HỒI THỨ NĂM MƯƠI BA,
Anh hùng Lĩnh Nam,
Vương
dùng Lăng không truyền ngữ hỏi lại:
– Sao
em biết cô ấy tuyển phu?
– Anh
không thấy sao? Cô ấy tìm người cùng tát biển Đông, chữ này lấy ý trong câu tục
ngữ: Thuận vợ, thuận chồng tát biển Đông
cũng cạn.
– Anh
chưa học chữ Nôm thành ra đọc không hết 12 chữ kia. Anh đọc được chữ thanh! Em thử
hỏi xem cô ca nhi này có đúng tên Thanh Nga không? Biết đâu Thanh Nga là người
khác, không có mặt ở đây thì sao?
Vương
phi hỏi cô gái:
– Này
cô em! Bây giờ em hát một bài nhẹ nhàng đi.
Cô gái
đưa mắt cho ban nhạc, một người đánh trống mảnh, một người kéo nhị, một người
thổi sáo, một người đánh đàn bầu. Người đàn bà vẫn bật trống cơm. Cô gái gõ
phách, rồi cất tiếng hát. Mở đầu là bốn câu thơ lục bát, cô hát theo điệu ru em
mượt mà. Hết bốn câu, cô đổi sang điệu hát rất lạ, rất êm dịu.
Bản
nhạc hết, vương phi Ý Ninh hỏi:
– Em ơi!
Bài hát vừa rồi theo điệu gì vậy? Tôi chưa từng nghe qua.
– Thưa
đó là điệu hát Xẩm đấy ạ.
Phi
khen:
– À,
xung quanh tôi người ta nói đến hát Xẩm hoài, bây giờ tôi mới được nghe em hát. Em hát hay thực, bỏ
xa các ca nhi mà tôi từng được nghe. Này em, hát Xẩm là điệu hát dành cho người
nghèo, xin tiền. Em có nghèo đâu mà cũng hát Xẩm? Em đẹp lồ lộ, tươi thắm như
hoa đào, hoa lý (mận) thì phải gọi là hát Đào hoa, Lý hoa mới đúng.
Cô gái
cười, ánh mắt lung linh như nước hồ thu, chắp tay vái vương phi:
– Thưa
phu nhân, hát Xẩm là điệu hát dân gian, không biết ai là tác giả, có từ bao
giờ. Thế nhưng người ta cứ phong cho Trương Chi là tác giả. Trương Chi là nhạc sĩ tài
hoa thời vua Hùng. Nếu đúng như thế thì hát Xẩm có từ thời vua Hùng.
Tạ hầu
xen vào:
– Tuy đến
nay sử sách không ghi rõ ràng, nhưng trong bộ Lĩnh Nam mật sử , phần Bắc bình vương
thế gia chép rằng hồi niên thiếu, khi vương qua bến đò đi Cổ loa thì gặp một
cặp vợ chồng hát Xẩm tên là Chu
Thổ Quan. Như vậy hát Xẩm ít nhất có vào thời vua Trưng
(39-43 sau Tây lịch).*
Ghi chú,
* Bắc bình vương Đào Kỳ là đại anh hùng trong cuộc khởi nghĩa của vua Trưng.
Ngài lĩnh chức Đại tư mã tương đương với ngày nay là Tổng tư lệnh quân đội. Vương
phi là Nguyễn Phương Dung lĩnh chức Tể tướng triều Lĩnh Nam. Hiện (2001) đền
thờ hai vị còn tại Lộc hà, Hội phụ, Lê xá, Thị thôn thuộc Cổ loa Hà nội. Xin xem Anh hùng Lĩnh Nam, Động
đình hồ ngoại sử, Cẩm khê di sự, cùng tác giả.
Dã Tượng
thấy cô gái quá trẻ, xinh đẹp mà kiến thức rộng, chàng hỏi:
– Cô ơi,
tại sao tại các con đò qua sông, trước các đền chùa, nhất là ngày mùa, tôi thấy
người hát Xẩm đều nghèo, đi xin ăn. Mà ở đây cô cũng là Xẩm, vậy cô là Xẩm giầu, Xẩm đẹp
sao? Cô đẹp thế kia mà đi hát Xẩm thì nên gọi là Xẩm tiên nga mới đúng.
– Anh đặt
câu hỏi như vậy thì anh từng nghe hát Xẩm nhiều rồi. Em đâu phải Xẩm. Xẩm chỉ
là một điệu hát thôi. Còn em, em biết hát tất cả các điệu hát Đại Việt như Quan
họ, Đò đưa, Ả đào, Sa mạc. Lại còn hát Lý, hát chăn trâu.
Xuất
thân là mục đồng chăn trâu, rồi thành tướng Ngưu binh, Dã Tượng thuộc hàng trăm
bài hát Nghêu, hát đồng, hát ghẹo, hát gọi, hát đố. Chàng rút ống sáo đeo trước
ngực ra thổi theo điệu Hát Nghêu. Lập tức cô gái cất tiếng hát theo:
Hôm nay trời nắng, gió êm,
Cỡi trâu, gõ sừng, ấy a, ta quên nhọc nhằn.
Dã Tượng
khen:
–
Giọng cô tốt quá. Thế tôi hỏi cô câu này nghe: tại sao thì Xẩm hầu lại gồm tất
cả các điệu Quan họ, Ả Đào, Hát lý, Hát trống
quân?
– Anh ơi,
Hát Xẩm là diệu hát dân gian . Vì vậy Hát Xẩm rất phong phú có thể dùng tất cả
thể loại thơ văn biến ra. Như bài hát Đông bộ đầu giết Thát đát, từ nguyên tác
em có thể biến thành điệu hát Xẩm, nhưng không còn hùng tráng nữa. Bây giờ em
xin hát một bài hát Ả Đào, mời anh nghe.
Nàng
phất tay, rồi gõ phách, các nhạc công cùng tấu nhạc hòa lẫn vào nhau, nàng cất
tiếng hát:
Lĩnh-Nam là đất anh hùng,
Vua Bà ngự
trị, một lòng thương dân.
Mê-linh
khởi nghĩa,
Ánh trăng
soi, lửa chiếu đến ngang trời.
Vua Bà cầm
bảo kiếm, quyết một lời:
Thề đem
sức, giúp đời dành tự chủ.
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếm
hãn thanh.*
Khi đuổi
giặc, rồi thì đất tổ thái bình,
Đem tất cả
hùng tài dựng lại nước.
Tài không thiếu, đức
cũng đủ, dư thừa phương lựơc,
Chỉ hiềm
vì, thế nước đã suy vi,
Cẩm-khê
sóng cả bốn bề,
Anh hùng
gieo xuống, hồn về cõi tiên.
Nghìn năm
lịch sử ghi tên.
* Người ta sinh ra, ai mà không phải chết, nhưng phải sao lưu chút lòng
son với đời sau (thẻ tre).
Tạ hầu cười:
– Cô ơi! Cô hát hay quá. Nhất là hai
câu mưỡu cô lên cao đến như vậy, tôi chưa từng nghe qua. Điệu hát vừa rồi là điệu
hát Ả Đào còn gọi là Ca trù. Còn nội dung bài hát là nói về cuộc khởi binh của
vua Trưng. Đâu phải hát Xẩm?
Cô gái
lại gõ phách, năm nhạc khí lại tấu lên, cô biến bài Ca trù thành điệu hát Xẩm.
Dã Tượng
chắp tay xá cô gái:
– Tuổi
cô còn trẻ, mà tài thì lại cao, nhất là cô làm chủ một tấm nhan sắc tươi như
hoa, thanh thoát như cỏ non đầu xuân. Xin bái phục.
Vương
phi Ý Ninh móc trong bọc ra một nén bạc, nắm lấy tay ca nhi, bỏ vào, mỉm cười:
– Chị
biếu em đấy. Em hát hay, lại xinh đẹp thế này. Nếu chị là trai, chị quyết xung
vào đội quân Bắc cương đánh giặc lập công. Đức vua ban cho chức tước gì chị
cũng không nhận. Chị chỉ xin cưới em làm vợ thôi. Được làm chồng em, thì lệnh vua
bảo chị xung vào trăm nghìn đao kiếm, vạn vạn mũi tên chị cũng sẵn sàng.
Nói rồi tay trái phi nâng cằm cô gái, tay phải
sẽ tát yêu một cái.
Một
nho sinh khá lớn tuổi ngồi trong hàng ghế đầu tiếp lời:
– Nhưng
nay giặc bỏ chạy rồi, thì dù có muốn làm anh hùng giết giặc cũng không dễ. Tôi
e phải sang Mông cổ tìm giặc.
Một
trung niên nam tử mặc võ phục cấp Tá lĩnh xen vào:
– Biết
đâu giặc bị thua chạy về, chúng sẽ kéo cả ổ sang trả thù thì sao?
Thấy
Nho Lâm đang ngây người ra nhìn cử chỉ từ ái của phi. Vương hỏi y:
– Anh
nói đào Nguyên Phong. Đâu? Đào mừng chiến thắng toàn quốc mang tên Nguyên Phong
của anh đâu?
Anh ta
chỉ vào hai má cô gái hây hây hồng:
– Thưa
quan khách đây là hai chùm đào chiến thắng thời Nguyên Phong đấy ạ.
Anh ta
lại chỉ vào vương phi :
– Hai
chùm đào chiến thắng của phu nhân mới thực là đẹp. Tôi e xuất hết kho vàng
thiên hạ cũng không mua được.
Tuy
kiếm thuật thần thông, tuy được phong tước Hồng Đức, Trang Duệ, Vũ Thắng công
chúa ; rồi trở thành vương phi, địa vị cực cao quý. Nhưng giữa Quán văn, được
một nho sĩ ca tụng sắc đẹp của mình, phi cũng không dấu được nét hãnh diện, vẻ
e thẹn. Người phi nóng bừng lên, càng tăng thêm vẻ diễm kiều. Phi hỏi cô
gái :
–
Em ! Em tên gì ?
– Thưa
phu nhân, em
tên Thanh Nga.
– À
thì ra em đến đây treo bảng tuyển phu đấy.
– Sao
phu nhân biết?
Phi
chỉ vào tấm bảng có 12 chữ Thanh Nga mười tám mùa Xuân tìm người cùng tát biển Đông:
– Thì
chị đọc tấm bảng này chứ đâu!
Một người
trang phục như thương gia hỏi phi:
– Trên
tấm bảng này tôi chỉ đọc được có mấy chữ thanh,
xuân, đông. Còn 9 chữ kia tôi không đọc được. Đó là những chữ gì vậy?
– À đấy
là chữ Nôm. Toàn bảng là Thanh Nga 18 mùa
Xuân tìm người tát biển Đông. Thanh, xuân, đông là chữ Hán, còn lại 9 chữ
là chữ Nôm.
– Chữ
Nôm à? Tôi chưa từng học qua.
Nho
Lâm giảng giải:
– Thời
Lĩnh Nam về trước,
người Việt mình có chữ Khoa đẩu, tượng thanh. Sau khi Mã Viện chiếm Lĩnh Nam,
triều Hán sai thu tất cả sách viết bằng chữ Khoa đẩu gồm mấy vạn bộ: kinh, sử,
tử, tập, lại cấm dân chúng học chữ Khoa đẩu. Thế là bao nhiêu văn minh, văn
học, kinh điển Việt không còn nữa. Hiện nay trong nước không ai đọc được chữ
này nữa. Gần đây các thức giả chế ra chữ mới gọi là chữ Nam, đọc
trại đi thành chữ Nôm. Chữ Nôm dùng chữ Hán ghép lại mà thành. Hiện các khóa
sinh đều thi nhau học, nhưng chữ Nôm chưa có cấu trúc đầy đủ. Đã có rất nhiều
danh tác bằng chữ Nôm.
Thanh
Nga góp ý:
– Thưa
quý khách, em nghĩ chữ Nôm phải có ít ra mấy trăm năm. Vì sử từng nói đến Bố
Cái đại vương. Đại, vương là chữ Hán. Còn bố là chỉ cha, cái để chỉ mẹ là tiếng
Việt. Lại nữa bài hát Ả Đào vừa rồi bằng chữ Nôm, được làm vào thời vua Lý Thái
tổ (1010 - 1028). Vậy thì vào thời này chữ Nôm phải thịnh lắm rồi.
Dã Tượng
trở lại với lời rao bán hoa đào. Chàng chỉ vào cành đào cắm trong bình, nở đỏ tươi
hỏi Nho Lâm :
– Dĩ
nhiên nhánh đào trên má Thanh Ngoan thì đẹp hơn cành đào này rồi. Nhưng sao anh
lại bảo đào trên má thím tôi với đào trên má Thanh Ngoan là đào chiến thắng
Nguyên Phong ? Nguyên Phong là tên của đức vua mà.
– Này
quan khách ơi ! Nếu như các trận vừa rồi ta bại hết, thì các bà, các cô sợ
xanh mặt ra, sao má có thể nở hoa ? Vì ta
toàn thắng các bà các cô mới vui. Vui thì má đỏ au lên, tươi thắm hơn bao giờ
cả. Còn tại sao danh sĩ trên toàn quốc gọi giai nhân mùa xuân này là đào Nguyên
Phong ? Thưa quan khách, giai nhân khắp trời Nam mình,
hỏi ai không là con của đức vua ?
Anh ta
chỉ vào mấy thiếu nữ ngồi trong quán:
– Các
cô này đều là con đức hoàng đế Nguyên Phong cả đấy!
Vũ Uy
vương mỉm cười , móc túi trao cho anh ta một lượng bạc, rồi chỉ vào cành đào
lớn nhất :
–
Giỏi ! Tôi xin mua cành đào Đông bộ đầu này.
Dã Tượng chỉ vào ca nhi Thanh Nga :
– Tôi
muốn mua hai cành đào trên má giai nhân này, anh bán bao nhiêu ?
Tất cả
cử tọa cùng cười ồ lên.
Một người
đàn bà dường như trên sáu mươi tuổi nói với Dã Tượng:
– Cành
đào này nghìn vàng chưa dễ mua được. Cậu về đúc nhà vàng đi rồi rước giai nhân
cũng chưa muộn.
Thấy
một thiếu niên thân thể hùng vỹ, nét mặt xạm đen, nhưng khôi ngô, hỏi câu đó,
tim Thanh Nga đập thình thịch, muốn nghẹt thở. Nàng e thẹn cúi đầu xuống, đôi
má đỏ rực lên, trông càng đẹp hơn. Nàng ước thầm:
– Giả
như mình được làm vợ người này thì không uổng tấm hồng nhan.
– Hai
cành đào trên má Thanh Nga này đẹp nhất Thăng long đấy cậu ạ.
Nho
Lâm nói với Dã Tượng : kẻ phàm phu
tục tử thì nghìn vàng cũng không bán. Còn người nào muốn rước hai cành đào trên
má Thanh Nga phải thuộc loại ba có và ba không.
Tạ
Quốc Ninh bật lên tiếng a lớn :
– Thì
ra cô Thanh Nga ra
Quán văn này để tuyển phu đấy. Hèn gì quán mang tên Thiên Thư. Chữ Thiên
Thư lấy trong bài thơ đánh Tống của ngài Thái úy Lý Thường Kiệt thời Anh vũ Chiêu thắng
(1075-1076). Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư . Tên quán đã có ý
nghĩa chiến thắng, mà tên giai nhân còn có ý nghĩa hơn. Trong lịch sử ca nhạc
của Đại Việt, kể từ đời Lý đến nay người ta thường lấy nghệ danh khởi đầu bằng
chữ Thúy, Thanh, Hồng, Huyền. Quán văn phường Tây hồ có Thanh Hương, Thanh
Hoài, Thanh Thúy, Hồng Yến. Quán văn Thụy khê, Thụy Hương có Thúy Hoa, Thúy
Uyên, Thanh Thanh. Đó là những danh kỹ đời nay. Tôi biết từ xưa đến giờ ít ra mười người lấy nghệ danh
là Thanh Nga. Mà Thanh Nga nào cũng khiến cho các danh sĩ thầm yêu, trộm nhớ.
Nếu bây giờ cô tuyển được một đấng anh hùng cùng tát biển Đông thì trăm năm
sau, nghìn năm sau không thiếu danh kỹ lấy tên Thanh Nga.
Nói đến
đó trong lòng hầu lại quặn đau, tưởng nhớ lại năm trước hầu từng đến Quán văn
Tô lịch dự tuyển phu của đệ nhất danh kỹ Hoàng Hoa, rồi nàng trở thành vợ của
hầu. Giữa lúc vợ chồng đang hưởng tuần trăng mật, tình yêu mặn nồng, dạt dào thì Mông cổ tràn vào Thăng
long. Hoàng Hoa bị chúng bắt đi mất, cho đến nay vẫn không có tin tức gì.
Nho
Lâm chỉ vào mấy thiếu niên trẻ, trong đó có viên Tá lĩnh:
– Bẩy
vị này cũng đã ứng tuyển, nhưng không đủ điều kiện đấy.
Qua đối đáp của
Tạ Quốc Ninh với Nho Lâm, Vũ Uy vương chợt nhớ lại truyện tình của phụ hoàng
với vương mẫu. Trước kia, người Thăng long thường khinh khi những nghệ nhân, gọi
họ là bọn xướng ca vô loài. Nhưng từ sau khi vương mẫu gặp phụ hoàng, rồi tiến
cung, thì những người hát rong không còn bị coi rẻ nữa. Họ kết nhau lại thành
phường, lập ra những Quán văn. Trên toàn quốc, các trấn, các phủ, danh sĩ thi
nhau lập Quán văn. Một luồng gió Văn học, Văn nghệ như trăm hoa đua nở. Chủ quán
thường là nho sĩ, hoặc các thầy đồ. Họ mượn những thiếu nữ xinh đẹp, hằng ngày đọc
sách cho khách nghe. Văn nhân, danh sĩ thường đến các Quán văn nghe thiếu nữ đọc
sách. Họ còn cùng nhau xướng họa thi phú, cùng đàm đạo thế sự, nghe hát. Những
cô gái có nhan sắc đua nhau đi học hát, đến các Quán văn đọc sách, ca hát cho
khách nghe, với ước mong tìm được người có văn học làm chồng. Nhiều cô treo
bảng tuyển phu. Rất nhiều cô gái thuộc hàng dân dã, nhờ Quán văn mà một sáng,
một chiều trở thành phu nhân, hay vợ những học sinh trường Quốc tử giám. Từ đấy
Quán văn mọc lên khắp các phường, nghiễm nhiên trở thành nơi để các giai nhân
tuyển phu. Cô bé Thanh Nga này không
phải ca nhi bình thường, mà là người có lý lịch hẳn hoi, ra đây tuyển phu.
Tạ hầu hỏi lại
Nho Lâm :
– Này anh !
Anh ra điều kiện tuyển phu cho Thanh Nga là ba có, ba không. Thế ba có là có
gì ? Ba không là ba không gì ?
– Thưa quý khách!
Trước hết hãy nói ba không. Một là không
có vợ. Hai là không bệnh tật. Ba là không trốn việc xung quân giữ nước.
Hầu mỉm cười gật đầu:
– Hay! Trong đoàn
của tôi, thì tôi đã có vợ, hơn nữa nhiều vợ; lại có nhiều con, nhiều cháu. Thế
thì tôi bị loại rồi. Tiếc quá, cô đẹp thế này, để tôi nhận cô là cháu nội, rồi
dẫn lên Bắc cương gả cho một anh hùng bình Mông. Cô biết không, trong trận vừa
qua, tại Bắc cương có hơn vạn trai tráng được đức vua khen thưởng đã lập công
giết giặc đấy. Cô tha hồ mà chọn. Người xưa nói:
Trai khôn tìm vợ chợ đông,
Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân.
Lập tức Thanh Nga
biến hai câu ca dao thành điệu hát Trống quân. Tất cả khách trong Quán văn cùng
vỗ tay tán thưởng.
Hầu nhìn Vũ Uy vương,
rồi chỉ vương phi:
– Vị này vừa cưới
vợ xong. Như vậy cũng bị loại mất rồi.
Thanh Nga được vương
phi tỏ cử chỉ từ ái, nàng muốn kiếm lời đẹp để tạ lòng phi, mà chưa có dịp. Bây
giờ nhân câu nói của Tạ Quốc Ninh, nàng xen vào:
– Kể ra trai năm
thê bẩy thiếp là sự thường. Khách quan đây có thể tuyển thêm bốn thê nữa cho đủ
năm, rồi tuyển bẩy bà nữa làm thiếp cũng cứ được đi. Nhưng đại phàm khi có
chính thê rồi, mà chính thê già, xấu, thì mới tuyển thiếp. Phu nhân đây tuổi còn
quá trẻ. Nhan sắc thì e người đẹp như Tể
tướng Phương Dung thời vua Trưng cũng không hơn. Em nghĩ khách quan phải sủng
ái phu nhân đến chết. Chết rồi còn sủng ái e cũng chưa đủ.
Quan khách vỗ tay
hoan hô câu nói khéo léo của Thanh Nga.
Thanh Nga chỉ vào
thanh kiếm của phi:
– Vả phu
nhân trang phục thế này thì là đệ tử
phái Mê linh, luôn đeo kiếm trên lưng,
ắt kiếm thuật thần thông. Khi chính thất là kiếm khách thuộc đệ tử danh môn,
hỏi cô gái nào có gan bằng trời cũng không dám làm thiếp của khách quan. Ai mà
làm thiếp của khách quan này thì phải có một trăm cái đầu.
Vương phi Ý Ninh
lại tát yêu Thanh Nga như tán thưởng câu nói ý nhị, rồi hỏi Nho Lâm:
– Anh đã ra điều
kiện ba không. Vậy ba có là có gì?
– Một là phải có
huân công trong trận bình Mông vừa qua.
Vương phi Ý Ninh
tủm tỉm cười chỉ vào vương, Tạ Quốc Ninh với Dã Tượng:
– Ba vị này đều
xung tên, đụt pháo; trăm phần chết, chỉ có một phần sống trong trận giặc vừa
qua. Như vậy cả ba đều trúng cách
Phi lại
hỏi :
– Hai có là có gì?
– Hai là phải có sức khỏe. Mông cổ tuy đã
bỏ chạy, nhưng rồi chúng sẽ sang báo thù. Người trượng phu của Nga phải khỏe để
cầm Đao quất, Khiên mây đuổi giặc.
Dã Tượng thấy vui, vui chàng thắc mắc :
– Anh nói sức khỏe thì chung chung quá.
Khỏe đến bậc nào kia chứ ? Ví như vật ngã voi, đấm vỡ mười viên gạch hay múa
Đao quất chẳng hạn.
– Cậu hỏi thực phải. Khi treo bảng tuyển
phu cho Thanh Nga, tôi đã định rồi.
Anh ta chỉ cây cung Mông cổ treo trên
vách :
– Muốn được làm chồng Thanh Nga, phải dương
được cây cung kia.
Cung Mông cổ bằng thép, cánh cung to, dây cung bằng gân
bò, phải người có nội lực thâm hậu mới dương nổi. Vương phi dùng Cầm long công
phẩy tay một cái, cây cung rời vách bay lại phía Dã Tượng. Dã Tượng bắt lấy.
Cả quán cùng vỗ tay hoan hô thủ pháp của
phi. Họ không thể ngờ một thiếu phụ 20 tuổi lại có nội lực siêu phàm như vậy.
Phi chỉ Thanh Nga :
– Cháu dương cung cho Thanh Nga xem cháu
có xứng đáng cùng nàng tát biển Đông không ?
Dã Tượng đứng
theo dương cung tấn, nạp tên, kéo mạnh. Cây cung uốn cong như ánh trăng mùng ba, rồi chàng buông tên.
Mũi tên xé gió rít lên, bay sang bên kia đường trúng vào cây gạo. Bộp một tiếng
mũi tên ngập tới hơn gang.
Cử tọa vỗ tay hoan hô hết tràng này đến
tràng khác :
– Cậu này khỏe thực, lại to lớn thế kia
thì giết Mông cổ dễ như chơi.
– Ôi ! Vừa khỏe, vừa đẹp thế kia thì
xứng làm chồng Thanh Nga.
Có nhiều tiếng la hoảng:
– Ôi con ngựa điên xổ chuồng.
– Tránh ra! Tránh
ra! Chết!!!
Một
con ngựa không yên cương lao vào đám đông, tiếng người la hét inh ỏi. Dã Tượng
tung mình ra đón trước đầu ngựa. Người ta hét:
– Tránh ra! Chớ
dại! Ngựa dẵm chết bây giờ.
Con ngựa chồm hai
vó trước bổ vào đầu Dã Tượng. Người người
nhắm mắt lại, không dám nhìn chàng bị ngựa đạp chết. Dã Tượng dùng lộ thứ
nhì trong Đảo mã cửu lộ, tên Mã hung bất kham. Chàng xuống trung bình tấn, chụp
hai chân trước ngựa, rồi giữ cứng. Con ngựa hí inh ỏi, dặm chân sau, quẫy đuôi.
Nó hí thêm mấy tiếng, cũng không thoát khỏi tay Dã Tượng. Dã Tượng buông chân
nó ra. Nó hí râm ran rồi nhảy tới. Dã Tượng chụp đuôi nó ghì chặt. Nó cố sức
cào chân xuống đất, vọt đi, nhưng vô ích. Sau nửa khắc, nó đứng im thở phì phò
rồi vẫy đuôi cúi đầu tỏ ý phục tùng.
Có hai kị mã phi
từ xa tới, thấy Dã Tượng đã kiềm chế được con ngựa thì mừng lắm:
– Cảm ơn dũng sĩ.
Vương phi ra khỏi
quán, dùng lời lẽ vương giả trách cứ hai kị mã:
– Phải chăng con
ngựa hung dữ này thuộc quyền hai anh? Nó đạp ba người đàn bà bị thương, làm đổ
nồi bún ốc của cô gái. Anh tính
sao đây?
Hai kị mã thấy
một thiếu phụ nhan sắc khuynh quốc, lưng đeo kiếm, thì biết đây là người có lai
lịch. Một người cung tay:
– Xin nữ hiệp
dung thứ. Cách đây hơn tháng, chúng tôi mua con ngựa hoang này từ trấn Lạng sơn,
đóng cũi mang về. Chủ của nó nói rằng, họ gặp nó khi đi săn. Họ đặt bẫy bắt được.
Trong năm tháng liền, những kị mã giỏi nhất cũng không chinh phục được nó. Suốt
hai tháng qua, chúng tôi dùng đủ phương pháp trị mã, mà nó vẫn không thuần.
Sáng nay, nó vượt hàng rào bỏ chạy. Chúng tôi phi ngựa đuổi mà không kịp.
Một kị mã khác
nói:
– Chúng tôi xin
bồi thường cho cô hàng bún ốc, lại xin chữa trị thương tích cho người bị hại.
Một kị mã nói với
Dã Tượng:
– Thưa tráng sĩ,
những con ngựa chứng, rất khó khuất phục nó. Khi một người khuất phục được nó
thì chỉ người ấy làm chủ nó được thôi. Chúng tôi xin tặng tráng sĩ con ngựa
này.
Dã Tượng định
chối, thì Vũ Uy vương phẩy tay:
– Con cảm ơn nhị
vị cho ngựa đi.
Dã Tượng chắp
tay:
– Đa tạ!
Một kị mã lấy bộ
yên cương của ngựa mình đang cỡi nói với Dã Tượng:
– Nó đã khuất
phục tráng sĩ. Chỉ tráng sĩ mới đặt yên cương lên nó được mà thôi.
Dã Tượng lĩnh yên
cương, đặt lên con hoang mã, rồi vọt mình lên lưng nó. Nó hí lên một tiếng, hướng
theo con đường cái quan lao như bay. Hơn khắc sau Dã Tượng trở về, chàng vuốt lưng
con ngựa, rồi nói với vương phi:
– Xin thím đặt
tên cho nó.
– Cháu được ngựa
trên bến Bắc ngạn vậy thím đặt cho nó tên là
Bắc mã.
Nho Lâm suýt xoa:
– Thanh Nga treo
bảng tuyển phu đã sáu ngày, trước sau có hơn ba mươi người ứng tuyển, mà không
ai có nội lực như tráng sĩ đây.
Mọi người trở vào
trong quán văn Thiên thư. Vương phi chỉ vào vương, Tạ Quốc Ninh:
– Hai vị này là sư
bá, sư phụ của tráng sĩ, dĩ nhiên công lực mạnh hơn y nữa. Coi như cả ba người đều
trúng cách. Thế còn có thứ ba?
Nho Lâm chỉ lên
bàn thờ. Cạnh lư hương, có bức tranh thêu Hai bà Trưng cỡi voi đang đuổi Tô Định,
dưới bức tranh có cuốn sách, gáy mạ vàng óng ánh, bìa viết chữ triện rất đẹp
Lĩnh Nam mật sử, và một cái hộp. Nho Lâm cầm cuốn sách :
– Có thứ ba là
phải thông hiểu quốc sử. Đây là bộ sử chép về cuộc khởi binh của vua Trưng và
162 anh hùng. Trong hộp này
có 162 lá xâm. Ứng sinh rút xâm, mỗi xâm
sẽ có câu nói về hành trạng một anh
hùng. Sau khi rút xâm ứng sinh phải trả lời câu hỏi trong xâm
ấy. Lệ ở đây, mỗi người xin xâm phải nộp năm đồng. Tiền này dùng để tu bổ đền
thờ Ngài.
Vương phi Ý Ninh
thấy cuộc tuyển phu thực ý nghĩa, thực rõ ràng. Phi mỉm cười:
– Hay! Hồi còn
theo học ở Thần quang tự, chị em chúng tôi thường dùng bộ sách này để xin xâm,
linh ứng kỳ lạ. Để tôi xin một quẻ.
Phi cầm 5 đồng
tiền bỏ vào chiếc hộp gỗ có khóa. Hai tay phi cầm bộ sử đưa lên ngang mày,
khấn:
– Tấu lạy vua Bà!
Tấu lạy chư vị anh
hùng Lĩnh Nam. Con là
Trần Ý Ninh. Nay con đang mang trên người trọng trách, không biết thành bại thế
nào. Xin các ngài ban cho con một quẻ.
Phi bốc một xâm
trong hộp, rồi mở ra, trong có bốn câu thơ:
Sinh vi lương tướng, tử vi thần,
Vạn cổ cương thường hệ thử nhân.
Loa địa song đôi, thu nguyệt ảnh,
Anh hùng liệt nữ tướng quân phần.
Thanh Nga cầm phách
gõ, các nhạc công cùng tấu nhạc, nàng ngâm bốn câu thơ xong, chuyển sang hát
chầu văn bằng tiếng Việt:
Sống là tướng giỏi, thác làm thần,
Vạn đại cương thường nặng tấm thân.
Hai bóng thành Loa trăng thu sáng.
Anh hùng liệt nữ mộ nghìn năm.
Nho Lâm hỏi:
– Quý khách có
biết xuất xứ hai câu thơ trên không?
Ý Ninh mỉm cười:
– Nếu tôi trả lời
đúng, thì tôi có được Thanh Nga không? Thanh Nga xinh thế kia, tôi là gái không
làm chồng nàng được thì tôi tuyển làm con, rồi tìm anh hùng mà gả.
Một bà già cười :
– Coi tướng mạo,
hành trạng của phu nhân thì phu nhân thuộc người có lai lịch. Nhưng tuổi của
phu nhân e chưa quá hai mươi, sao phu nhân có thể là mẹ Thanh Nga đã 18 tuổi.
Không lẽ 2 tuổi phu nhân đã sinh con ?
Cả quán vỗ tay cổ
võ cho lời của bà già.
– Vậy thì tôi
nhận làm em gái cũng chả sao !
Nhưng Thanh Nga
lễ phép chắp tay hướng bà già :
– Thưa bà xưa nay
chữ cha-mẹ có nhiều ý nghĩa. Người sinh ra ta là cha mẹ về thể xác. Người không
sinh ra ta, nhưng có công dưỡng dục thì là cha mẹ chín chữ cù lao. Người cứu
thoát ta trong hoạn nạn chín chết một
sống là cha mẹ tái tạo. Người đem tâm não ra, truyền hiểu biết cho ta là
cha mẹ trí tuệ, còn gọi là thầy. Theo Tam cương thầy đứng thứ nhì sau đức vua.
Phi mỉm cười,
giảng :
– Bốn câu thơ này
chép trong truyện của Bắc bình vương
Đào Kỳ, ngài lĩnh ấn Đại tư mã và vương phi Nguyễn Phương Dung,
lĩnh chức tể tướng triều Lĩnh Nam. Hiện
đền thờ hai vị vẫn còn tại Cổ loa.
Mặt Nho Lâm không
vui :
– Cứ như quẻ này
thì phu nhân và trượng phu đang trên đường mưu đại sự cho nước. Công sẽ thành,
danh sẽ toại. Nhưng cuối cùng sự nghiệp không trọn vẹn.
Vương hỏi :
– Không trọn vẹn,
có nghĩa là mưu sự không thành ?
– Ý tôi không nói
vậy. Ý tôi muốn nói rằng quý khách và phu nhân sẽ thành công. Nhưng cuối cùng
cả hai sẽ tuẫn quốc như Bắc bình vương và vương phi. Hai vị sống làm tướng
giỏi, chết thành thần. Anh linh vạn vạn năm sau dân chúng còn thờ kính, tưởng
nhớ huân công.
Vũ Uy vương là
một đại anh hùng thời Đông A, nghe Nho Lâm đoán quẻ xâm như vậy hùng khí bốc
dậy, vương nhìn vương phi :
– Trước trận giặc
vừa qua, Huệ Túc phu nhân từng tính số Tử vi rằng Phạm Cụ Trích, Trần Tử Đức sẽ vị quốc vong thân. Hai người từng hãnh
diện mà ra trận. Nay hai người đã thành thần.
Làm trai Đại Việt, chỉ sợ không có tài, không có dịp xả thân cứu nước mà thôi.
Sau này chúng ta có vị quốc vong thân thì là điều cầu mà không được.
Nho Lâm hướng Tạ
Quốc Ninh :
– Xin mời tiên
sinh xin một quẻ.
Hầu sửa y phục
ngay ngắn, bỏ tiền vào hộp, rồi cầm bộ sách lên khấn :
– Tấu lạy Hoàng đế
bệ hạ. Kính chư vị anh
hùng Lĩnh Nam. Thần
là Tạ Quốc Ninh, thần đang tuân chỉ đấng quân phụ, vạn dặm mưu truyện xẻ núi
lấp sông. Sự thành bại thế nào, xin cho thần một quẻ.
Ông rút ra một
xâm. Ông không muốn đọc, ông trao cho Thanh Nga. Thanh Nga cầm phách đánh nhịp,
nàng cất tiếng hát, lập tức năm nhạc công cùng hòa theo:
Nhất thi khảng khái anh hùng lệ,
Bách chiến sơn hà, cố quốc tâm.
Hết hai câu thơ
Hán, nàng ca sang tiếng Việt:
Anh hùng khẳng khái đôi giòng lệ,
Bách chiến một lòng với nước non.
Tạ Quốc Ninh
khen:
– Cô hát đã hay,
lại học giỏi. Cô dịch sát ý, giọng hát còn tiết ra được tình ý sâu sa của tác
giả.
Nho Lâm hỏi:
– Quý khách có
biết xuất xứ hai câu thơ trên không?
Tạ Quốc Ninh gật đầu :
– Hai câu thơ này
xuất xứ trong truyện Hổ Nha đại tướng quân. Tên thực của ngài là Đào Hiển Hiệu.
Khi ngài vừa cưới vợ được ba ngày thì phải lên đường tòng chinh Trung nguyên.
Phu nhân của ngài là Lê Hồng
Thanh đã làm hai câu thơ trên trong lúc ngậm ngùi chia tay. Ngài Đào Hiển Hiệu
có ba anh em đều là đại công thần thời Lĩnh Nam. Ngài
là anh cả lĩnh chức Hổ nha đại tướng quân tước phong Khúc dương công. Em kế là Đào
Quý Minh, lĩnh chức Vân uy đại tướng quân, tước phong Ký hợp công. Thứ ba là Đào
Phương Dung, tước phong Đăng châu công chúa lĩnh ấn Trấn Nam đại tướng
quân. Đển thờ ba ngài tại Thăng long, thôn Thổ quan, ngõ Oáng lệnh (Nay 2001
vẫn còn). Nữ tướng Đào Phương Dung nổi tiếng hét ra lửa, mửa ra khói thời Lĩnh Nam. Sau
khi tuẫn quốc bà hiển linh kỳ lạ. Trong giới đồng bóng, người ta gọi ngài là cô Sáu. Khi cô Sáu bắt một
cô gái làm lính, thì không cách gì khất được.
Thanh Nga, cầm
dùi gõ phách. Các nhạc công tấu nhạc, nàng hát chầu văn bài Cô Sáu.
Nho Lâm giải:
– Cứ như quẻ này
thì quý khách cùng phu nhân vừa làm lễ vừa thành hôn xong, thì do quốc sự phải
phân ly. Hiện nay quý khách đang giữ trọng trách đức vua trao cho. Chiến thắng đang
chờ đón quý khách. Quý khách chỉ gặp lại phu nhân trong lúc tử biệt sinh ly như
ngài Đào Hiển Hiệu và phu nhân Đinh
Hồng Thanh. Ngày về trong vinh quang không xa.
Nghe Nho Lâm
giải, Tạ Quốc Ninh đau nhói trong tim. Hình ảnh Hoàng Hoa tươi như hoa, trong
nụ cười lại hiện ra. Ông nghĩ thầm :
– Nếu mình được
ôm nàng một lần trong tay như ngài Đào Hiển Hiệu ôm phu nhân Đinh Hồng Thanh, rồi
cách biệt âm dương cũng thỏa lòng.
Vũ Uy vương bảo
Dã Tượng:
– Con cũng xin
một quẻ, dù không được Thanh Nga, ít ra cũng biết tương lai ra sao?
Dã Tượng móc
trong túi ra một xâu tiền, chàng bỏ cả vào thùng, rồi cầm bộ sử đưa ngang mày
khấn:
– Tấu lậy vua Bà,
tấu lậy chư vị anh
hùng Lĩnh Nam, con là
Trần Quốc Kinh, con theo chú con lĩnh trọng trách trong người. Đất nước đang bị
Mông cổ đe dọa, con chưa muốn vướng vít thê nhi. Con không muốn làm chồng Thanh
Nga, bởi chinh chiến ít ai trở về. Nếu cưới nàng làm vợ, e nàng phải ở góa thì uổng
phí tấm hồng nhan. Xin các ngài ban cho con một quẻ, dạy cho biết sự nghiệp sau
này ra sao, chuyến đi này thế nào?
Chàng thò tay vào
hộp bốc một thăm, mở ra, trong thăm có hai câu thơ, Dã Tượng đọc được, nhưng
không hiểu hết ý nghĩa, chàng đưa cho Thanh Nga. Thanh Nga đọc :
Đức bác thánh văn truyền Việt địa,
Uy dương thần vũ trấn Nam thiên.
Thanh Nga gõ
phách, các nhạc công cùng tấu lên. Thanh Nga ca hai câu thơ Hán rồi bắt sang ca
hai câu bằng tiếng Việt:
Trời Nam đức trải khắp nơi,
Oai danh vạn đại cùng người Việt
linh.
Dã Tượng là đấng
anh hùng thời Đông A, chàng không hề xấu hổ việc mình ít học. Chàng chắp tay
vái Thanh Nga:
– Quốc Kinh này
mồ côi cha mẹ từ thủa nhỏ, không được học. Lớn lên đi chăn trâu, cắt cỏ. Gần đây
được một vị danh vọng cực lớn nhận làm con nuôi. Vì phải theo cha nuôi đuổi
giặc, nên không thuộc quốc sử. Tôi không biết hai câu thơ này ai làm, làm trong
trường hợp nào. Tôi xin chịu thua.
Vương phi Ý Ninh
chỉ vào Tạ Quốc Ninh an ủi Dã Tượng:
– Con không nên nói
lời bi phẫn như thế! Anh hùng đâu quản xuất thân. Trước con chưa được học quốc
sử thì nay con đang học mà. Con đã có thầy rồi. Thầy sẽ dạy con. Chú thím sẽ dạy
con. Huống hồ con đã lập đại công với Xã tắc. Con cưới công chúa cũng xứng, chứ
đừng nói là Thanh Nga.
Dã Tượng chắp tay
hướng vương phi:
– Đa tạ thím đã
cho con lời vàng ngọc.
Vương phi giảng:
– Hai câu thơ này
nói về công nghiệp của đức thánh Văn thành, Võ đức Long biên công. Tục
danh của ngài là Nguyễn Tam Trinh. Ngài là một trong Tam công triều Lĩnh Nam. Ngài
cũng là sáng tổ môn vật. Khi ngài được lệnh trấn thủ khu chiến Trường sa, hồ Động
đình; Mã Viện đem đại quân tràn ngập, ngài tử chiến. Hai câu thơ trên là hai
câu đối tại đền thờ ngài ở thôn Mai động, phủ Thọ xương, ngoài thành Thăng
long.(Nay 2001 vẫn còn)
– Đa tạ thím dã
giảng cho con. Hồi còn chăn trâu, cắt cỏ bọn con thường đến lễ ở ngôi đền nay.
Nhưng con không biết đền thờ vị thánh nào.
Nho Lâm cầm bộ sử, nhìn Dã Tượng:
– Cứ như quẻ xâm
này, thì sự nghiệp của tráng sĩ sẽ thực vĩ
đại: dùng thần võ trấn Nam
thiên, trăm họ đất Việt được nhờ huân công của tráng sĩ. Người người cúi đầu
bái phục, mà trăm năm sau, nghìn năm sau được thờ kính. Tôi nghĩ, tráng sĩ nên tòng
quân giữ nước ngay từ bây giờ thì vừa.
Sứ đoàn nhìn nhau
như cùng nhủ thầm: Nho Lâm giải quẻ xâm này thực hay.
Đến đó một Kị mã
bước vào khoanh tay hành lễ với Dã Tượng:
– Trình Đô thống,
tất cả xe, ngựa đều đã sang sông. Xin Đô thống cho lệnh.
– Được rồi, chúng
ta sẽ độ giang ngay.
Từ Nho Lâm, Thanh
Ngoan đến mọi người trong quán đều kinh ngạc: thì ra tráng sĩ này đã ở trong
quân ngũ, hàm tới Đô thống. Chợt nhớ ra điều gì, Nho Lâm hỏi vương phi Ý Ninh:
– Thưa phu nhân,
tiểu nhân nghe nói trong trận giặc vừa qua có hai mươi Ngưu tướng, mười tám
Ngạc tướng. Tất cả đều là thiếu niên, làm cho Lôi kị Mông cổ kinh hồn táng đởm.
Sau khi giặc tan, Nguyên Phong hoàng đế phong cho tất cả các Ngưu tướng, Ngạc tướng
lĩnh chức Vệ úy, hàm Tá lĩnh. Riêng tướng có công nhất trong Ngưu tướng được đức
vua ban cho mỹ danh Dã Tượng. Tướng có công nhất trong Ngạc tướng dược ban mỹ
danh Yết Kiêu. Cả hai được phong hàm Đô thống, lại được Hưng Đạo vương nhận làm
con nuôi. Ngài cho Dã Tuợng tên Trần Quốc Kinh, Yết Kiêu tên Trần Quốc Vĩ. Vị Đô
thống có thể lực vĩ đại này hẳn là Dã Tượng đây?
– Đúng như anh
nói.
Vương phi đáp.
Tất cả mọi người
trong quán đều đứng dậy chắp tay hướng Dã Tượng:
– Chúng tôi quả
có phúc, hôm nay được bái kiến anh hùng
Đại Việt. Thảo nào từ lúc các vị vào đây, chúng tôi
thấy dung quang khác thường, cử chỉ hùng tráng mà thanh nhã.
Dã Tượng đáp lễ:
– Không dám. Khi
nước có giặc thì già, trẻ, trai, gái đều phải lăn mình vào chốn gươm đao, tên đạn;
hy sinh mạng sống bảo vệ dất tổ.
Nho Lâm nói với
Dã Tượng:
– Thưa tráng sĩ,
kính Đô thống, bái người là anh hùng thời Đông A! Huân công của Đô thống trong bẩy
trận vừa qua, quả thực vỹ đại, khắp đất nước này ai cũng khâm phục. Hôm nay anh
hùng qua đây, dự cuộc tuyển phu của Thanh Nga. Chúng tôi vô cùng hãnh diện thưa
rằng chỉ cần chiến công một trận Bình lệ nguyên, anh hùng cũng xứng đáng làm
chồng Thanh Nga rồi.
Tuy là ca nhi
lừng danh, từng tiếp xúc với hằng mấy chục người trẻ xin ứng tuyển, nhưng những
lời nói của Nho Lâm, cũng làm cho Thanh Nga cúi đầu e thẹn, liếc mắt nhìn Dã Tượng,
lòng xao xuyến.
Dã Tượng hiên
ngang chỉ vương, vương phi nói với Thanh Nga:
– Nếu Dã Tượng
tôi tìm vợ, thì e trên thế gian này không ai hơn Thanh Nga. Đúng lý, tôi phải
nhất bộ, nhất bái tới nhà Thanh Nga cầu xin. Nhưng Thanh Nga ơi, đất nước mình
vừa sạch bóng quân thù. Thế nhưng giặc vẫn đang ngấp nghé tại biên cương. Dã Tượng
này đang theo chú thím vì dân làm truyện vá trời, ngắn thì ít ra vài năm, dài
có khi hàng chục năm. Biết đâu cả đời. Nên nào dám nghĩ truyện thê nhi. Vì vậy
xin đa tạ chùm hoa đào Thanh Nga tặng cho tôi.
Nho Lâm chắp tay:
– Thưa Đô thống,
chỉ mong Đô thống đính ước một lời với Thanh Nga cũng đủ. Thanh Nga mới 18 tuổi
mà. Thanh Nga sẽ đợi Đô thống, cho đến khi Đô thống đeo gươm chiến thắng trở về.
– Một lời hứa như
đinh đóng cột. Vì vậy tôi không dám hứa. Thanh Nga xinh đẹp thế này, lỡ ra tôi đi
rồi vị quốc vong thân thì tội cho nàng quá.
Thanh Nga ngửa
mặt nhìn lên bầu trời xuân, từng cụm mây trắng đang trôi lang thang. Nàng cất
tiếng hát:
Con cò bay lả bay la,
Bay ra ruộng lúa, bay vào Đồng đăng.
Đồng đăng có phố Kỳ lừa,
Có nàng Tô thị, có chùa Tam thanh.
Ai lên phố Lạng cùng anh,
Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em.
Tay cầm bầu rượu nắm nem,
Mải vui quên hết lời em dăn dò,
Gánh vàng đi đổ sông Ngô,
Đêm đêm tơ tưởng đi mò sông Thương.
Bài hát hết mà
Thanh Nga như người lên đồng, nàng nhập vào lời ca, nét hoa hiện rõ vẻ buồn man
mác. Dã Tượng cũng cảm thấy cái buồn theo nắng xuân nhập vào người. Chàng hỏi Vũ
Uy vương phi:
– Thưa thím bài
hát này con được nghe Xẩm hát trong những đêm đập lúa vụ mùa vừa qua. Nhưng con
không hiểu hết ý nghĩa.
Vương phi đưa mắt
nhìn Tạ Quốc Ninh, hầu giảng:
– Đây là bài hát
bình dân, xuất hiện vào thời Anh vũ chiêu thắng (1075-1077) đời vua Lý Nhân
Tông, thuật lại mối diễm tình của một chinh phụ họ Tô tại trấn Lạng sơn. Bấy
giờ vua còn nhỏ, mới chín tuổi, Linh Nhân hoàng thái hậu ( Ỷ Lan) cầm quyền.
Bên Trung nguyên vua Tống Thần Tông dùng Tân pháp của Tể tướng Vương An Thạch, làm cho nước
giầu, dân
Hình chụp tượng Tô thị tại Lạng sơn
mạnh. Nhà vua
cùng Thạch chuẩn bị đánh ta, nào luyện quân, nào tích trữ lương thảo. Linh Nhân
hoàng thái hậu thấy vậy, ngài quyết định: ngồi chờ giặc sao bằng tìm giặc mà đánh.
Ngài sai Thái úy Lý Thường Kiệt cùng Long thành ẩn sĩ Tôn Đản mang quân vượt
biên đánh vào các châu Ung, Liêm, Dung, Nghi, Bạch, phá thành trì, cầu cống, đốt
hết các kho tàng Nam biên của Tống. Trong 12 đạo binh đánh Tống, đạo Ngự long
do Long nhương thượng tướng quân Phạm Dật cùng phu nhân Lê Kim Liên chỉ huy. Đạo này
có một tướng trẻ hai mươi tuổi, vợ họ Tô. Hai người mới có một con trai đầu
lòng chín tháng. Khi tướng trẻ lên đường thì vợ hỏi bao giờ sẽ về? Chồng an ủi
vợ rằng sớm thì nửa năm, muộn thì ba năm. Thế rồi đôi lứa thiếu niên bịn rịn
rời nhau. Nào ngờ trong trận Hỏa giáp, đánh chặn viện binh Tống, tướng trẻ tuẫn
quốc. Trong khi người chinh phụ Tô thị ngày ngày bế con lên núi nhìn về phương
Bắc chờ chồng. Thế rồi chiến tranh hết, chờ đợi đã ba năm, nhưng vẫn không thấy
chồng đâu. Nàng đau khổ, cùng đứa con hóa đá. Dân gian làm bài ca trên để thương
tiếc nàng.
Ghi chú,
Xin đọc Nam quốc sơn hà, cùng tác giả.
Dã Tượng reo lên:
– Hồi năm trước
con chỉ huy Ngưu binh đuổi giặc ở trấn Lạng sơn, con đã thấy tượng này.
Chàng nói với
Thanh Nga:
– Chuyện xưa còn đó,
tượng đá chưa mòn. Bài hát bình dân mà Thanh Nga biến thành hát Xẩm thực là
thảm thiết. Tôi có thể sẽ là viên tướng trẻ một đi không về. Tôi quyết không để
Thanh Nga hóa thành nàng Tô thị thứ nhì.
Nghe Dã Tượng nói
lòng Thanh Nga như giá băng. Nàng chưa biết nói sao thì Nho Lâm kéo mọi người
ra khỏi mối vạn cổ sầu Tô thị, y chỉ Vũ Uy vương hỏi Dã Tượng:
– Thế còn hai vị đây
là?
Dã Tượng đáp:
– Đây là Vũ Uy vương,
trấn nhậm Bắc cương và vương phi. Vương phi nhũ danh Ý Ninh, từng đánh trận Phù
lỗ vang danh thiên hạ.
Mọi người hướng vương,
vương phi bái lậy.
Dã Tượng chỉ Tạ
Quốc Ninh:
– Vị này là Vũ sơn
hầu Tạ Quốc Ninh, minh sư của tôi.
Nho Lâm bái Quốc
Ninh:
– Tôi từng nghe
danh Quy đứùc thượng tướng quân Tạ Quốc Ninh, được phong Vũ sơn hầu, lĩnh hàm
Thái tử thiếu bảo, Hiệp biện đại học sĩ, Đồng tri Khu mật viện là một danh sĩ Thăng
long. Năm trước đây đệ nhất hoa khôi, đệ nhất danh kỹ Thăng long tên Hoàng Hoa
treo bảng tuyển phu, người trúng cách. Hôm nay thực vinh hạnh cho chúng ta được
gặp người tài hoa.
Tất cả mọi người
hiện diện đều hướng hầu hành lễ. Thanh Nga vốn cực kỳ thông minh, nàng nghĩ:
– Một đời được mấy
anh hùng? Hôm nay mình may mắn gặp đấng anh hùng này, mà để chàng đi mất thì
chẳng hóa ra một tuồng hư ảo ư? Mình phải làm cách nào theo sứ đoàn để được gần
chàng! Ở đây vương phi là ngươi ôn nhu, văn nhã, mình có thể xin vương phi để được
đi theo.
Nàng chắp tay vái
vương phi Ý Ninh:
– Hồi nãy phi hứa
nhận em làm em nuôi. Vậy phi
nói đùa hay thực?
Phi nắm lấy tay
Thanh Nga:
– Chị sinh ra là tiểu thư Ý Ninh, chị là đệ tử
của Vô Huyền Bồ Tát; là Hồng Đức, Trang
Duệ, Vũ Thắng công chúa, là vương phi Vũ Uy. Chị không
nói đùa. Hôm nay chị nhận em làm em. Chị sẽ nuôi, dạy em trở thành anh hùng Đại Việt. Nhà em ở
đâu, để chị đến có vài lời với cha mẹ em, rồi chị đem em theo.
Thanh Nga hướng vương,
vương phi lạy bốn lạy:
– Nghĩa huynh!
Nghĩa tỷ.
Vương phi sửa:
– Để chị dạy cho.
Phàm cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi đều là cha mẹ. Con đẻ, con nuôi đều là con, không
thể và không nên phân biệt con đẻ hay con nuôi. Em nhắc lại: anh, chị !
Má Thanh Nga ửng
hồng, nở nụ cười:
– Dạ! Anh, chị.
Vương phi tháo
chuỗi ngọc trai trên cổ, đeo vào cho Thanh Nga:
– Chị cho em
chuỗi ngọc này, gọi là quà diện kiến.
Dã Tượng móc
trong bọc ra một con chim ưng bằng vàng dát năm viên ngọc đỏ chói, đeo lên tóc
nàng:
– Thanh Nga là em
của chú thím thì là cô của tôi. Ấy à! Cô vượt lên trên tôi một bậc rồi.
Vương can thiệp:
– Dã Tượng là
cháu của chú thực. Còn Thanh Nga là em của thím. Hai bên đều không có tý huyết
tộc nào, vậy cả hai cứ theo tuổi mà xưng hô. Năm nay cả hai cùng 18 tuổi. Dã Tượng
sinh tháng giêng, Thanh Nga sinh tháng chạp. Vậy Thanh Nga gọi Dã Tượng là anh.
Dã Tượng vui vẻ:
– À! Có cô em
xinh đẹp đàn ngọt, hát hay thì là điều ai cũng ước mơ. Anh cũng tặng em món quà
này. Đây là chiến lợi phẩm anh thu được trong trận Đông bộ đầu đấy.
Hai người đứng
cách nhau không xa, hơi thở ấm áp của Dã Tượng, mùi khét khét mồ hôi của đàn ông làm Thanh Nga như người
say rượu.
Tạ Quốc Ninh
nhắc:
– Dã Tượng! Con
phải nói rõ, con có báu vật này trong trường hợp nào cho Thanh Nga nghe.
– Dạ, con quên.
Theo quân luật, phàm tất cả những gì thu được trên chiến trường như lừa, ngựa,
vũ khí, vàng bạc, phải xung vào công khố. Trong trận Đông bộ đầu, một bách phu trưởng
Mông cổ bị bắt làm tù binh. Đói qúa, y đưa con chim ưng này ra xin đổi lấy con
vịt nướng của anh với cặp bánh chưng. Sau trận đánh anh nộp cho Hưng Ninh vương.
Vương phán: đây không phải chiến lợi phẩm, mà là việc buôn bán giữa anh với viên
bách phu trưởng. Vương ban cho anh được giữ làm của riêng.
Nhà Thanh Nga nằm
trong khu Bắc ngạn, vương phi nhờ Nho Lâm mời bố mẹ nàng tới. Vũ Uy vương cùng
vương phi gặp riêng bố mẹ nàng, nói rõ thiện ý của mình. Ông bà nghe tin con gái
được một vị tước vương nhận làm em nuôi thì mừng chi siết kể. Ông bà vái dài tạ
vương.
Qua câu truyện
mẫu thân từ con hát, trở thành Tuyên phi, qua vụ Thanh Nga tuyển phu, Vũ Uy vương
chợt nảy ra sáng kiến:
– Tại sao mình
không mang theo những ca nhi xinh đẹp, có thể cần dùng tới.
Vương hỏi Thanh
Nga:
– Em biết xử dụng
những nhạc khí nào?
– Dạ, em được bố
mẹ gửi tới phường Đông hoa học hát, học nhạc. Em được học bẩy nhạc khí căn bản:
kéo nhị, thổi sáo, bật trống cơm, đánh trống mảnh, gõ phách, đánh đàn tranh, đàn
bầu.
Vương phi Ý Ninh
vốn cực kỳ thông minh, nghe chồng hỏi Thanh Nga, phi biết ý chồng:
– Em à! Trong
chuyến đi này chúng ta cần một toán ca hát theo để dùng vào quốc sự. Trong đám
bạn học của em, có người nào tài ngang với em mà còn là khuê nữ không?
– Dạ có. Bọn em
gồm năm đứa tài sắc, tuổi ngang nhau. Cả năm đều còn con gái. Nhà chúng nó đều
ở gần đây. Thúy Hồng gốc Kinh Bắc, Thúy Nga
gốc Thiên trường, Thúy Trang ở Thụy khuê, Hồng Nga gốc Nghi tàm.
Vương lại nhờ Nho
Lâm mời cha mẹ cùng bốn ca nhi tới. Cả cha mẹ, lẫn bốn cô nghe Vũ Uy vương
ngỏ ý mang theo sứ đoàn vì nước lập công thì mừng chi siết kể. Tuy vậy vương
cũng ban cho mỗi cô mười lượng vàng, coi như bổng của triều đình, để các cô
dâng bố mẹ tạ ơn sinh thành. Vương hỏi tuổi năm cô gái rồi nói với vương phi:
– Em ơi, trong năm
đóa hoa này, chúng học cùng trường, cùng thầy,
là chị em đồng môn. Nay đi theo mình thì tình chẳng khác như ruột thịt.
Vậy ta hãy theo tuổi, định thứ bậc cho chúng. Lớn nhất là Hồng Nga, thứ đến
Thúy Hồng , thứ ba là Thúy Nga, Thanh Nga thứ tư, nhỏ nhất là Thúy Trang.
Vương bảo năm
nàng:
– Từ nay các em
phải coi nhau như chị em, cùng chúng ta làm việc nước. Theo thứ tự thành chị em
cùng nhà. Trong khi các em theo ta, thì cha mẹ ở nhà được lĩnh bổng như một Vệ
úy, được cấp phát công điền. Hy vọng các em lập đại công, ta sẽ tâu xin phụ
hoàng phong cho các em mỹ hiệu. Nay ta tạm gọi các em là Long thành
ngũ phụng.
Vương phi vui vẻ:
– Ta đặt cho năm
em một cái tên văn vẻ: Ban nhạc đào hoa Đông bộ đầu.
Dã Tượng lắc đầu:
– Thưa thím cái
tên này dài quá, con xin thu ngắn lại cho dễ gọi.
Thúy Nga tính ưa
vui, ưa đùa, nàng hỏi:
– Anh định đè vai
bọn em cho lùn lại đấy à? Anh thu ngắn như thế nào?
– Cái cô này đẹp
thì thực đẹp. Hát thì thực hay, nhưng miệng thì dẻo như kẹo kéo. Các cô xinh đẹp
thế kia, thì dù bọn ác quỷ Mông cổ cũng không nỡ làm các cô đau, huống hồ anh
là đồ tử đồ tôn của vua Đinh
Tiên Hoàng. Anh muốn thu ngắn 7 chữ của thím còn ba chữ: Ban Đông hoa!
Quốc Ninh tán thưởng:
– Hay! Thu ngắn
như vậy mới dễ gọi.
Sứ đoàn vừa sang
sông, thì một kỵ mã trang phục như một võ quan Mông cổ từ phía trước phi đến như
bay. Khi tới trước ngựa Vũ Uy vương thì y ngừng lại. Viên kỵ mã nhảy xuống ngựa
dơ tay vẫy vương. Vương nhìn kỹ thì ra Tây viễn vương lĩnh Phiêu kỵ Đại tướng
quân Trần Tử An. Vương vội xuống ngựa hành lễ:
– Cháu xin ra mắt
ông trẻ.
Tử An gọi vương
phi, Tạ Quốc Ninh, Dã Tượng lại gần rồi nói nhỏ:
– Ta có một điều
cơ mật muốn nói với các cháu. Đúng ta thì ta phải nói từ khi các cháu chuẩn bị
lên đường. Nhưng ta sợ nói sớm có thể bị lộ. Hồi theo quân của Hốt Tất Liệt đánh
Tống ta có để lại người vợ và đứa con trai tại Hoa lâm. Ta đặt cho nó cái tên
Mông cổ là Ngột A Đa hay còn tên khác là Thoát Nhân. Vợ chồng ta dạy A Đa nói
tiếng Việt cũng như văn hóa Việt rất giỏi. Nó được Đại hãn Mông cổ là Mông Ca
tin dùng. Gần đây ta nghe tin rằng nó mới được trao cho chức vụ Tham tri chính
sự. Vậy khi sang Mông cổ, các cháu bí mật liên lạc với nó, nó sẽ âm thầm giúp Đại
Việt mình.
– Không biết chú
Ngột A Đa có biết võ không?
Vũ Uy vương hỏi:
chú ấy có biết văn tự Trung quốc không?
– Võ công của nó
do ta truyền thụ. Bản lĩnh của nó không thua gì ta. Công lực của nó có phần hơn
ta vì nó còn trẻ. Về văn học Trung quốc, nó rất uyên thâm. Trước khi ra đi, ta đã
cùng nó ước hẹn khi sai người liên lạc, sẽ làm như thế...như thế để nhận nhau.
Vậy các cháu nên cẩn thận để tránh gà nhà đá gà nhà.
Tây viễn vương
rút trong bọc ra con dao nhỏ dài hơn gang tay, ông trao cho Vũ Uy vương:
– Hồi đánh Tây
vực, Thành Cát Tư Hãn được dâng hai con dao bằng thép, do người Tây phương đúc,
sắc bén vô cùng. Tư
Hãn ban cho ta. Ta
trao cho Ngột A Đa một con, còn một con ta cho cháu. Khi gặp Ngột A Đa, nếu nó
còn nghi ngờ thì cháu cứ đưa con dao này ra là nó tin ngay. Thôi các cháu lên đường.
Chúc các cháu thành công.
Ông đưa mắt nhìn Long thành ngũ phụng,
rồi ngửa mặt lên trời cười, nheo mắt với Ý Ninh. Vương phi Ý Ninh nghĩ thầm:
– Không xong rồi, vị thái thúc (ông trẻ)
này kinh lịch khắp Mông cổ, Tây vực, Trung nguyên, kiến thức ông không tầm thường.
Không chừng ông đoán được ý vợ chồng mình cũng nên.
Vương phi cũng tủm tỉm cười:
– Ông trẻ biết chủ ý của chúng cháu rồi ư?
– Dĩ nhiên.
Ông nói trầm giọng :
– Một người con gái
ngồi, đứng, thì dù có nhan sắc cũng khó mà cột chân anh hùng. Nếu
như cô gái đó đi lại, thướt tha, hoặc múa hát, thì anh hùng sẽ ngã ngựa ngay.
– Ông trẻ hiểu rõ cháu đến cùng kỳ cực
rồi vậy.
–Trên đời này, cái gì lạ cũng quý. Con người
cũng vậy. Con gái Mông cổ thân thể cục mịch, đi đứng cứng ngắt, nói năng ồn ào,
mắt ty hí; không thể so với con gái Việt, dáng đi nhẹ nhàng, mềm mại, nói năng
khoan thai, thanh thoát, mắt không lá liễu thì cũng giống mắt bồ câu. Năm con
bé này, thuộc loại sắc nước hương trời, thì bọn Mông cổ sao thoát khỏi bị chúng
nó giam vào trong những đôi mắt đẹp. Con gái Mông cổ thích mặc áo da, hay vải
thô, trông cứng như gỗ. Nay cho năm con bé này mặc quần áo Việt bằng lụa, bằng
nhiễu, gió bay phất phới thì anh hùng đến mấy cũng phải gác kiếm, cung tay.
– Đa tạ ông trẻ. Rồi sao nữa?
– Tuy nhiên Ý Ninh phải giảng giải hằng
ngày về nhiệm vụ cao cả của chúng. Bằng không, chúng chỉ là những đứa con gái
thiếu kinh nghiệm trong tình trường, thì nguy tai!
Ông gọi năm nàng ban Đông hoa lại:
– Ông cho các cháu mấy bảo bối trước khi
lên đường.
Năm nàng khoanh tay:
– Chúng cháu xin ghi vào lòng.
– Bảo bối thứ nhất:
“ Trên đời này có
nhiều loại hạnh phúc. Hạnh phúc nhất cho những ai được hy sinh thân mình cho Xã
tắc. Đất nước này là đất nước của vua Hùng, vua An Dương, vua Trưng để lại, nếu
cần bảo vệ thì dù hy sinh thân mình, gia đình mình là điều hãnh diện nhất”.
– Dạ, bọn con nhớ rồi.
– Bảo bối thứ nhì:
“Anh hùng nan quá
mỹ nhân quan” nghĩa là anh hùng hô một tiếng trăm nghìn người chết, thành đổ,
núi nghiêng, nhưng trước người đẹp chỉ là con nai ngơ ngác.
– Dạ, bọn con hiểu.
– Bảo bối thứ ba:
‘Sự nghiệp vạn dặm
không chứa đầy đôi mắt giai nhân”.
– Dạ! Chúng con hiểu.
– Là gái Việt, tức là con cháu vua Trưng.
Không bao giờ khuất phục bọn đàn ông, để
họ sai như mèo, như chó.
– Dạ chúng con hiểu.
Thình lình vương quát lớn rồi vọt mình
lên lưng ngựa, phút chốc đã khuất vào cánh đồng xanh.
––––––––––––––––––––––––––––
Hồi này thuật đại cương
về tình hình Văn nghệ thời Đông a, và sự phát triển của hát Xẩm.
Thời Đông a là thời
kỳ xuất phát một số công trình Văn hóa lớn.
1.
Một là chữ Nôm. Chữ Nôm chắc có từ trước. Nhưng
người có công xếp đặt thành hệ thống, có căn bản là ông Nguyễn Thuyên. Ngay lập
tức các danh sĩ, văn nhân thi nhau học, sáng tác thơ, văn. Nay còn lưu truyền.
2.
Hai là điệu múa Bài bông, tác giả là ba vị vương từng là đại
tướng chiến thắng Mông cổ : Chiêu
Minh vương Trần
Quang Khải, Chiêu Văn vương
Trần Nhật Duật, Chiêu Quốc vương Trần
Ích Tắc. Trọn vẹn điệu múa có 9 màn, lưu truyền đến cuối thế kỷ thứ 20. (1945).
Hiện (2008) trong nước đang cố gắng phục hồi. Lời ca bao gồm : Hát nói (Ca
trù, hay hát Ả Đào), hát Xẩm, Hát Ví, hát Nghêu, hát Trống quân, hát Quan họ,
hát Chầu Văn.
3.
Ba là hát Xẩm, khi tôi viết những dòng này, thì
trong nước phong trào Hát Xẩm như hoa xuân rực nở. Tại chợ Đồng Xuân Hà nội,
mỗi tối thứ bẩy, những nghệ nhân danh tiếng cùng hát Xẩm cho du khách nghe.
Hát Xẩm chắc có từ
lâu, đến đời Trần mới thực sự có căn bản, mà người có công đầu lại là một cặp đại
anh hùng : Vũ Uy vương và vương phi Ý Ninh. Trước đời Trần thì Hát Xẩm chưa
đành cho người mù. Trong những hồi sau, độc giả sẽ biết chi tiết tại sao các
nghệ nhân hát Xẩm hầu hết đều mù.
Hát Xẩm là điệu hát
bình dân nhất trong những diệu hát bình dân. Vì vậy khi vừa khôi phục là được
quần chúng đón nhận, và sống dậy rất mau.
Những người có công
đầu làm sống dậy là nhạc sĩ Thao Giang, nghệ sĩ nhân dân Xuân Hoach, nghệ sĩ ưu
tú Thanh Ngoan, Văn Ty, Đoàn Thanh Bình,
Thúy Ngần, Mai Tuyết
Hoa v.v.
Họ là nghệ sĩ nhân
dân, là nghệ sĩ ưu tú, nghĩa là họ thuộc loại thành danh, nhưng đã bỏ ra ngoài
cái hào quang, để đi về từng thôn, từng xóm xa xôi, sưu tầm, biên tập lại những
di sản hát Xẩm. Rồi họ còn can đảm, trải chiếu ra chợ Đồng Xuân hát như những
nghệ nhân hát Xẩm hồi trước 1945. Công lao của họ được đền đáp : quần
chúng hoan hô nhiệt liệt.
Trong đại hội y
khoa châu Âu, tháng 10, năm 2006, tổ chức tại hotel Novotel, thuộc quận 14
Paris, tôi được mời diễn giải về Văn hóa hát Xẩm. Cử tọa hoan hô nhiệt liệt.
Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét