng
Kiếp hợp với Kình, Thiên thương chúng nhập bọn với nhau thành nguy hiểm. Kình
là thanh đao, Hình là thanh kiếm. Kị là nước. Thiên tướng, Tướng quân thủ mệnh,
mà đại hạn ngộ đao, kiếm, thì dễ bị mất đầu. Nếu ta thêm Hình, Kình, Kỵ tại
cung Thân thì y có thể sẽ bị chết cháy, chết đuối, hoặc bị chết vì Lôi tiễn.
– Làm
thế nào mà thêm Kình, Hình, Kị?
– Ta
dùng những tướng Kình dương, Thiên hình thủ mệnh thì trị y không có.
– Mình
có những tướng nào thuộc loại này?
– Mệnh
Dã Tượng có Kình dương thủ. Mệnh của Yết Kiêu có Thiên hình thủ. Mệnh của
Nguyễn Thiên Sanh có Thiên hình thủ, cung quan có Kình dương thủ. Ta dùng ba người
này thì hy vọng trị được Mông Ca. Ta còn dùng Thanh Liên nữa. Thanh Liên sinh
tháng 10, nên số Tử vi thuộc cách mệnh Không, thân Kiếp, mệnh có Hóa kị.
– Khoa
Tử vi huyền diệu quá. Em chỉ hiểu lơ mơ thôi. Sau này hết giặc, em phải học
thực kỹ mới được.
– Điều
gì hôm nay làm được đừng để ngày mai. Ngay chiều nay anh dạy em.
– Ừ!
Nhỉ !
Lại
một Phi mã tới hành lễ:
– Văn
sơn Tử kính thỉnh vương gia, vương phi về dinh nhập tiệc.
Vương
phi giật mình:
–
Chiều rồi, vợ chồng mình mải mê quên cả đói.
Vương,
vương phi cùng hướng về dinh Văn sơn tử.
Địa Lô dẫn vợ ra đón khách. Trong khi họp Địa Lô lo lắng không ít, vì cô vợ quá
trẻ, lại mới làm dâu bốn ngày, liệu có đủ khả năng điều động đầu bếp, gia nhân
làm tiệc chiêu đãi Vũ Uy vương cùng bộ tham mưu và Hoa sơn Ngũ hiệp hay không?
Không ngờ khi Tử về dinh, thì đại sảnh trong dinh trang trí thực thanh nhã.
Tiệc đã xong. Các đầu bếp, gia nhân, thị nữ người nào việc ấy đều đặn. Còn Ngọc
Hồng thì đã y phục chỉnh tề, trang điểm giản dị, đang chờ khách.
Có
tiếng nhã nhạc, lẫn tiếng ca theo điệu Lưu thủy vọng ra. Biết đây là do đội ca
nhi Ngọc tấu, chào mời khách.
Thấy cô bé Ngọc Hồng trong y
phục phu nhân, vương phi Ý Ninh nắm lấy tay nàng:
– Thế
nào cô dâu trẻ, lấy chồng vừa được một ngày đã lên đường làm đại phu nhân. Có
vui không?
Ngọc
Hồng cung tay:
– Cháu
đang là một cô gái bé tý tẹo! Trong cuộc đối thoại không quá một giờ của các
anh, các chị, cháu được gả cho thầy Lô. Rồi chỉ qua một đêm, hôm sau đức vua
làm lễ cưới, cháu thành phu nhân của Văn Bắc thượng tướng quân. Rồi cũng chỉ một
ngày, cháu lên xe ngựa tới đây làm phu nhân.
– Ngọc
Hồng đừng buồn vì đám cưới của Hồng diễn
ra mau qúa. Hồi thím với chú lấy nhau, không quá một khắc.
–
Không quá một khắc?
– Đúng
vậy! Chú, thím rời chiến trường, y phục đẫm máu, cả hai được lệnh triệu hồi
xuống chiến thuyền chầu Nguyên Phong hoàng đế. Người ban chỉ:
“ Kể từ lúc này, hai con thành vợ chồng”.
Sau
khi chú thím bái lậy phụ hoàng, thím trở thành vương phi. Vừa lên hỏi thuyền,
cả hai lăn xả vào đánh chặn không cho giặc tràn về Thiên trường. Trận chiến kéo
đài liên tiếp 10 ngày 11 đêm.
Trong
sảnh đường, quan khách đã đầy đủ: Chiêu Quốc vương, vương phi; mười tướng trong
bộ tham mưu, Hoa sơn ngũ hiệp, Tuyên vũ sứ Hà Bổng, châu trưởng Hà Đặc, Hà Chương,
các tướng trong hai hiệu binh Thiệu Hưng, Văn Bắc.
Địa Lô
ngồi vào chủ vị tiếp khách, thứ đến Vũ Uy vương, Chiêu Quốc vương, vương phi
rồi tới Hoa sơn ngũ hiệp v.v.
Vương
phi Ý Ninh hỏi:
– Ngọc
Hồng! Sao cháu không ngồi vào chủ vị tiếp khách?
Ngọc
Hồng kính cẩn:
– Cháu
phải làm lễ cúng cơm công chúa Như Lan, xin thím đại xá cho.
Phi
hỏi:
– Bàn
thờ Như Lan đâu?
Ngọc
Hồng dẫn phi sang một phòng khác. Trong phòng có một bàn thờ hương khói nghi
ngút, tấm hình Như Lan lớn bằng người
thực, nét vẽ cực sống động. Trên bàn thờ có chín món ăn cùng hoa quả. Mười ca
nhi đội Ngọc phủ Vũ Uy đang ngồi tấu nhạc. Bản nhạc vừa dứt, Ngọc Hồng nói:
– Mười
chị sang đại sảnh dự tiệc. Việc cúng cơm em xin đảm trách.
Ngọc
Hồng cầm dùi đánh ba tiếng chuông, rồi cầm cây nhị kéo, âm thanh thê lương uyển
chuyển. Nàng cất tiếng ca:
Hỡi ôi!
Nhớ thủa sinh thời,
Nhan sắc diễm lệ,
Võ công vô địch,
Cử bút thành văn,
Bẩy bước thành thơ.
Cành càng lá ngọc,
Được tuyển làm phi,
Bây giờ hồn ở nơi đâu?
Cỗ một mâm, hoa thơm một bó.
Hồn có thiêng xin về chứng giám.
Thương ôi!
Nhớ xưa, tiết liệt, đài trang,
Nay hồn phiêu phưởng, thác oan quê người.
Để mặc
cho Ngọc Hồng cúng cơm, vương phi Ý Ninh dẫn mười nàng Ngọc sang đại sảnh đường
dự tiệc.
Thúy
Hồng thuật cho cử tọa nghe về việc con gà trống, bốn phẩm oản trên bàn thờ Như
Lan tại nhà Địa Lô biến mất. Hoàng Nương góp ý:
– Tôi
không tin là hồn Như Lan hiện về ăn gà, ăn oản. Có lẽ một cao thủ võ lâm đã
hiển lộ bản lĩnh trêu ghẹo Ngũ ưng mà thôi!
Dã Tượng
tán đồng:
– Tôi
cũng đã đoán như thế. Có điều võ công người này thực siêu phàm. Vì chúng tôi mười
người cùng hiện diện, mà chỉ thoáng một cái người này đã hành sự xong. Tôi thấy
quanh bàn thờ có mùi nước hoa thoang thoảng, giống mùi nước hoa của Chân Phương.
Vậy cao thủ này là đàn bà! Và người này từng sang Trung nguyên.
Vương Chân Phương lắc đầu:
– Vì
mùi nước hoa giống mùi nước hoa em dùng, em mới nghi hồn ma chị Như Lan hiện
về.
Tiệc
gần tàn thì viên đầu bếp nhớn nhác chạy lên, nói sẽ vào tai Địa Lô mấy câu. Vương
phi Ý Ninh hỏi:
– Cái
gì đã xẩy ra?
Viên đầu
bếp thưa:
– Đang
nấu món đùi lợn hầm măng, thần chạy ra ngoài lấy thêm củi, thì khi trở vào bếp,
không biết ai đã dùng nước tạt tắt hết cả 6 cái bếp. Thần lên phòng thờ tìm phu
nhân Ngọc Hồng, không thấy phu nhân đâu!
Địa Lô
xin phép rời đại sảnh sang phòng thờ: hai con bồ câu quay với đĩa xôi lớn chỉ
còn đĩa không! Tử sai tỳ nữ tìm khắp dinh, không thấy Ngọc Hồng đâu. Bình tĩnh,
Địa Lô mời khách trở lại bàn tiệc. Đại Đởm đại tướng quân hét be be:
– Cái
màn này là võ công của bọn Đại đởm. Hôm nay tôi có mặt tại đây, quyết không để
cho kẻ nào đó hý lộng quỷ thần.
Hầu ra
sân, hú lên một tiếng dài liên miên bất tuyệt, lập tức 12 Đại đởm xuất hiện.
Mỗi người dẫn một con chó sói, trên vai một con chim ưng. Hầu thuật sơ sự kiện
rồi ra lệnh:
– Anh
em hành sự đi!
Mười
hai Đại đởm tỏa ra bốn phía đinh cùng với chó, ưng. Sau hơn nửa giờ, tất cả đều
trở về , không tìm ra vết tích Ngọc Hồng. Nguyễn Thiên Sanh giải đoán:
– Cái
người ăn trộm gà, oản ở nhà Địa Lô cũng là người lấy bồ câu, xôi ở bàn thờ Như
Lan. Y cũng là người tạt nước tắt bếp, và bắt cóc Ngọc Hồng. Chắc chắn y là người
nhà nên chim ưng không báo cho ta biết.
Hầu
nói với Hà Bổng:
– Chó,
ưng này là chó ưng được nuôi dạy để canh phòng. Nó biết phân biệt quân nhà với
kẻ gian. Người đùa dỡn này là người nhà, nên chúng không báo động cho ta. Xin
Tuyên vũ sứ kiếm cho tôi mấy con chó nuôi trong nhà, rồi xua chúng đi tìm. Chúng
sẽ xủa khi gặp bất cứ ai.
Mọi người
trở vào đại sảnh. Vương phi Ý Ninh nghĩ ra một truyện. Phi dùng Lăng không
truyền ngữ rót vào tai Địa Lô: hãy làm theo lời thím.
Tiệc
tàn.
Địa Lô
tiễn khách ra về, rồi trở vào phòng thờ Như Lan. Tử thắp hương, khấn:
– Em ơi!
Anh yêu em với tất cả chân tình. Tưởng rằng chúng ta sẽ sống hạnh phúc bên
nhau. Nào ngờ đức vua Cao
Ly tuyển em
làm Thái tử phi. Những đêm dài ở Cao ly anh muốn chết đi cho
rảnh. Bây giờ cách trở âm dương, tuy mới cưới vợ, nhưng anh vẫn không quên được
em. Anh muốn chết theo em. Thôi thì anh ra nơi chúng mình từng yêu nhau, mươn
sợi dây để chúng mình bên nhau.
Khấn
dứt, Tử lững thững ra bờ suối, nơi Tử cùng Như Lan từng hẹn nhau tâm tình. Tử
ôm lấy tảng đá trước đây Như Lan từng ngồi, gục đầu vào mà khóc. Khóc một lúc,
Tử lấy dây lưng buộc hai dầu vào cành cây, rồi khấn:
– Thôi
thì anh mượn sợi dây này, để chết đi. Chỉ chết đi anh mới gặp lại được em.
Khấn
dứt, Tử chui đầu vào cái thòng lọng. Hai chân tay dẫy loạn xạ. Có tiếng quát
thanh thoát:
–
Không nên! Ngừng lại.
Rồi
một người mặc y phục bộc phụ từ một ngọn cây nhảy xuống, giật dây ra, tay đỡ
Tử, đặt Tử ngồi trong lòng; hai tay vuốt cổ cho Tử.
Thấp
thoáng bóng tím, một người xẹt tới như điện chớp, vung tay điểm huyệt đại trùy
của bộc phụ, tay giật cái khăn trùm đầu của bà ta ra, tiếp theo tiếng nói dịu
dàng:
– Nào!
Ta mở khăn ra để biết kẻ ăn vụng thịt gà tại nhà Địa Lô, ăn vụng chim câu tại đây
là ai!
Địa Lô
chuyển mình một cái, đứng dậy. Tử mở to mắt ra nhìn bộc phụ, tay giải huyệt cho
nàng: bây giờ rõ mặt đôi ta. Rõ ràng người đó chính là Như Lan. Vương phi Ý
Ninh nói lạnh như băng:
– Như
Lan, về võ công em luyện tới bản lĩnh siêu việt. Em lại có văn tài. Khóc em,
Ngọc Hồng ca tụng em: cử bút thành văn, bẩy bước thành thơ. Em là công chúa Đại
Việt, là Thái tử phi Cao ly. Em về nước, cứ đường đường chính chính gặp mọi người.
Tại sao lại ẩn ẩn, hiện hiện như thế này, e mất thể diện đi. Thôi trở lại dinh
Văn sơn Tử, chúng ta nói truyện.
Vào đại
sảnh, Như Lan kinh hoàng khi thấy sư phụ Huệ Đăng đã ngồi đó. Ngài nhìn đệ tử
với tất cả thương cảm:
– Vương
gia ban chỉ cho thầy về đây đón con. Đức vua Cao ly đã băng hà. Thái tử Điển
trở về nước lên ngôi vua, ban chế phong con làm Nam thiên
Linh từ Bảo quốc Hoàng hậu. Ngôi hoàng hậu đang chờ con. Con mau lên đường sang
Cao ly, chúng ta chỉnh bị binh mã dàn ra biên giới làm áp lực giúp sứ quân Lý Đảm.
Đại đởm
đại tướng quân nói với Địa Lô:
– Chú
mày vào phòng thờ Như Lan gỡ cái túi treo trên xà nhà xuống, để lâu e cô vợ bé
tý tẹo của chú mày chết ngộp.
Thiên
Sanh cười nói với Như Lan:
– Võ
công của bọn Đại đởm là ẩn hiện bất thường. Thế mà công chúa lại dùng những cái
thuật tiểu xảo để trêu ghẹo Lô đệ thì sao qua mặt chúng tôi được? Chắc công
chúa muốn biết tại sao công chúa hành sự bí ẩn như vậy mà lại bị bại lộ! Thôi
tôi để Vũ Uy vương phi giải thích!
“ Như Lan cùng 2
tỳ nữ người Việt lên ngựa rời Hoa lâm mà lòng uất ức: mình là chính thê
bỗng chốc trở thành tỳ nữ. Ừ không được ăn thì ta đạp đổ. Đêm đó nàng âm thầm
trở về Hoa lâm, đột nhập vào dinh dành cho phò mã Cao ly với công chúa Mạc Huệ
Dĩ. Nàng chặt đầu tình địch, chặt luôn hai tay mang đi, rồi lên ngựa chạy trốn.
Ba người chạy tới cửa Trương gia khẩu Trường thành thì bị Thập phu Thị vệ đuổi kịp. Chúng hô lên một tiếng rồi xông vào chém
giết. Vốn đã học được kinh nghiệm đối phó với Kị binh Mông cổ hồi còn ở Văn sơn.
Cả ba rút phi tiễn ra phóng vào mắt ngựa của bọn Thị vệ. Sáu con trúng ám khí, chúng
mù mắt đâm sầm về phía trước, vật ngã chủ. Ba người vọt khỏi ngựa mình, kiếm
vung lên, 6 Thị vệ bị hạ. Bốn Thị vệ còn lại kinh hoàng dàn ra. Nhưng chỉ sau mươi
hiệp 1 tên tiếp theo bị hạ. Còn tên Thập phu với hai tên nữa, phóng ngựa bỏ
chạy.
Như Lan nghĩ:
– Bây giờ mình trở lại Cao ly thì không được nữa. Chi
bằng tìm sứ đoàn Đại Việt, rồi tái hồi với Địa Lô thì hạnh phúc biết bao.
Nhưng khi tới
khu Lan hoa ở Yên kinh thì sứ đoàn đã lên dường về nước một ngày rồi. Như Lan
nghĩ:
– Chi bằng mình đi Sơn Đông, nhờ Lý Đảm giúp thuyền
trở về Đại Việt.
Gặp Lý Đảm, thuật hoàn cảnh của mình cho Lý nghe. Lý phái một con thuyền lớn giả làm thuyền buôn lên dường.
Khi nàng lên đường, Lý sai sứ sang báo cho Kiến bình vương. Bấy giờ Kiến bình vương
mới biết mối ẩn tình đau khổ của con mình. Nhưng nếu để con mình tái hồi với Địa
Lô thì tai họa không biết đâu mà lường. Vương nhờ đại sư Huệ Đăng khẩn về Đại
Việt bắt con gái trở lại Cao ly. Thuyền của Huệ Đăng tới Đại Việt trước khi
thuyền của Lý Đảm chở Như Lan một ngày. Sư không xuất hiện, mà theo dõi xem Như
Lan làm gì?
Như Lan với hai
tỳ nữ đi Gia lâm, hí lộng quỷ thần ở nhà
Địa Lô. Hôm sau, triều đình làm lễ cưới cho Địa Lô với Ngọc Hồng. Như Lan cực
kỳ đau khổ, nàng bàn với hai tỳ nữ âm thầm đến nhà Địa Lô giết cả hai vợ chồng
trong đêm động phòng. Sư Huệ Đăng kinh hãi, xin yết kiến Vũ Uy vương, nhờ vương
giúp đỡ. Vũ Uy vương nhận lời. Vương gọi Đại đởm Đại tướng quân, dặn phải làm
như vậy, như vậy.
Như Lan cùng với hai tỳ nữ từ con thuyền trên bến sông
thuê xe ngựa đi Gia lâm để giết vợ chồng Địa Lô. Xe ngựa vừa chạy một khắc thì
cái bánh xe gẫy trục. Khó nhọc lắm nàng mới gọi được chiếc xe khác. Nhưng xe
chỉ nhận chở tới bờ sông thôi, chứ không chịu sang Gia lâm. Nàng đành chấp
thuận: sang bờ Bắc, mình sẽ thuê xe khác vậy.
Tới bờ sông, một con thuyền mời nàng qua sông. Ba người
xuống thuyền, nước sông chảy siết, thuyền trôi về Nam cách bến đến năm dặm (2,5km). Hai người nhà đò dùng
hết sức chèo ngược dòng sông, thì rắc một tiếng, bánh lái gẫy. Con thuyền quay tròn giữa sông rồi trôi theo giòng nước.
Hai người nhà đò cố chèo mà con thuyền vẫn trôi. Một người nhà đò chỉ vào bên bờ
sông:
– Kia có con đò. Để tôi bơi vào đem ra đón ba cô.
Nói dứt y nhảy ùm xuống sông lặn mất. Trong khi Như
Lan mải nhìn sang bên kia thì người nhà đò còn lại tuồn xuống sông từ bao giờ.
Như Lan chửi đổng:
– Thực là bọn vô lương tâm. Chúng đem con bỏ chợ.
Ba người ngồi nhìn con đò trôi bồng bềnh. Đến gần sáng
gặp một con thuyền đi ngược chiều. Cả ba lên tiếng gọi. Thuyền ghé vớt ba người
lên đưa vào bờ thì mặt trời đã lên cao. Vừa đói, vừa bực mình. Ba người phải đi
bộ đến ngọ mới thuê được chiếc xe, trở về con thuyền của mình.
Cơm nước, thay y phục, rồi lại thuê xe đi Gia lâm. Nhưng
khi tới nhà Địa Lô thì hàng xóm cho biết Tử đã cùng vợ lên đường đi Bắc cương
từ sớm.
Cả ba lại thuê xe song mã, quyết tìm Địa Lô. Khi xe
tới Thảo lâm, thì có một toán hoàng nam, dàn ra đường chặn mất lối đi. Toán trưởng
chỉ phu xe:
– Bắt tên trộm ngựa.
Y chỉ vào hai con ngựa nói với Như Lan:
– Xin lỗi cô nương.
Cách đây
mấy ngày, trong làng tôi mất trộm hai con ngựa. Chúng tôi được lệnh chặn hết
các ngả đường tìm kiếm. Bây giờ mới thấy.
Đám hoàng nam hò reo bắt phu xe. Phu xe bỏ xe mà chạy.
Khi chạy, y xớt cái túi đựng vàng bạc của Như Lan. Sự việc xẩy ra quá nhanh, Như
Lan không phản ứng kịp. Tên phu xe chạy tới bờ sông y nhảy ùm xuống rồi lặn
mất. Như Lan dở khóc, dở cười nói với toán hoàng nam :
– Xin các anh thuê dùm tôi cái xe khác. Chúng tôi cần
tới Bắc cương.
Trưởng toán hoàng nam than :
– Ba vị cô nương chịu khó đi bộ về phía Nam, là huyện lỵ hy vọng có xe cho thuê. Chứ đây là con đường
cái quan Nam-Bắc rất ít xe đi qua.
Ba người lại phải đi bộ hướng về Thăng long. Bỗng có
tiếng gọi:
– Ba vị cô nương có thuê đò không?
Như Lan nhìn: dưới sông vẫn con đò hôm trước với hai
tên nhà đò vô lương tâm. Một tên cười:
– Tuy rằng tôi không chở cô qua được sông, nhưng cô
cũng phải trả tiền chúng tôi chứ?
Nói rồi y dơ tay lên vẫy: tay y cầm cái túi vàng bạc
của nàng. Con thuyền vượt sóng trôi về Nam. Như Lan than:
– Dường như mình bị một thế lực nào trêu ghẹo thì
phải. Đúng rồi, hai tên chèo đò với tên phu xe hôm nay cũng là một bọn. Có lẽ đám
hoàng nam cũng là đồng bọn.
Tới huyện lỵ, Như Lan phải bán đôi xuyến đeo tay lấy
tiền thuê xe lên Bắc cương. Tới Văn sơn, nàng thuê phòng tại một nhà trọ, chờ
trời tối hành sự. Từng ở Văn sơn gần một năm, nàng thuộc tất cả đường xá, cũng
như dinh của Văn sơn tử. Nàng đột nhập dinh, bắt một bộc phụ, điểm huyệt giam
trong một phòng biệt lập. Theo khói hương nàng vào một phòng khác, đó là phòng thờ
mình. Cảm động, tần ngần nhìn bài vị:
Hiền thê Lý Như Lan,
Thần
võ, Trung liệt, Trấn quốc, Linh anh công chúa,
Thôn
phu Nguyễn Đia Lô khốc đề.
Đang đứng cảm động trước bài vị thì đúng lúc vương phi
Ý Ninh cùng Ngọc Hồng vào. Kinh hoảng Như Lan tung mình lên nằm sát xà nhà.
Nàng nghe rõ Ngọc Hồng kéo nhị, tế mình bằng một bài văn tuy giản dị, nhưng lời
lẽ chân thành. Lòng ghen giảm rất mau. Đợi vương phi Ý Ninh rời phòng thờ, nàng
buông mình xuống, điểm huyệt Ngọc Hồng rồi ôm cô bé ẩn vào một phòng trống
khác. Để Ngọc Hồng xuống, nàng rút kiếm đưa một chiêu qua đầu cô, đe dọa. Nàng
những tưởng Ngọc Hồng sẽ rú lên, không ngờ cô bé thản nhiên như không có gì xẩy
ra. Nàng hỏi Ngọc Hồng:
– Người có biết ta là ai không?
– Không! Tôi không biết bà là ai, mà chỉ biết bà là người
giỏi võ, đang muốn uy hiếp thần trí tôi. Nhưng tôi không sợ
– Người tưởng ta không dám giết người chăng?
– Nếu bà muốn giết tôi thì khi tôi đang cúng công chúa
Như Lan, bà đã giết rồi, việc gì phải đưa sang đây?
– Người có biết công chúa Như Lan không?
– Tôi chưa từng gặp công chúa. Nhưng tôi nghe nói
nhiều về người. Công chúa có sắc tươi hồng của người luyện võ. Võ công cao tuyệt
đỉnh. Cử bút thành van. Bẩy bước thành thơ, lại có tấm lòng son với tộc Việt.
– Công chúa là người tình của Địa Lô. Bây giờ người
lấy Địa Lô, nên công chúa sai ta giết người.
– Nói láo. Công chúa hoăng tại cửa Trương gia khẩu bên
Trung nguyên đã 6 tháng! Này người hèn vừa thôi nhé. Công chúa hoăng rồi, mà người
đổ tiếng ác cho công chúa, thực đáng khinh bỉ. Hèn!!! Giả như công chúa còn tại
thế, không bao giờ công chúa sai người
làm việc thương luân bại lý này.
– Tại sao? Người căn cứ vào đâu mà đưa ra lý luận này?
– Bà khinh tôi còn con nít nên mới hỏi như thế. Này
tôi nói cho bà nghe nhé. Một là, công chúa là Thái tử phi, nay mai sẽ lên ngôi
hoàng hậu. Công chúa không thể bỏ Cao ly về Đại Việt. Không thể bỏ ngôi hoàng
hậu để làm vợ anh Địa Lô. Hai là, nếu công chúa có u mê trong tình trường, cũng
không thể về làm vợ anh Địa Lô, luật Đại Việt rất nghiêm, công chúa sẽ bị ngựa
xé, voi dầy. Anh Địa Lô sẽ bị chém ngang lưng. Ba là, Kiến bình vương cùng gia
thuộc sẽ không yên với triều đình Cao ly! Bốn là, công chúa xuất thân là ái nữ
của Kiến bình vương. Vương là người bác học, đa năng, đạo đức nức tiếng Cao ly,
Đại Việt. Công chúa cũng biết lẽ phải trái, tự trọng mình, chứ có đâu lại làm
truyện thương luân, bại lý, như tục ngữ nói: bán bò tậu ễnh ương?
Như Lan không ngờ cái cô bé xíu mà lại nhìn vấn đề
sáng suốt như vậy? Nàng điểm huyệt Ngọc Hồng, bỏ cô bé vào cái túi, rồi đem
sang phòng thờ, treo lên xà nhà. Nàng rời căn phòng, cũng đúng lúc Địa Lô đang
như người mất hồn, ra bên bờ suối, nơi nàng cùng Lô từng hẹn ước nhau tình tự.
Thấy Địa Lô dùng dây thắt cổ tự tử. Nàng hét lên, xông vào cứu người yêu. Nàng đâu
ngờ đó là kế của vương phi Ý Ninh bắt nàng phải xuất hiện”.
Chờ vương
phi Ý Ninh thuật xong, Nguyễn Thiên Sanh trao cho Như Lan cái túi. Đó chính là
cái túi mà tên phu xe đã xớt của nàng rồi nhảy xuống sông. Nàng mở ra: bên
trong vàng, bạc còn nguyên. Bây giờ nàng mới rùng mình vì tất cả những rắc rối của nàng đều do Đại
đởm gây ra.
Ngọc
Hồng được gải cứu. Nàng đâu ngờ kẻ dọa mình chính là công chúa Như Lan. Nàng
cung tay:
– Thì
ra bà là công chúa Như Lan thực. Nếu công chúa có can đảm thì cứ ở lại đây làm
vợ anh Địa Lô. Tôi xin lùi về làm con bé con ở Gia lâm
Nước
mắt đầm đìa, Như Lan nắm tay Ngọc Hồng:
– Em
mới xứng đáng làm vợ Địa Lô. Em còn ít tuổi mà tỏ ra có bản lĩnh hơn chị. Còn
chị thì số phận đã an bài, chị phải theo sư phụ về Cao ly chịu cảnh cá chậu
chim lồng vậy.
Tiệc
tàn, Vũ Uy vương, vương phi mời sư Đại Đăng, Như Lan vào một phòng kín. Vương
chắp tay hành lễ với sư, rồi nói:
– Đệ
tử có một sứ mạng cực kỳ hệ trong, chỉ duy đại sư mới làm nổi.
Sư Huệ
Đăng cảm động:
– Bần
tăng tuy ở Cao ly, nhưng hồn thì vẫn ở Đại Việt.
– Hiện
3 tướng chỉ huy Cấm quân hộ tống Mông Ca là Kim Đại Hòa, A Mít Lỗ Tề, Đi Mi
Trinh. Hồi ở Yên kinh, Ý Ninh thấy ba tướng này say Hoàng Liên, Thúy Nga, Thanh
Nga đến đờ đẫn người ra. Ý Ninh có hứa khi về nước sẽ kiếm cho ba người ba giai
nhân.
Như
Lan cướp lời:
– Bây
giờ có mười cô Ngọc đẹp chói chang, đẹp ủy mị. Chị Ý Ninh định gả ba trong 10
cô cho ba tướng này, để các cô dùng thuật bắt nai khi cần thì sai chúng. Có đúng
thế không?
– Công
chúa thông minh thực.
Ý Ninh
tiếp:
– Vì
vậy đệ tử lớn mật xin đại sư với Như Lan đi sứ, đưa ba cô dâu vào Ích châu gả
cho...
Như
Lan lắc đầu:
– Nếu
bây giờ sư phụ với tôi đem ba người đẹp vào Thục, thì e bọn mặt dơi tai chuột
người Hán theo Mông cổ sẽ nghi ngờ rồi nói ra, nói vào. Tôi đề nghị: Mông Ca
mang Tuyên phi Thanh Liên theo trong cuộc viễn chinh này. Sư phụ với tôi đem ba
cô xin yết kiến Tuyên phi, dối rằng đem tin nhà đến với phi. Rồi để ba cô lại
làm tỳ nữ cho Thanh Liên. Thanh Liên nhân danh Đại hãn gả ba cô cho ba tướng.
Như vậy là ổn.
Nghe
Như Lan nói, vương phi Ý Ninh trầm tư suy nghĩ. Như Lan cười:
– Có
phải chị sợ Mông Ca thấy ba cô vừa trẻ, vừa đẹp sẽ bắt luôn thì hỏng bét không?
– Em
thông minh thực.
– Có
khó gì đâu, mình viết thư cho Đại Hành. Đại Hành báo cho Thanh Liên biết trước.
Trong thư mình dặn Thanh Liên tuyệt đối không cho Mông Ca gặp các nàng.
Vương
truyền gọi ba nàng Ngọc Hạ, Ngọc Tiên, Ngọc Trị vào.
Lễ
nghi tất.
Vương
phi giới thiệu:
– Đây
là đại sư phụ từ Cao ly về nước...
Ba
nàng Ngọc hành lễ:
– A Di
Đà Phật! Mấy năm nay, ở Thăng long, chúng con được bản sư nói cho nghe về hành
trạng của Đại sư cùng công chúa Như Lan trong vụ tái chiếm ba châu Bắc cương.
Hôm nay chúng con mới được bái kiến Phật giá.
Vương
phi Ý Ninh tiếp:
– Hôm
ở Cố trạch, chị đã cho các em biết, chị gả chồng cho các em. Bây giờ chị nhờ sư
phụ với công chúa Như Lan đi sứù, đưa dâu.
Rồi
phi giảng cho ba nàng về kế hoạch giả làm cung nữ cho Tuyên phi Thanh Liên. Ba
nàng vốn thông minh, lại được đào tạo rất kỹ bản lĩnh bắt nai, nên phi chỉ nói
thoáng qua, các nàng đã nắm vững vấn đề. Vương tiếp:
– Ngay
ngày mai, triều đình sẽ ban chỉ phong cho các em tước Quận chúa, thân phụ các em hàm Tam tư, mẹ hàm Ngũ phẩm
phu nhân. Cha mẹ được ban 10 nén vàng, và 15 mẫu công điền không phải nộp thuế.
Phi
lấy ra ba cái bọc, trong mỗi bọc đều có 6 bộ quần áo lụa Nghi tàm, mầu sắc khác
nhau. Mỗi bộ gồm váy, yếm, dây lưng, khăn quàng cổ, khăn chít trên đầu, áo
cánh, áo tứ thân.
– Đây
là y phục triều đình ban cho các em đây.
Ba
nàng quỳ gối hướng về Thăng long lạy tạ, rồi lạy tạ vương, vương phi tác thành
cho.
Vương
hỏi Như Lan:
– Công
chúa từng ở Hoa lâm, liệu bọn văn quan, võ tướng có biết mặt công chúa không?
–
Không! Vì tôi ở đó có hơn tháng, suốt ngày cặm cụi trong phủ. Chẳng ai biết mặt mà sợ.
Hôm
sau Vũ Uy vương cùng bộ tham mưu lên đường. Tống cử vợ chồng Hoàng Hiệp là người
đại diện, liên lạc. Hộ vệ thì ngoài đội kỵ mã Long biên của La An, còn có Đại đởm
thập tam kiệt.
Vừa
vào lãnh thổ Tống thì La An trình
lên vương một bức thư. Vương mở ra: thư của Đại Hành. Vương trao cho vương phi.
Phi đọc:
“ Khải vương gia,
Mông Ca chiêu hàng được tướng chỉ huy năm đạo quân trấn đóng trung ương
Ích châu là Dương Đại Uyển
cùng tướng Tổng trấn Thành đô là Đặng Văn. Vì vậy cả một vùng phía Tây, và Nam
Ích châu Mông Cổ không tốn một mũi tên mà bình định được. Hiện Mông Ca đang
tiến về phía Đông bằng ba mũi:
– Mũi thứ nhất do Thân vương Mật Lý Hỏa Giả đánh Ba trung.
– Mũi thứ nhì đích thân Mông Ca cùng hai thân vương Mục Tương Ca, Xích Nhân Thiết Mộc Nhi chỉ huy đánh Hợp
châu.
– Mũi thừ ba do bọn hàng tướng Dương Đại Uyển từ Thành đô tiến đánh Đông sơn, Mi sơn, Nga
biên, Thanh thần, rồi dọc theo Dân giang tiến về Giang an.
– Cả ba mũi sẽ gặp nhau tại Bạch đế rồi theo sông Trường
giang đánh Kinh châu.
Mũi của Mật Lý Hỏa Giả đã hạ ba thành, nhưng bị chặn
tại Ba trung.
Mũi của Mông Ca, do ông ta thân chỉ huy đánh liền ba trận.
Tống bất lợi. Cho nên Mông Ca phấn khởi, đích thân tiến trước ba quân. Khi Mông
Ca tiến đánh Tống thì dàn đội hộ tống Cấm quân
như sau:
Phía
trước là A Mít Lỗ Tề,
Bên
phải là Đi Mi Trinh,
Bên
trái là Kim Đại Hòa.
Đội
Cấm vệ của thần bảo vệ phía sau.
Đội
Cấm vệ của Ô Mã Nhi lưu động bất thường.
Giữa
mỗi đội có một người giả làm Mông Ca, trang phục giống Mông Ca, để lừa địch.
Hai
hôm trước sư Huệ Đăng, công chúa Như Lan dẫn ba giai nhân Ngọc Hạ, Ngọc Tiên,
Ngọc Trị tới. Thần xếp đặt cho năm người gặp Tuyên phi Thanh Liên. Hôm nay sư
với Như Lan rời Ích châu về Cao ly. Tuyên phi cho thần biết rất rõ việc vương gia
gửi ba nàng Ngọc cho ba tướng.
Thần
gửi theo đây 10 thẻ bài của Cấm vệ để vương gia tùy nghi tiện dụng.
Hai
tướng Trần Mạnh Quốc, Vũ Cao
San đang chờ Ngọc Đức, Ngọc Thiên.
Cho
đến lúc này Mông Ca cũng chưa biết gì về việc Đại Việt viện Tống”.
Vừa lúc đó có ngựa trạm của Vương
Kiên
đem thư tới. Người mang thư là Nguyễn Văn Lập, phụ trấn thành Điếu ngư. Lại có
cả Đô đốc Giang An Triệu Tử Minh của Tống. Hoàng Hiệp đọc xong, trình cho Vũ Uy
vương. Vương cầm lên đọc:
“
Vì hàng tướng Dương
Đại Uyển trước đây chỉ huy 5 đạo quân
trung ương Ích châu, cùng tên Đặng Văn Tổng trấn Thành đô đầu hàng Mông cổ, nên
Ích châu bị mất toàn bộ vùng Tây, Nam.
Hiện
Mông Ca sai hai tên này đánh chiếm lưu vực Mân giang, nên lương thực của Tống
tại Nam giang, Hợp châu gần như bị tuyệt. Đây là vùng trù phú, lương tiền khắp
một giải miền Đông Ích châu đều do vùng này cung ứng. Rất may hôm qua lương của
Đại Việt tới. Quân tướng no đủ, ê hề. Tinh thần phấn chấn.
Hoàng
Hiệp nên trình với Vũ Uy vương dùng tất cả sức lực chặn đánh Dương Đại
Uyển, Đặng Văn. Lực lượng của chúng gồm 5 vạn binh Tống mà y đem hàng Mông Cổ
là đạo Thành đô, đạo Kiếm các, đạo Dương bình quan, đạo Cẩm dương và đạo Phổ
khách. Mông cổ dùng người của họ làm Thiên phu, Bách phu. Đám binh tướng này
không muốn cầm giáo đánh lại người nhà, nên đã rã ngũ phân nửa. Nếu Vũ Uy vương
phá được Uyển thì hông phải của Mông Ca bị uy hiếp, trái lại hông trái của Nam giang,
Hợp châu được bảo vệ, lương thảo không bị mất”.
Vũ Uy vương truyền dừng quân ở
Giang an. Dựng lều. Lệnh cho toán Đại đởm, toán
kỵ mã Long biên canh phòng cẩn mật, rồi phát lệnh mời các tướng hai hiệu
binh lại họp.
Chư tướng Tống, Việt tề tựu. Đô đốc
Giang an Triệu Tử Minh trình bầy chi tiết tình hình Tống, tình hình Mông cổ:
– Quân của Uyển, Văn tất cả đều
gốc ở vùng Cửu long, Thành đô, Đức xương. Khi Mật Lý Hỏa Giả chiếm Thành đô,
thì vợ con họ bị kiềm chế. Mông Ca sai sứ đến chiêu dụ: nếu đầu hàng thì chức
vị được giữ nguyên. Vợ con, của cải được bảo toàn. Uyển, Văn họp chư tướng dưới
quyền hỏi ý kiến. Hầu như họ đều lưỡng lự. Uyển, Văn quyết định đầu hàng. Uyển,
Văn được Tống triều phong tước Ngũ đẳng Hầu. Mông Ca cho thăng lên tước Nhất Đẳng
Hầu. Nghĩa là vượt bốn bậc.
Yết Kiêu hỏi:
– Còn năm đạo binh! Mông Ca giữ
nguyên tổ chức của Tống hay thay đổi?
– Năm đạo hàng binh được tổ chức
thành 5 Vạn phu giống như Mông Cổ. Năm tướng chỉ huy năm đạo binh được Mông Ca bổ
nhiệm làm Vạn phu trưởng các đạo binh người Thổ phồn, Hồi cương đóng tại vùng
Hàm dương. Bắt họ phải mang vợ con lên đường ngay. Mông Ca cử 5 tướng gốc người
Tây vực, Mông Cổ làm Vạn phu trưởng 5 vạn phu hàng binh này. Bây giờ Mông Ca hỗ
trợ chúng một vạn kị binh người Mông Cổ rồi sai chúng đem quân đánh Đông sơn,
Mi sơn, tiến đến Mân giang. Đánh Đông sơn chúng hy sinh phân nửa Vạn phu Thành đô,
Cẩm dương. Đánh My sơn chúng hy sinh thêm năm ngàn nữa thuộc Vạn phu Kiếm các.
Binh sĩ thấy đồng ngũ chết nhiều đều rúng động. Họ bỏ ngũ rất đông. Bây giờ
Uyển, Văn chia binh đóng làm hai nơi bên bờ Mân giang. Phía bắc là Thanh thần,
phía Nam là Nga biên. Đây là vùng đồng lầy. Còn kị binh Mông Cổ vẫn phải đóng ở
Đông sơn. Hôm qua y dùng hai thủy đội chuyển vận hết lương thảo dọc theo Mân
giang, nay mai sẽ chở về Thành đô. Vì Giang an chỉ có hai thủy đội với một vạn
bộ binh, tôi không đủ sức chống lại y. Nếu viện binh Đại Việt tới chậm thì
Giang an sẽ mất. Tứ xuyên bị cắt làm đôi.
Dã Tượng hỏi:
– Không biết quân đóng ở Nga biên
thuộc Vạn phu nào?
– Đó là ba Vạn phu “què” vì quân
số chỉ còn một nửa. Đó là Vạn phu Thành đô, Kiếm các, Cẩm dương. Còn hai vạn
phu đóng ở Thanh thần là đạo Dương bình quan và Phổ khách. Hai đạo này tuy có
hao hụt, nhưng tinh lực còn nguyên.
Địa Lô hỏi:
– Vạn phu Kị binh Mông cổ này là
Mông cổ chính quốc hay quân của chư hầu? Tướng chỉ huy tên là gì?
– Vạn phu này không phải quân
chính quốc, mà là quân của Tây hạ. Chánh
tướng là A Ba La. Phó tướng là Ngột Đặc Thiết Cấp.
Nghe Tử Minh trình bầy, Vũ Uy vương,
vương phi mừng chi siết kể. Vì A Ba La là tên Mông cổ của Vũ Cao
San. Còn
Ngột Đặc Thiếp Cấp là tên Mông cổ của Trần Mạnh Quốc.
Dã Tượng hỏi:
– Đại Uyển là người thế nào?
Kiêu kị thượng tướng quânNguyễn Văn
Lập trình bầy:
– Y xuất thân từ giới võ lâm. Bản
lĩnh của y nức tiếng Quan trung. Y dùng kiếm. Cạnh y còn Đặng Văn, nổi tiếng đệ
nhất Thần quyền vùng Quan trung. Trong các tướng Tống vùng Tứ xuyên không ai địch
nổi hai tên này. Tài dùng binh của Dương bình thường thôi.
Đô đốc Triệu Tử Minh tiếp:
– Tôi đã cho Tế tác quan sát các
trại quân của y: cả hai cánh quân đều dựa vào ba mặt đồng lầy. Còn thủy đội vận
tải trên Mân giang gồm 50 con thuyền lớn, y cho thuyền đậu thành hai hàng dài
hai bên sông. Không có quân hộ vệ. Ban đêm lính thủy quân lên bờ ngủ, dưới mỗi
thuyền chỉ có hai binh ngủ lại mà thôi.
Địa Lô hỏi:
– Thưa Đô đốc, xin Đô đốc cho
biết Tế tác của mình làm thế nào mà biết chi tiết tình hình của bọn Uyển, Văn.
– Bọn Đại Uyển đi đến dâu thì
tràn vào làng xóm bắt tráng đinh làm phu vác lương thảo, chẻ củi, phụ hỏa đầu
quân. Chúng gọi là Lao binh. Lợi dụng, tôi cho Tế tác lẫn vào lao binh. Hiện hai
đạo quân bộ, một đạo thủy của y , mỗi nơi tôi có khoảng 50 Tế tác.
Vũ Uy vương quyết định:
–
Vì quân gốc Mông cổ đều ở hai đạo Mật Lý Hỏa Giả, với Mông Ca. Còn đạo của bọn
Uyển, Văn toàn là quân của Tống tại Ích châu đầu hàng. Mỗi Thiên phu, có một
Thiên phu trưởng và 10 Bách phu trưởng người Mông cổ chỉ huy, vì Mông cổ không hoàn
toàn tin các tướng Tống mới đầu hàng.
Trước hết phải đánh chiếm hết lương thảo mà
Uyển đã đem xuống thủy đội.
Sau
đó thừa thắng ta chiếm Đông sơn, Mi sơn đoạt lại Thành đô. Bấy giờ dù muốn, dù
không, Mông Ca phải rút quân từ mặt Hợp châu, Ba trung về cứu Thành đô.
Vương nhấn mạnh:
– Binh pháp quan trọng nhất là
biết mình, biết người. Tên Dương Đại Uyển, Đặng Văn này khinh thường
lực lượng Tống tại Giang an, nên y không cho quân hộ tống đội vận chuyển trên sông.
Y lại không biết Tống có viện binh. Đối với dân chúng, binh tướng Tống, ta hãy
phao rằng hai hiệu binh Văn Bắc, Thiệu Hưng là quân Tống ở vùng Hành sơn tiếp
viện. Còn tôi là Hành sơn vương. Ta không nên chính diện chia quân đánh vào hai
nơi đóng quân của y là Thanh thần với Nga biên. Đánh hai nơi này, ta phải hy
sinh không ít, nhất là lâm cảnh người Hán giết người Hán. Lợi dụng binh tướng
của y đang rã ngũ, ta dùng tâm chiến kêu gọi họ trở về với ta. Ta đánh cảm tử.
Vương hỏi Địa Lô:
– Văn bác thượng tướng quân! Mình
có mang theo nhiều Hủ cân nhuyễn cốt tán
không?
– Khải vương gia có. Số thuốc
thần mang theo có thể đầu độc được 10 vạn quân.
Vũ Uy vương hài lòng, nói với
Nguyễn Văn Lập:
– Kiêu kị thượng tướng quân mau
trở về cùng Tiết độ sứ Vương Kiên giữ chắc Điếu ngư, trình sự việc
lên cho Tiết độ sứ biết.
Vương tiếp:
– Hôm nay là ngày 26. Đêm 30 là đêm trời tối, rất thuận tiện
cho chúng ta hành sự. Văn bác thượng tướng quân trao thuốc Hủ cân nhuyễn cốt
tán cho Đô đốc Triệu Tử Minh. Đô đốc chuyển thuốc này cho Tế tác của mình tại
ba khu đóng quân của Đại Uyển. Chiều ngày 30 thì bỏ thuốc vào thức ăn, khiến
cho binh tướng buồn ngủ, chân tay vô lực.
Vương nói chậm lại:
– Ta đánh cảm tửù hai trại quân
Nga biên, Thanh thần và thủy trại cùng một lúc. Trước hết trại Nga biên, y có
ba Vạn phu, nhưng hao hụt trong các trận vừa qua, chỉ còn hai vạn. Dương Đại Uyển với bộ tham mưu không
biết đóng tại đâu. Tuy vậy ta cũng cần người có võ công cao để đề phòng biết đâu
y ở đây thì sao? Phùng sư phó đem 18 vị sư phụ, đệ tử của Thiên Phong đại sư, mang theo Vệ Đại đởm của hiệu Thiệu Hưng phục
tại ngoài trại Nga biên. Chờ Tế tác đánh thuốc độc, binh tướng giặc mê man thì đột
nhập trại chờ đợi. Khi thấy hỏa pháo tại trại thủy quân bắn lên thì đốt phá, khống chế, chiêu hàng bọn hàng binh Tống.
Hôm sau, chỉnh bị binh mã đánh Mi sơn. Không nên đốt lương thảo. Lương thảo
phải chuyển xuống thuyền chở về đây.
Vương ra lệnh cho vương phi, Thúy
Hồng:
– Ngoài Phùng sư phó ra, thì vương
phi, với Thúy Hồng đủ bản lĩnh trị Dương Đại Uyển, Đặng Văn. Có thể đêm 30
y không ở trại Nga biên mà ở trại Thanh thần. Từ Đông sơn tới Thanh thần không
xa, lại có đường lớn, thuận tiện cho kị binh. Nếu Thanh thần bị đánh, kị binh
Mông cổ chỉ cần mất hai khắc (30 phút
ngày nay) là có thể cứu viện. Vương phi mang theo Vệ Đại đởm của hiệu Văn
Bắc, phục ngoài trại Thanh thần. Đợi khi Tế tác đánh thuốc độc khiến binh tướng
giặc mê man, thì âm thầm đột nhập trại. Khi thấy hỏa pháo từ trại thủy quân bắn
lên thì đốt phá, chiêu dụ hàng binh Tống. Sau khi đoạt hết lương thảo chuyển
xuống thuyền mang về Giang an, khẩn cấp chỉnh bị binh mã tiến lên đặt dưới
quyền vương phi đánh Đông sơn. Đoạt được Đông sơn, thì hợp quân với Phúng sư
phó tiến đánh Thành đô.
Vương nói với Địa Lô:
– Bây giờ Văn Bắc thượng tướng
quân lĩnh nhiệm vụ của Trương Nghi, Tô Tần.
Vương phi gọi hai nàng Ngọc Đức,
Ngọc Thiên vào trướng:
– Ngay từ khi gặp hai em ở phủ Vũ
Uy, chị đã nói riêng với hai em là chị quyết định gả hai em cho hai đấng trượng
phu. Hai em có nhớ không?
Ngọc Đức e thẹn:
– Em nhớ chứ! Chị nói chị gả em
cho một người Việt ở Mông cổ tên Trần Mạnh Quốc. Còn Ngọc Thiên chị gả cho Vũ Cao
San. Hai
ông này lớn hơn bọn em bốn tuổi. Cả hai đang là Thiên phu trưởng Mông cổ.
– Bây giờ hai ông này đóng quân ở
gần đây. Chị nhờ Văn Bắc thượng tướng quân đưa dâu. Hai em lên đường ngay bây giờ.
Vì đường đi phức tạp, hai em phải giả trai, rồi làm như thế... như thế... Những
gì chị với Thúy Hồng dạy các em về thuật bắt nai, phải ghi nhớ, chớ có quên.
– Hai anh ấy là người Việt mà
cũng phải dùng thuật bắt nai ư?
Vương cười khúc khích:
– Chị Ý Ninh cũng phải dùng thuật
bắt anh như bắt nai. Chị Thúy Hồng cũng phải dùng thuật bắt nai để bắt con Voi đồng
quê!
Hai nàng chuẩn bị hành trang.
Vũ Uy vương gọi Sơn Cương, Sơn
Trí là hai đệ tử của phái Mê linh, từng theo sứ đoàn mấy năm trước vào trướng.
Vương phi Ý Ninh mời hai người ngồi rồi ôn tồn hỏi:
– Hồi chúng ta ở Yên kinh, hai em
từng gặp, từng biết hai Vạn phu trưởng Mông cổ, được trao cho chỉ huy một vạn
kị binh của Tây hạ. Hai em có nhớ không?
– Nhớ chứ! Hai ông đó là người
Việt, giả tuân lệnh mụ Hy Hà đứng sau sứ đoàn Việt. Một ông
tên Trần
Mạnh Quốc. Một ông tên Vũ Cao San.
Vương xuất ra năm cái thẻ bài của
Cấm vệ Mông cổ, mà Đại Hành gửi cho:
– Hay lắm. Bây giờ hai ông này
chỉ huy một vạn phu kị binh, đóng lại Đông sơn. Văn Bắc thượng tướng quân với
hai em là đặc sứ của chúng ta, đưa dâu, âm thầm tới gặp hai ông. Khi đi đường
nếu gặp quân tuần tiễu thì xưng là quân Cấm vệ Mông cổ, đưa thẻ bài này ra. Ba
người đem theo một cặp chim ưng để liên lạc. Địa Lô thuyết phục hai ông ấy làm
như thế... như thế. Cả năm phải lên đường ngay hôm nay mới kịp.
Địa Lô, Sơn Cương, Sơn Trí dẫn
Ngọc Đức, Ngọc Thiên cầm thư lên đường.
Vương đưa mắt cho Thiên Sanh, Yết
Kiêu:
– Nước sông Mân giang chảy theo
chiều Tây- Đông. Đại đởm đại tướng quân, cùng
Hữu thiên ngưu vệ thượng tướng quân Trần Quốc Vỹ, đem cả toán Đại đởm,
hai Vệ Ngạc ngư Thiệu Hưng, Văn Bắc âm thầm phục hai bên sông. Chờ trời tối, đám
binh lính thủy đội trúng độc mê man thì chiếm lấy các thuyền vận tải, nhổ neo,
cho thuyền trôi về Giang an. Sau khi thuyền nhổ neo, thì đốt hỏa pháo lên cho Phùng sư phó, vương phi
hành động.
Vương gọi Dã Tượng:
– Tả thiên ngưu vệ đại tướng
quân, đem Quân Văn Sơn, Chiêu dương, phục dọc theo sông Mân giang, đề phòng lúc
ta cướp lương thảo, giặc đuổi theo thì chặn lại. Sau khi lương thuyền rời bến,
cho quân tiến về Thanh thần, đặt dưới quyền vương phi đánh Đông sơn.
Vương gọi các tướng của hiệu
Thiệu hưng:
– Vì Thống lĩnh Trần Quốc Vĩ phải
cướp lương, Phó thống lĩnh hiệu binh Thiệu Hưng là Đô thống Lý Long Đại (Trâu Đen),
phu nhân là Vũ Trang Hồng thay thế chỉ huy. Đô thống
Trần Long Nhất ( Trâu Xanh), phu nhân là Phạm Trang
Tiên đem Quân bộ 1 ẩn vào phía Tây trại Nga biên. Đô
thống Vũ Long Nhị (Trâu Điên) và phu nhân là Hoàng Trang
Liên
đem quân 2 ẩn vào phía Nam Nga biên. Đô thống
Phạm Long Tam (Trâu Trắng) đem quân 3, ẩn vào phía Bắc Nga biên. Khi
Phùng sư phó đã nhập trại giặc thành công, thì xuất hiện tràn vào trại khống
chế hàng binh, tránh chém giết. Chuyên chở lương thảo của giặc xuống thuyền.
Lý Long Đại hỏi:
– Sau khi
khống chế hàng binh, thì chúng tôi làm gì?
– Đặt dưới
quyền Phùng sư phó đánh Mi sơn, tiến về Thành đô.
Vương gọi
các tướng hiệu Văn Bắc:
– Đô thống Trần Nhị đem Quân Khâu Bắc âm thầm phục
phía sau trại Thanh thần. Đợi khi vương phi nhập trại thì tràn vào khống chế tù
binh. Tránh chém giết. Sau đó chuyên chở lương thảo thu được chở về Giang an.
Chỉnh bị binh mã đặt dưới quyền vương phi
đánh Mi sơn, Thành đô.
Vương hỏi cử tọa:
– Có ai thắc mắc gì không?
Phu nhân của Hữu thiên ngưu vệ thượng
tướng quân Yết Kiêu là Vương Chân Phương đề nghị:
– Các thành Mi sơn, Đông sơn, Nga
biên, cũng như Thành đô hiện do hàng tướng Tống chỉ huy những đội hàng binh
trấn thủ. Khi các tướng tiến đánh thì trước tiên sai sứ vào thành, nhân danh
Tống triều chiêu hàng họ. Hứa tha hết tội lỗi khi họ hàng Mông cổ. Lại cho họ
giữ nguyên chức tước, phẩm hàm Mông cổ ban cho.
Hoàng Hiệp thắc mắc:
– Nếu như binh tướng ấy hàng, mà
ta để họ đóng tại đất cũ, lỡ họ trở giáo thì nguy to. Còn như ta dùng người của
hai hiệu binh Thiệu Hưng, Văn Bắc trấn
thủ thì lực lượng xung kích bị chia sẻ. Hơn nữa binh tướng hai hiệu này chưa
quen với phong tục, đời sống dân chúng Ích châu, thì e gặp nhiều khó khăn. Ta phải
làm gì?
Chân Phương bàn:
– Ta dùng binh tướng hiệu binh
Giang an chia nhau trấn thủ các thành trì này.
Đô đốc Tử Minh dẫy nẩy lên:
– Trần phu nhân ơi! Tại Giang an
tôi chỉ có một hiệu binh với hai thủy đội. Nay đem hiệu binh này đi thì lỡ ra
bọn hàng tướng Tống theo Mông cổ ở Độ khẩu, Hoa bình đánh úp thì ta mất đường
về.
Chân Phương mỉm cười. Nàng vốn đẹp
như hoa nở, nàng mỉm cười làm các tướng trẻ xao xuyến:
– Vậy tôi đề nghị như thế này:
khi ta tiến binh thì phía Nam Giang an là vùng đất của Đại lý. Vương gia sai sứ
giả sang Đại lý xin với Quốc công Tạ Quốc Ninh đem một đạo quân đóng ở Độ khẩu
phòng phía sau cho Giang an. Còn đạo quân Giang an thì chia làm hai. Một nửa
theo hiệu Thiệu Hưng, một nửa theo hiệu Văn Bắc. Khi hai hiệu này đánh được,
hay chiêu dụ được thành nào thì quân Giang an tiếp quản trấn đóng. Còn binh tướng
trước đây thuộc Tống, đầu hàng Mông cổ thì ta đưa về trấn tại Giang an, trong
khi vợ con, gia thuộc họ vẫn ở trong các thành cũ, ta giữ họ như con tin, chồng
họ không dám trở giáo nữa.
Cử tọa
vỗ tay hoan hô.
Thúy
Hồng đề nghị:
– Khi
khởi hành, vương phi từ biệt sư phụ. Vô Huyền Bồ tát có gửi theo hai đội Kiếm
trận Mê linh. Thần đề nghị vương gia gửi theo Phùng sư phó, vương phi, mỗi đạo
một đội. Khi xung sát ta dùng hai đội
này vây bắt tướng giặc.
Địa
Lô, Sơn Cương, Sơn Trí dùng thuyền nhỏ lên đường đi Đông sơn. Trại kị binh Mông
cổ đóng dựa theo chân núi. Khi gần tới nơi, năm người vừa lên bờ thì gặp một
thập phu kị binh đi tuần. Viên thập phu trưởng vẫy tay, thập phu bao vây 5 người
lại. Viên thập phu hỏi bằng tiếng Hán vùng Thục.
– Các
người là ai? Có phải gian tế của Tống không?
Địa Lô
xuất trình 5 thẻ bài ra.Tử nói tiếng Mông cổ:
– Tôi
là Y quan trong đội Cấm vệ hộ tống Đại hãn. Đại hãn được tin vạn phu chiến mã Đông
sơn bị bệnh nên sai tôi tới điều trị. Còn đây là bốn huynh đệ hộ vệ tôi. Ngoài
ra tôi còn mang mật chỉ của Đại hãn cho hai tướng chỉ huy vạn phu này.
Viên
thập phu cầm năm thẻ bài lên xem. Y hỏi:
–
Huynh đệ có biết tên của vạn phu trưởng chúng tôi không?
– Biết chứ, chánh tướng là A Ba
La. Phó tướng là Ngột Đặc Thiết Cấp.
Để cho thập phu áp tải năm người.
Viên thập phu trưởng phi ngựa đi trước để thông báo tin tức. Chỉ lát sau y trở
lại, dẫn bọn Địa Lô vào trại. Nhìn trại kị binh : ngựa cột từng hàng, sạch
sẽ. Quân sĩ ở trong những căn lều lớn hàng lối ngay thẳng. Khu này thông với
khu kia bằng lối đi rộng rãi. Địa Lô chột dạ :
– Với quân khí này, chỉ cần một
hồi trống, kị binh có thể lên ngựa, xuất trại xung trận.
Tới soái lều, viên thập phu hô
lớn bằng tiếng Mông cổ :
– Năm Cấm vệ đã tới.
Có tiếng nói vọng ra :
– Mời vào.
Trần Mạnh Quốc, Vũ Cao San thoáng thấy Địa Lô, Sơn Cương, Sơn
Trí và Ngọc Đức, Ngọc Thiên thì giật mình. Địa Lô nói lớn :
– Tôi là y quan Cáp Thiết Mật Hoa,
xin kính chào nhị vị vạn phu trưởng. Tôi tuân chỉ Đại hãn trình mật chỉ đến nhị
vị.
Vũ Cao San vẫy tay cho tùy
tùng ra khỏi lều. Trần Mạnh Quốc ra lệnh cho Sơn Cương, Sơn Trí. Hai người vòng
quanh lều kiểm soát một vòng, rồi đứng gác ở cửa.
Địa Lô
trình thư của Vũ Uy vương cho Trần Mạnh Quốc. Mạnh Quốc đọc xong, hỏi chi
tiết về việc Đại Việt quân viện cho Tống, kế hoạch của Vũ Uy vương. Cao San hỏi :
– Ý Vũ
Uy vương muốn chúng tôi làm gì ?
– Ý người
không muốn sĩ tốt chết nhiều. Người muốn dùng tâm chiến, phá đạo binh đóng tại
Thanh thần. Ta phải làm như thế... như thế...
– Tôi
hiểu.
Đia Lô
chỉ vào Ngọc Đức, Ngọc Thiên :
– Vương
phi đã cưới vợ cho hai vị. Hai cô dâu này mặc y phục giả trai, để qua mặt thám
mã Mông cổ. Chúng tôi lĩnh địa vị đưa dâu. Xin cho hai cô dâu thay y phục.
Hai
nàng Ngọc ra sau lều, một lát trở lại : váy lụa Nghi tàm mầu hoa cà. Khăn
cổ mầu xanh lá mạ. Áo cánh trắng, yếm đào, áo tứ thân cũng mầu hoa cà. Dây lưng
xanh, đỏ.
Không
những Vũ Cao San, Trần
Mạnh Quốc ngây người ra nhìn, mà đến Sơn Cương, Sơn Trí dĩ chí Địa Lô cũng ngây
ngất.
Địa Lô
cho Ngọc Đức đứng trước Trần Mạnh Quốc. Ngọc Thiên đứng trước Vũ Cao San, rồi hô :
– Bốn
người quỳ xuống, hướng về Nam.
Rồi Tử
cầm trục giấy ra đọc :
« Thừa thiên khải vận Đại Việt hoàng đế chiếu
rằng :
Âm dương là đạo trời đất. Xưa Quốc tổ Lạc Long Quân,
kết hôn với Quốc mẫu Âu Cơ tại hồ Động đình, sinh ra trăm con, lập thành tộc
Việt, truyền tử lưu tôn mấy nghìn năm đến nay.
Hai dũng tướng
Trần Mạnh Quốc, Vũ Cao San, do cha mẹ sinh tại Mông cổ, có tài được thọ lĩnh Vạn
phu trưởng. Tuy phú quý, nhưng lòng vẫn hồi tưởng cố quốc. Thực xứng đáng con rồng,
cháu tiên.
Nay hai hoa khôi Lý Ngọc Đức, Lê Ngọc Thiên, có tài cầm ca, lại thông thi, thư, đức hạnh
khó bì.
Truyền gả :
– Lý Ngọc Đức cho Trần Mạnh Quốc,
– Lê Ngọc Thiên cho Vũ Cao San.
Cha mẹ Ngọc Đức, Ngọc Thiên có công nuôi dưỡng con, ban
cho cha được phong tước Tam tư. Mẹ được phong tước ngũ phẩm phu nhân. Truyền
ban cho 15 mẫu ruộng nhất đẳng điền, không
phải nộp thuế.
Truyền Văn Bắc thượng tướng quân, Văn sơn tử làm Đào hoa dẫn sứ.
Này hai dũng tướng Trần, Vũ, hai hoa khôi Lý, Lê,
triều đình ưu ái giúp cho thành duyên Quan thư, phúc Đào chi*, phải ăn ở với nhau cho phải đạo phu thê tộc
Việt.
Khâm thử
Niên hiệu Thiệu Long thứ 7, tháng 3 ngày sóc.
Kiến thiên, thể đạo,
Đại minh, quang hiếu hoàng đế.
Ghi chú :
Duyên Quan thư,
chữ cổ . Quan thư là tên một bài thơ trong Kinh thi, phần Quốc phong, Chu phong, ngụ ý nói
về người quân tử tương tư thục nữ đến quên ăn, mất ngủ, rồi thành giai ngẫu.
Phúc Đào Chi, Đào
Chi là tên một bài thơ, trong Kinh thi, phần Quốc phong, Chu phong nói về người con gái
xinh đẹp, đi lấy chồng hòa hợp với gia đình nhà chồng.
Bốn người hướng
về Thăng long lậy tạ, lại hướng Địa Lô vái ba vái, tạ ơn đưa dâu.123
Trần Mạnh Quốc, Vũ Cao San nhìn hai cô vợ : quả thực hai người chưa từng
thấy ai đẹp hơn. Mạnh Quốc nói :
– Vương phi Ý Ninh giữ lời hứa nặng như núi. Hai anh em
chúng tôi muôn vàn cảm tạ. Quả thực Ngọc Đức, Ngọc Thiên đẹp hơn cô Hoàng Liên, với hai chị Thanh Nga, Thúy Nga. Nghĩ chúng tôi chưa
lập công gì với Đại Việt mà được hưởng diễm phúc này. Chúng tôi sẽ đời đời nhớ ơn
vương phi Ý Ninh.
Mạnh Quốc mở chiếc rương đặt phía sau trướng, lấy ra con
phụng trên dát 7 viên kim cương cài lên tóc Ngọc Đức :
– Hồi còn sinh tiền, bố anh thường nói : phong
tục Đại Việt cực kỳ trọng phụ nữ. Nên khi một người con trai, muốn thành hôn
với cô gái phải có sính lễ. Anh chỉ là một gã võ phu thô lỗ, nhờ vương phi Ý
Ninh mà được thành hôn với tiên nữ như em. Anh chỉ có chút quà mọn này tặng em
mà thôi.
Chàng lấy ra 10 nén vàng trao cho Địa Lô :
– Tôi kính cẩn nhờ Đào hoa dẫn sứ mang số vàng này gửi
về Đại Việt để kính biếu nhạc gia của tôi.
Vũ Cao San lấy ra một cái hộp, trong hộp có chiếc vòng ngọc trai đến 5 vòng. Chàng
quàng lên cổ Ngọc Thiên :
– Anh cũng tặng em vật này làm quà cưới.
Chàng cũng gửi Địa Lô 10 nén vàng nhờ mang về Đại Việt
dâng nhạc gia.
Hai người đem ra ba thanh kiếm trao cho Địa Lô ,
Sơn Trí, Sơn Cương:
– Ba thanh kiếm này
do người Đức Nhĩ Man (Germany) đúc, sắc bén, cứng vô cùng. Hai tôi xin
tặng ba huynh để tưởng ơn đưa dâu.
Địa Lô hỏi hai tướng :
– Hai huynh có được phụ thân cho biết quê ở vùng nào trên
đất Việt không ?
Vũ Cao San nói :
– Người luôn tưởng nhớ quê hương. Đó là một làng ở ven
biển, có đồi núi thuộc vùng Đông triều. Trên rừng có nhiều thú hoang, chim
muông, dưới biển có nhiều tôm cá. Khí hậu ấm áp, không lạnh như Mông cổ. Hồi
còn bé, bà nội thường hát ru cho cha tôi ngủ. Tôi hỏi hát ru thế nào thì người
lắc đầu nói : không nhớ.
Ngọc Thiên mỉm cười liếc mắt, ánh mắt lung linh, làm Vũ
Cao San xao xuyến. Nàng nói :
– Để vợ anh hát ru cho anh nghe nhá.
Địa Lô thổi tiêu, Ngọc Thiên kéo nhị, Ngọc Đức đánh đàn
bầu. Rồi Ngọc Thiên cất tiếng hát :
Hôm qua tát nước đầu
đình,
Để quên cái áo
với cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin,
Hay là em để làm
tin trong nhà !
Hết một đoạn, Địa Lô phải giảng về cái đình là gì cho
hai người nghe.
Ngọc Đức hát tiếp:
Áo anh sứ chỉ đường
tà,
Vợ anh chưa có,
mẹ già chưa khâu.
Áo anh sứt chỉ đã
lâu,
Anh mượn cô ấy về
khâu cho cùng.
Trần Mạnh Quốc góp ý:
– Tôi nghĩ cái anh chàng này chẳng hề quên áo gì cả.
Anh ta bịa ra, để có cớ làm quen với cô gái mà thôi.
Địa Lô khen:
– Huynh thông minh thực. Để tôi hát tiếp.
Địa Lô cất tiếng hát ru:
Khâu rồi anh sẽ
trả công.
Đến lúc lấy chồng
anh sẽ giúp cho.
Giúp cho một
thúng xôi vò,
Một con lợn béo,
một vò rượu tăm.
Giúp cho đôi
chiếu em nằm,
Đôi chăn em đắp, đôi
tầm em đeo.
Giúp em quan tám
tiền treo,
Quan năm tiền cưới,
lại đèo buồng cau.
Ngọc Đức giải thích xôi vò là gì, rượu tăm là gì. Thế nào là tiền treo. Vũ Cao San cười:
– À, thế thì
hai đứa tôi có phải gửi tiền về quê vợ đóng tiền treo không?
Địa Lô cười:
– Hai anh được đức
vua gả vợ cho thì miễn treo.
Nghe hát, nghe
nói về quê hương, khiến hai dũng tướng mê mê, tưởng tượng về quê cha, mà chưa được
thấy. Trước mắt họ chỉ thấy hai cô vợ đẹp tươi thắm, ánh mắt lung linh, nụ cười
như mời, như gọi. Vũ Cao San mơ
màng:
– Vương phi Ý
Ninh thực là người mẹ thứ nhì của tôi. Phi giữ lời hứa, hỏi vợ cho chúng tôi.
Hy vọng trận đánh đêm 30 này chúng tôi sẽ được gặp phi.
Trần Mạnh Quốc
than:
– Quê cha! Biết
bao giờ chúng tôi được thấy!!! Trước mắt tôi chỉ thấy đất Mông cổ với những đồng
có mênh mông bất tận. Quanh năm gần như chỉ có tuyết, với những đàn bò, ngựa,
cừu đếm không hết.
Ngọc Đức
nghiêng đầu nhỏ nhẹ:
– Bây giờ Đại
Việt còn là quê vợ của hai anh đấy! Tương lai hai anh sẽ được về quê cha, quê
vợ.
Một tiệc nhỏ bầy ra.
Đêm ấy tại
doanh trại kị binh Mông cổ, dưới chân núi Đông sơn xứ Thục, hai kiều nữ Ngọc Đức,
Ngọc Thiên cùng Địa Lô tấu nhạc, ca hát tới khuya. Rồi hai cặp anh hùng, giai
nhân động phòng hoa chúc, xuân tình phơi
phới như vạn hoa nở.
Sáng hôm sau
Mạnh Quốc hỏi Địa Lô :
– Vũ Uy vương
muốn chúng tôi giúp vương như thế nào ?
Địa Lô nói thực
chậm :
– Hôm nay là ngày 27 rồi. Còn 3
ngày nữa là ngày 30. Đêm 30, người cho đánh úp trại Nga biên, đoạt các thuyền lương
thảo, rồi phao rằng Dương Đại Uyển phản Mông cổ. Chính y sai
chở lương về cho Tống. Trong khi đó nhị vị đem kị binh tới Thanh thần nói với tướng
sĩ rằng tuân chỉ Đại Hãn bắt y. Sau khi y bị bắt, nhị vị tập trung binh tướng
lại, tuyên bố : Ai muốn về với gia đình thì cho.
– Vậy thì tôi cần đại huynh ở lại
đây làm quân sư cho chúng tôi.
– Dĩ nhiên là được.
– Nhưng tôi sẽ trả lời sao với Đại
hãn ?
– Phi mã đại tướng quân Đại Hành
hiện chỉ huy đội Cấm quân sẽ tâu lên Đại hãn rằng : Đại Uyển bí mật trở về
với Tống, nên đem toàn bộ 50 con thuyền chở lương đến Giang an cho Tống. Y định
đem quân về đánh úp Thành đô, nên hai vị phải ra tay trước. Vả khi bắt được tù
binh Mông cổ, chúng ta sẽ nói rằng : Dương Đại Uyển, Đặng Văn trước đây dùng
khố nhục kế hàng Mông cổ, nay trở về với tộc Hán. Bọn này sẽ khai với Mông cổ.
Như vậy nhị vị trở thành người có công lớn.
– Được ! Chúng tôi vì di
chúc của cha rằng : nếu có dịp thì trở về với Đại Việt. Đây là lúc chúng
tôi thực hiện đây.
Đêm 30. Trời tối đen như mực. Yết
Kiêu, Thiên Sanh dẫn đội Ngạc ngư, đội Đại đởm âm thầm lên đường.
Trước khi đi, hai tướng bàn định
với nhau.
Trong hai người thì Thiên Sanh
quân hàm là Đại tướng, cao hơn Yết Kiêu đến 4 bậc. Về tước thì Sanh tới hầu,
trong khi Yết Kiêu mới tước Tử. Trên nguyên tắc thì Sanh chỉ huy Yết Kiêu. Nhưng
về mưu kế thì Sanh tự biết rằng muôn ngàn lần mình không bằng viên thiếu niên
can đảm này. Hầu bàn:
– Bây giờ ta đánh úp đám thuyền
này thế nào? Em còn trẻ, nhiều mưu, lắm mẹo, lại được truyền Binh Thư Yếu Lược!
Em thiết kế đi!
Yết Kiêu bàn:
– Chúng có 50 con thuyền chở lương.
Tin tế tác cho biết bọn lính vận tải không ở trên thuyền. Đêm chúng vào
làng ăn uống, tìm gái. Trên mỗi thuyền chỉ còn một hai tên canh gác. Vậy ta
chia dũng sĩ Đại đởm, Ngạc ngư làm 50 toán. Mỗi toán ba Ngạc ngư, một Đại đởm. Đại
đởm âm thầm tới ván cầu của thuyền phục sẵn. Còn Ngạc ngư thì bơi theo sông.
Sau đó cùng đột nhập thuyền, giết quân canh. Mọi việc hoàn tất, ta đốt pháo hiệu
cho quân của Dã Tượng biết. Họ tràn xuống thuyền, cắt dây buộc, chèo thuyền về
hướng Đông. Hai bên bờ sông đã có hiệu binh Văn Bắc phục sẵn, chặn đánh quân
truy kích.
Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét