HỒI
THỨ CHÍN MƯƠI
Hoài Văn hầu Trần Quốc
Toản
Vũ Uy vương mời Tạ Phương Đắc cùng đọc
thư. Tạ mừng vô cùng
–
Như vậy chiến cuộc tuy chấm dứt, Hốt Tất Liệt thắng, nhưng nguyên một thế hệ
thanh thiếu niên chết hết. Toàn vùng Thảo nguyên chỉ còn đàn bà, trẻ con. Nếu
muốn phục hồi lại những đạo kị binh thì ít ra Hốt Tất Liệt phải mất 5 đến 7 năm. Ta tạm yên được một thời gian để
củng cố lực lượng.
Vũ
Uy vương mời sứ đoàn nghỉ tại Tòa Tổng trấn Bắc cương rồi lấy ngựa về Thiên trường
tâu với Thượng hoàng. Nhưng đúng lúc đó Thượng hoàng đang se mình. Vương phải lộn
về Thăng long hội ý với Thiệu long hoàng đế, Hưng Đạo vương, Hưng Ninh vương và
Chiêu Minh vương. Cuộc họp có cả bốn tướng Dã Tượng, Yết Kiêu, Cao Mang, Địa Lô cùng các tướng
trâu từng tham dự Bắc viện. Bốn vương bàn đi tính lại suốt một ngày. Vũ Uy vương
than:
–
Không ngờ chiến trận giữa Hốt Tất Liệt với A Lý Bất Ca lại kết thúc mau vậy.
Tinh lực của Mông cổ, Đại nguyên kiệt quệ. Mông cổ chỉ còn Ngột A Đa cô đơn giữ
được Vân Nam, Tây tạng. Y sẽ không tuân chỉ A Lý Bất Ca dầu hàng Nguyên. Đại nguyên
không còn quân đánh y. Phía Tây thì các nước Kim trướng từ lâu không biết tới
gốc Mông cổ, chắc chắn Hốt Tất Liệt sẽ không lý tới. Chỉ còn Nãi man của Hoài Đô,
Bắc Liêu của Tháp Sát Nhi.
–
Lực lượng Mông cổ ở Vân nam, Tây tạng do Ngột A Đa trấn thủ như bức tường bảo
vệ cho ta. Ngột A Đa với Mục Tương Ca cầm cự nhau suốt mấy năm nay, bất phân thắng bại. Nếu như Bắc
Liêu theo Nguyên, thì Hốt Tất Liệt sẽ đem 25 vạn kị binh xuống đánh, e Ngột A Đa nguy mất.
Vương
nhìn Vũ Uy vương:
–
Muốn giữ được Bắc Liêu thì cần Vũ Uy vương hay Địa Lô lên đường khẩn cấp cố vấn
cho Hồng Liên. Nhưng Vũ Uy vương còn nhiệm vụ khác nặng hơn. Vậy phải cho Địa
Lô lên đường ngay.
Vương
hỏi Địa Lô:
–
Bây giờ sang đó cháu sẽ hành động ra sao?
Địa
Lô suy nghĩ một lát, hầu thưa:
– Thần âm
thầm đến gặp Hồng Liên. Hồng Liên đề nghị Tháp Sát Nhi phong thần làm một chức
gì đó.
Nhà vua hỏi:
– Nếu như
con Tháp Sát Nhi đang làm giám quốc không đồng ý thì sao?
Địa Lô mỉm cười:
– Aên được
thì ăn. Không ăn được thì phá cho nát. Thần cố vấn Hồng Liên. Hồng Liên sẽ dùng phương cách của
Thanh Liên, là lạm quyền giết sạch những tướng nào chủ hàng Đại nguyên.
Nhà vua tính
xa:
– Cuộc nội
chiến Mông cổ, Đại nguyên khiến tinh lực của Thát đát gần như bị tuyệt. Lớp
tuổi sắc dân Thảo nguyên từ 18 đến 30 hiện bị chết hết trong trận nội chiến.
Cho dù Hốt Tất Liệt có tài thì cũng cần 5 đến 7 năm nữa lớp tuổi 13 đến 18 lớn lên,
tinh lực mới phục hồi. Mà có phục hồi thì những kị binh thiện chiến chết hết
rồi. Đây là cái may cho cho Tống, cho ta. Tuy nhiên nếu như lực lượng 25 vạn hùng binh của Bắc liêu theo Đại nguyên,
thì triều Nguyên tạm vững, chúng không sợ Tống, Nãi man, cùng lực lượng của
Ngột A Đa. Nguyên sẽ dùng quân của Tháp Sát Nhi tiếp viện cho mặt trận Vân nam.
Ngột A Đa nguy mất.
Vũ Uy vương
nhấn mạnh:
– Vậy cháu
lên đường gấp, nắm giữ lực lượng Bắc liêu. Nếu như con Tháp Sát Nhi không theo
Mông cổ, thì cố vấn cho Hồng Liên lạm quyền, gây ra cuộc chiến giữa Bắc liêu
với Đại nguyên. Còn y theo Mông cổ, thì thúc A Lý Bất Ca đem quân đánh Hốt Tất
Liệt, Tháp Sát Nhi sẽ giúp Mông cổ. Trận chiến càng thảm khốc càng tốt. Còn Lý Đảm,
ông ấy sắp khởi binh đánh Đại đô. Nhưng không có chính nghĩa. Ông ta khởi binh
như vậy thì không dễ gì thành công.
Nhà vua nhìn
Vũ Uy vương:
– Anh chị
biết rõ tình hình Tống, Lý Đảm. Anh chị nghĩ sao?
Vương phi Ý
Ninh suy nghĩ một lát, rồi bàn:
– Về sứ quân
Lý Đảm, bệ hạ dậy, mình cần kết hợp ông ta với Tống thì khởi binh mới có chính
nghĩa. Nghĩa là ông ta nhân danh thần tử Tống triều ra quân. Khó một điều là
nhạc phụ của ông, Vương Văn
Thống đang là một trong bốn Tể tướng Mông cổ. Dễ gì Tống
chịu liên binh?
Nhà vua bàn:
– Trong thế
gian này, không ai có uy tín với Tống bằng anh chị Nhật Duy. Không biết anh chị
có thể vì xã tắc lên đường sang Lâm an kết hợp Tống với Lý Đảm được không? Anh
chị xin Tống phong cho Lý Đảm tước vương, rồi ban chỉ cho Lý Bắc tiến, đoạt lại
giang sơn của Hán tộc. Như thế Đảm khởi binh mới có chính nghĩa.
Vương phi Ý
Ninh than:
– Không dễ đâu.
Vì trước đây phụ thân Đảm bị Tống giết. Đảm từng nhận sắc phong của Mông cổ đánh
Tống bao phen.
Chiêu Minh vương
tin tưởng:
– Vì vậybệ
hạ mới nói ngoài Vũ Uy vương ra không ai làm nổi.
Hùng khí bốc
dậy, Vũ Uy vương khẳng khái:
– Vợ chồng
thần sẽ lại xuất mã một lần nữa. Tuy nhiên ta cần sai mật sứ tới khuyên Lý Đảm
quy phục Tống. Mật sứ trong vụ này phi Yết Kiêu không xong.
Vương nói
với Yết Kiêu:
– Vợ chồng
cháu đi theo chú thím. Trước sang Tống. Rồi từ Tống cháu về Sơn đông. Cháu nên
mang theo một đội Ngạc ngư, để huấn luyện cho Đảm mấy đội chống với Thủy quân Mông
cổ.
Yết Kiêu
khẳng khái:
– Cháu xin
tuân chỉ chú. Dù gì cháu cũng là Đông hải Thiên kình đại tướng quân, Nam phương
hùng uy, công thần, An biên đình hầu của Tống. Cháu xin vì Tống mà xuất trận.
Cháu xin chú cho cháu đem theo bốn tướng trâu nữa. Đối với Lý Đảm, anh ấy là
bạn cột chèo với cháu, thì thâm tình giúp cháu thuyết phục anh ấy không khó.
– Cháu có
cần đem theo ai giúp không?
– Ngoài đội
Ngạc ngư ra, cháu muốn đem theo hai cặp tướng trâu Lý Long Đại, vợ là Vũ Trang Hồng ;
Trần Long Nhất vợ là Phạm Trang Tiên.
Hưng Ninh vương
đề nghị:
– Tại Trường
sa hiện Tống có hiệu binh Thiệu hưng, Động đình, Tương giang. Tại Quảng tây có
hiệu Trấn nam. Tại Quảng đông có hiệu Quảng châu. Tổng cộng 5 hiệu, như vậy có đủ
không?
Vương phi Ý
Ninh xua tay:
– Đa tạ Bồ
tát. Ngoài năm hiệu binh, họ còn có Bảo binh. Vợ chồng đệ sẽ huấn luyện Bảo
binh trở thành chính binh, thiện chiến như hiệu Văn bắc, Thiệu hưng.
Giữa lúc đó
Thái giám báo :
– Thượng
hoàng giá lâm.
Lễ nghi tất.
Nhà vua tâu
trình chư sự với Thượng hoàng. Thượng hoàng tuyên chỉ :
– Hiện Duy
nhi, Ninh nhi đang lĩnh Tổng trấn Bắc cương, nhiệm vụ cực quan trọng. Thế nhưng
mấy năm trước Tống phong cho Duy nhi tước Hành Sơn đại vương. Khi Duy nhi được
Tống phong, trẫm tưởng họ chỉ phong cho có danh, không ngờ bây giờ họ mời sang
trấn nhậm. Thế là Duy nhi làm vua vùng Kinh hồ, thì coi như vùng này trở về với
tộc Việt. Tước này giống như tước Kinh
nam vương thời Tống Nhân tông phong cho tổ Trần Tự Mai. Lãnh thổ bao gồm Hồ
nam, Quảng tây nam lộ, Quảng đông nam lộ, rộng gấp ba lần Đại việt ta. Thủ phủ
nằm tại trấn Trường sa. Phía nam Trường sa là hồ Động đình, đất linh, nơi phát
tích ra hai vị quốc mẫu. Sông Tương chảy dài từ hồ Động đình tới Quảng tây.
Suốt hơn nghìn năm qua, các anh hùng tộc Việt không ngớt tìm cách chiếm lại mà
không bao giờ thành. Vậy Duy nhi phải lên đường nhận đất ngay.
Hưng Ninh vương
cẩn thận:
– Vùng Kinh
hồ là nơi mà Đại nguyên đánh Tống sẽ đổ quân vào. Nếu Nguyên chiếm được Trường
sa, ắt tiến quân chiếm Hồ Nam, Lưỡng quảng, thì coi như Tống không còn. Vì vậy
bất đắc dĩ Tốngï phải trao cho chú Duy, để chú Duy chống Đại nguyên cho họ đấy.
Vũ Uy vương
khẳng khái:
– Dù nguy
hiểm, dù gian nan, mà lấy lại được đất tổ em cũng hứng chịu.
Vương phi Ý
Ninh nhìn thượng hoàng:
– Bố yên
tâm! Dâu bố sẽ làm được những gì bố ban chỉ.
Nhà vua nói:
– Anh chị đi
trấn nhậm sẽ gặp muôn vàn gian nan. Vậy anh chị cần mang bất cứ văn quan, võ tướng
nào theo, triều đình sẵn sàng.
Thượng hoàng
ban chỉ:
– Nghe Khu
mật viện tấu trình tình hình Mông cổ trẫm phải về đây để sắp xếp lại nhân sự.
Ngài hỏi nhà
vua :
– Con có đề
nghị gì khác không ? Nhật Duy đi kỳ này ngắn thì vài năm, lâu có khi hàng
chục năm, không chừng suốt đời. Triều đình không thể không bổ nhiệm người thay
thế Duy nhi lĩnh Tổng trấn tây bắc cương.
Nhà vua cầm
một tờ giấy, tâu:
– Về nhân
sự, thần nhi quyết định như sau :
Trấn thủ Nam
biên vẫn là Tĩnh Quốc vương Quốc Khang.
Trấn thủ Đông
bắc cương vẫn là Hưng Ninh vương Quốc Tung.
Trấn thủ Tây
bắc cương là Vũ Uy vương Nhật Duy. Anh chị
được Tống phong cho tước Hành Sơn vương. Lĩnh địa này nằm phía Nam hồ Động đình,
giáp với khu chiến Tương dương, Phàn thành. Nếu như Đại nguyên đánh Tống thì
anh chị là người hứng chịu. Cuộc chiến không biết bao giờ mới dứt. Vì vậy
thần nhi đề nghị chú Chiêu Văn Nhật Duật thay anh trấn thủ Tây bắc cương.
Thượng hoàng
ban chỉ:
– Trước đây ba châu Văn sơn, Khâu bắc, Chiêu dương
thuộc Quảng tây nam lộ. Từ khi Duy nhi, Linh nhi thu hồi thì đặt trực thuộc Bắc
cương. Bây giờ Duy nhi làm vua vùng Kinh hồ thì trả ba châu này về Quảng tây
nam lộ để Duy nhi cai trị cho dễ dàng. Trong tất cả các nhiệm vụ trấn ngự biên
cương thì Tây bắc cương là tối quan trọng. Với tài của Chiêu Văn thì triều đình
yên tâm. Vậy ai sẽ thay Chiêu Văn tổng lĩnh Thiên tử binh?
Nhà vua nhìn
Hưng Đạo vương :
– Thần nhi
thấy trong ba vương Hưng Vũ, Hưng Hiếu,
Hưng Nhượng, thì Hưng Nhượng vương tính tình cương quyết, hành sự mau chóng,
nên cử Hưng Nhượng vương Quốc Tảng vào nhiệm
vụ này.
Vương phi Ý
Ninh tâu:
– Phụ hoàng đã
cho 3 châu Văn sơn, Khâu bắc, Chiêu dương trở về Quảng tây thì thần nhi sẽ xin điều
đạo binh Văn bắc lên Trường sa.
Thượng hoàng
cười vui:
– Con muốn đem
con voi đồng quê lên Trường sa dọa quân Nguyên đấy à?
Dã Tượng
tâu:
– Thần từng
ném đá giết Mông Ca. Mông Ca chết mà Hốt Tất Liệt thoát được cái ách. Nếu Mông
Ca còn thì làm gì có triều Nguyên, làm gì có Chí Nguyên!
Nhà vua
tiếp:
– Chiêu Minh
vương Quang Khải vẫn lĩnh
Phụ quốc Thái úy.
Vũ Minh vương Quang Húc vẫn Tổng lĩnh Ngự
lâm quân, Thị vệ.
Chiêu Quốc vương
Ích Tắc lĩnh Tổng trấn Thăng long, kiêm Quản Khu mật viện.
Chiêu Hòa ương
Quốc Uất, Tổng lĩnh Kị binh, Ngưu binh, Ngạc binh.
Nhân Huệ vương Khánh Dư là Đại đô đốc Tổng lĩnh Thủy binh.
Thượng hoàng
vui vẻ:
– Nhân sự như
vậy thì được rồi. Còn chư tướng thống lĩnh 10 hiệu Thiên tử binh thời Nguyên
phong hiện đã già. Cần cho nghỉ hưu, bổ nhiệm tướng trẻ thay thế.
Buổi họp
chấm dứt, Thiệu Long hoàng đế thỉnh Thượng hoàng cùng chư vương vào Hoàng thành
cùng dự bữa ăn của gia đình. Chiêu Văn vương tâu với Thượng hoàng :
– Chị Ý Ninh
mới hoài thai, mà theo anh Nhật Duy sang Tống, đường xa diệu vợi, lại nữa phải đánh
nhau với Mông cổ, e có nguy hiểm không?
Ý Ninh cười
rất tươi:
– Đa tạ Chú
Chiêu Văn đã lo lắng cho chị. Nhưng chú ơi! Từ khi tuân chỉ phụ hoàng thành vợ
chồng với anh Duy, có năm nào, tháng nào, ngày nào chị nghỉ ngơi đâu? Bây giờ
anh Duy sang Tống, mà để chị ở nhà thì chị buồn không chịu nổi đâu.
Thượng hoàng
phán:
– Chị Ý Ninh
là đệ tử yêu của Vô Huyền bồ tát, thì là người ân oán phân minh. Chị ấy đã nhận
tước phong cực cao của Tống: Thạc hòa, Minh đức, Trang duệ, Vũ thắng trưởng
công chúa. Linh mẫn huyền quân. Nay theo chồng sang trấn ngự lĩnh địa của
chồng, bảo vệ Tống thì là điều hợp với đạo lý. Nên không thể vì hoài thai mà ở
lại Đại Việt.
Ngài ban chỉ
cho nhà vua:
– Trước đây
ta dã ban chỉ về phong chức tước trong hoàng tộc. Khi một hoàng tử sinh thì nội
trong ba ngày phải phong cho tước vương. Khi 13 tuổi được phong cả chức văn,
chức võ, cho mở phủ đệ riêng. Còn con của chư vương thì được phong tước hầu, có
ấp phong. Đến tuổi 13 được bổ nhiệm vào chức văn võ. Bây giờ Ý Ninh mang thai,
sẽ sinh con ở Trường sa. Sau khi sinh, báo về nước. Nếu là trai phải được phong
thượng vị hầu; nếu là gái thì phong công chúa.
Nhà vua kính
cẩn:
– Tuân chỉ
phụ hoàng.
Phi nói sẽ vào tai Thiệu Long hoàng đế:
– Anh chị sang Tống, mà vẫn lo hai tên khả ố
Vuông, Tròn đang bán nước, mong Hốt Tất Liệt phong cho tước An Nam quốc vương
tranh ngôi với chú. Vậy chú phải cẩn thận như đấu võ: mắt trông tứ phương, tai
nghe tám hướng.
Nhà vua gật gật đầu:
– Anh chị đi xa, em như mất một chỗ dựa lớn.
Lời chị dặn, em luôn ghi nhớ trong lòng. Trước kia mọi thư tín gửi từ Mông cổ
về thì do Khu mật viện nhận. Từ khi anh chị Bắc viện hồi hương, vì sợ hai tên
khả ố Vuông, Tròn, chính anh chị nhận. Bây giờ em sẽ trực tiếp nhận.
Tiệc giữa chừng thì Thái phi Đông Hoa tới. Thượng
hoàng đứng dậy tiếp phi:
– Phi vào dây dự bữa tiệc tiễn đưa Duy nhi,
Ninh nhi.
Nước mắt đầm đìa, phi kéo tai Vũ Uy vương:
– Mẹ nghe con từ Bắc cương về Cố trạch, rồi
lại về Thăng long. Sao không ghé thăm mẹ?
Hưng Ninh vương đỡ đòn cho Vũ Uy vương:
– Kính thưa thím. Vì quốc sự khẩn cấp, vợï
chồng Nhật Duy về Thiên trường cáo với thượng hoàng. Nhưng thượng hoàng se
mình, nên phải trở lại Thăng long họp với Thiệu long, nên lỗi đạo thần hôn, xin
thím tha tội cho Duy.
Thái phi hỏi thượng hoàng:
– Bây giờ thượng hoàng lại sai Nhật Duy sang
Tống đánh nhau với Mông cổ nữa phải không?
Nhà vua nhỏ nhẹ:
– Tâu không
phải thế, vì anh Nhật Duy được phong tước của Tống, lớn hơn tước của thần nhi:
Thái sư, thượng trụ quốc,
Khai phủ nghị đồng tam tư,
Phụ quốc đại tướng quân,
Đồng bình chương sự,
Bình tây tiết độ sứ.
Hành Sơn đại vương.
Vì vậy anh
chị phải sang nhận lãnh địa được phong của mình. Tức anh Duy làm vua vùng lớn
gấp ba Đại Việt. Nếu thái phi muốn gần anh chị, xin thái phi vân du Trung quốc
một lần. Hành Sơn là vùng đất phía Nam hồ Động đình. Thái phi sang đó lên ngôi
thái hậu đấy.
Thái phi là xuất thân là một nghệ nhân, giầu
tình cảm. Ngài chỉ có một hoàng nam duy nhất là Nhật Duy, năm 13 tuổi Nhật Duy được
phong vương, được trao cho Tổng trấn Bắc cương. Thế rồi suốt gần 20 năm qua, vương
phải lĩnh những nhiệm vụ trọng đại: nào đánh Mông cổ, nào làm con tin, nào Bắc viện.
Vì vậy mẹ con ít khi gặp nhau. Từ ngày Bắc viện hồi hương, mỗi khi vương về Thăng
long dự buổi thiết triều hay về Cố trạch chầu Thượng hoàng, thì phi lại sang ở
tại phủ Vũ Uy, ăn uống với vương, vương phi,
mẹ con đàm đạo. Phi tận hưởng những ngày hạnh phúc trong tình nhân luân.
Bây giờ đứng trước việc vương sang Tống nhận lĩnh địa được phong, không biết
bao giờ mới trở về, lòng phi đau như dao cắt. Phi cũng muốn đi với vương, nhưng
giữa phi với thượng hoàng ngoài tình vợ chồng, còn tình tri kỷ. Phi không thể
theo con, mà xa thượng hoàng.
Biết cục
diện không thể thay đổi, phi đành nuốt lệ ngồi nhìn con, nhìn dâu mà đứt ra
từng khúc ruột. Một tay phi cầm tay con, một tay phi cầm tay dâu:
– Các con đi
kỳ này, biết bao giờ mẹ mới thấy các con?
Thượng hoàng
cười:
– Trẫm già
rồi! Không ngờ cuối đời lại được nhìn đất linh của tổ tiên trở về với tộc Việt.
Phi đừng buồn, Duy nhi, Ninh nhi trấn nhậm Bắc cương cũng thế, làm vua vùng
Kinh hồ cũng vậy. Nhất định Duy nhi phải ở Kinh hồ cả đời mình, đời con, đời cháu...
Phi phải cười chứ sao lại khóc. Nào, cười lên nào!
Phi mỉm cười
trong khi nước mắt lã chã!
Phi dạy:
– Như vậy
Duy nhi làm vua vùng Kinh hồ. Kinh hồ là đất của Đại việt. Kinh hồ lớn gấp ba Đại
việt. Vậy con phải nhất nhất quy phục Thăng long, chứ đừng nghĩ ta là anh, ta
làm vua nước lớn rồi tách ra làm một nước khác.
Vũ Uy vương
kính cẩn:
– Lời mẹ dậy
con không bao giờ dám quên. Con nguyện suốt đời tuân phục chú Hoảng như tuân
phục phụ hoàng.
Trong khi Dã
Tượng điều động hiệu binh Văn bắc từ Khâu bắc đi Ung châu, rồi từ Ung châu đi
Trường sa; thì Vũ Uy vương, vương phi theo sứ đoàn Tạ Phương Bắc, lên đường
sang Tống. Kỳ này sứ đoàn khá đông: Yết Kiêu với vợ, dẫn theo một đoàn Ngạc ngư
36 người. Những kị mã Long biên theo La An hồi trước đã
được thăng chức tước lớn, nên La An tuyển lấy
30 kị mã trẻ thay thế. Vương phi Ý Ninh xin Vô Huyền bồ tát cho 12 đệ tử Mê
linh kiếm trận trẻ, vì lớp lớn đã được triều đình phong chức tước, bổ nhiệm vào
các chức vụ quan trong.
Cao Mang muốn theo Vũ Uy vương
sang Tống, hầu năn nỉ với vương phi:
– Thím ơi!
Thím cho vợ chồng cháu theo chú thím, để được viếng hồ Động đình là đất linh
của tộc Việt.
Vũ Uy vương
thấy từ khi tướng trẻ này theo mình, mà chưa từng ở bên cạnh, luôn trấn ngự
vùng Hồi cương. Nay nghe Cao Mang năn nỉ, vương
quyết định:
– Được rồi!
Cho cháu với Kha Li Đa cùng đi.
Sứ đoàn hùng
hậu lên đường. Đi đầu là một thớt voi, với cây cờ cực lớn:
Đại Tống Hành Sơn đại vương
Trần
Tạ Phương Đắc
đã sai người báo cho Tuyên vũ sứ Quảng tây, nên khi sứ đoàn tới biên giới,
Tuyên vũ sứ õ cùng các quan thuộc Quảng tây nam lộ chờ đón.
Tuyên vũ sứ
họ Hoàng tên Nam Anh, xuất thân Tiến sĩ. Vì trấn nhậm ở biên giới Hoa Việt, lập được nhiều
công, được phong tước Bá. Tuy Quảng tây nam lộ quá xa với chiến trường Tứ xuyên, Kinh châu. Nhưng
những tin về đạo quân Mông cổ như hùm, như hổ, tàn ác, khi chúng đi đến đâu thì
giết tuyệt không còn một người. Y cũng lo lắng ngay ngáy trong lòng. Y được biết
Mông cổ chiếm Tây tạng, Đại lý rồi đánh xuống Đại Việt. Chúng bị Đại việt phá.
Vũ Uy vương là một trong các tướng phá Mông cổ. Rồi y nghe Mông cổ chiếm Tứ
xuyên. Mặt đông vượt Trường giang đánh chiếm 10 châu 144 thành. Tống triều như
ngọn đèn trước gió, thì Vũ Uy vương đem quân cứu viện, giết chết vua Mông cổ là
Mông Ca, đuổi Mông cổ khỏi Tứ xuyên. Mông cổ phải ký thỏa ước trả 10 châu, 144
thành, rút khỏi Nam Trường giang. Nhờ vậy mà Tống còn. Tống triều phong cho Vũ
Uy vương tước Thái sư, thượng trụ quốc Hành Sơn đại vương. Quảng đông nam lộ,
Quảng tây nam lộ đều thống thuộc lĩnh địa của vương. Bây giờ vương lên đường
nhậm chức, Hoàng cùng các quan văn võ đi đón với tất cả kính trọng. Coi vương
như cây cột chống căn nhà ọp ẹp sắp đổ của Tống.
Tạ Phương Đắc
đề nghị với Hành Sơn đại vương (từ đây chúng tôi dùng tước của vương do Tống
phong là Hành Sơn đại vương):
– Khải vương
gia, vương gia, vương phi cùng chư tướng nhận tước phong của triều đình thì nên
dùng triều phục của Tống, để dân chúng, quan chức dễ nhận ra.
Hành Sơn đại
vương hỏi thuộc hạ:
– Ý kiến của
Tạ sứ như vậy, ta có nên theo không?
Đúng là cáo
chết ba năm quay đầu về núi. Vương Chân Phương từng thấy những phụ
nữ mặc y phục phu nhân, tiểu thư, nàng hằng ước mơ được mặc những bộ quần áo thướt
tha này. Bây giờ được hỏi ý kiến, nàng nói ngay:
– Thưa chú!
Chú là Hành Sơn đại vương, chồng cháu, anh Lô đều là tước hầu thì nên mặc phẩm
phục của Tống, để dân chúng biết rõ đây
là những mệnh quan.
Biết rõ thâm
ý của Chân Phương, Địa Lô trêu:
– Còn chị, tước
phong của chị là công chúa. Vậy chị phải mặc
phẩm phục công chúa. Nhưng tìm đâu ra phẩm phục này bây giờ.
Tạ Phương Đắc
đề nghị:
– Đợi tới Trường
sa, thần sẽ ra lệnh cho thợ của Tòa tổng trấn may phẩm phục tước đại vương cho
vương gia, tước hầu cho Yết Kiêu, Địa Lô, tước công chúa cho vương phi và phu
nhân của hai hầu tước. Còn y phục cấp tướng quân cho bốn vị ngưu tướng thì có
sẵn.
Châu trị của
Hành Sơn vương là thành Trường sa. Không muốn làm phiền các quan lại địa phương,
vương ban chỉ đoàn tùy tòng dùng thuyền ngược giòng sông Tương lên thẳng Trường
sa.
Hồi hiệu
binh Thiệu hưng mới thành lập, vì các tướng Hoa kiều chưa quen chỉ huy, nên
triều đình Đại Việt cử Yết Kiêu thống lĩnh cùng một số tướng Việt. Từ sau trận đánh
Tứ xuyên, hiệu binh được trao cho các tướng Hoa kiều chỉ huy. Các tướng được
Tống triều phong chức tước, được phối
trí tại điểm nóng Trường sa.
Tuyên vũ sứ
dàn hiệu binh Thiệu Hưng ra đón. Trấn bắc thượng tướng quân, Linh viễn đình hầu
Phùng Tập, báo cho binh tướng hiệu Thiệu hưng biết, người cựu chỉ huy của họ là
Yết Kiêu cũng đi theo Hành Sơn vương.
Lễ nghi tất.
Hành Sơn vương
họp với bộ tham mưu tòa Tổng trấn Trường sa để biết rõ tình hình địch, tình
hình Tống và dân tình. Mọi việc xong xuôi, vương dẫn vương phi, Yết Kiêu, Dã Tượng
đi Lâm an dự buổi thiết đại triều.
Trước khi về
Lâm an, vương phi Ý Ninh dặn Dã Tượng, Yết Kiêu, Cao Mang, Địa Lô:
– Mỗi buổi
thiết đại triều, Tống có hằng mấy trăm quan dự. Họ thuộc rất nhiều thành phần
phức tạp. Mình từ phương xa tới, lần đầu chỉ nên nghe để hiểu, không nên phát
biểu. Nhất là mình nói tiếng Hán vùng
Lâm an không chuẩn. E có sự hiểu lầm. Nếu như nhà vua hay các quan có ngợi
khen, thì phải hết sức nhũn nhặn.
Tạ Phương Đắc
thuyết trình về triều Tốâng:
– Hàm Thuần
hoàng đế mới lên ngơi vua, tuổi còn trẻ, kiến thức cực rộng, là người biết
chiêu hiền nạp sĩ. Ngặt vì Tống triều bị Liêu, Kim, Mông cổ xâm lăng biết bao
lần, trong gần 200 năm, nên các quan không có chí tiến thủ chiếm lại Hoa Bắc. Họ chỉ muốn giữ những gì hiện có. Thời tiên đế, Tể tướng
Giả Tự Đạo nhân nhà vua tuổi già, y lạm quyền. Hồi đám tang tiên đế, ông ta bị
Hoa sơn ngũ hiệp đột nhập dinh, dí kiếm vào cổ bắt phải tuân theo mười điều.
Nên nay tương đối đỡ hơn nhiều. Hiện trong triều có ba vị đại thần tài trí phi
thường, nên ông ta lùi trở lại với vị trí một thư lại.
Yết Kiêu
hỏi:
– Ba vị đại
thần tài trí đó là những ai vậy?
– Một là Văn
Thiên Tường. Hai là Trương Thế Kiệt. Ba là
Lục Tú Phu.
Vương Chân Phương hỏi:
– Ba ông này
có hợp nhau không?
– Ba ông như
ba cây cột chống căn nhà nghiêng ngả của Tống. Ba là một, một là ba. Họ là người
tài trí phi thường, hành sự lỗi lạc. Biết chiêu hiền nạp sĩ.
Trước buổi
thiết triều đã có một rắc rối, khó khăn về thủ thủ tục lễ nghi, khiến quan
Quang minh điện đại học sĩ không giải quyết được. Nguyên do Tống triều là một
triều trọng Nho học cực kỳ, lễ nghi nghiêm túc, không có nữ quan, cũng chưa từng
cho các công chúa, vương phi, phu nhân dự buổi thiết triều. Bây giờ phải xếp
chỗ cho vương phi Ý Ninh, Vương Chân Phương, Thúy Hồng
tước công chúa; Thái Ngọc Hồng tước phu nhân.
Hai Ngưu tướng Vũ Trang Hồng, Phạm Trang Tiên tước Ngưu vệ tướng
quân.
Cuối cùng Tể
tướng Giả Tự Đạo phải lấy một điển hồi mới lập Tống triều. Bấy giờ vương phi
của Trịnh Ân, nghĩa đệ của Thái tổ tên Đào
Tam Xuân, bà là một đại tướng. Khi thiết triều, thì phía sau chỗ ngai vàng của
hoàng đế để cái ghế, bà ngồi đó. Quan Quang minh điện đại học sĩ truyền lấy 6
cái ghế, để sẵn.
Buổi thiết đại
triều bắt đầu vào giờ Mão tại Trường hy điện.
Các quan tề
tựu, theo thứ tự, phẩm hàm. Nhạc trỗi lên, nhà vua từ trong đi ra. Tể tướng Giả
Tự Đạo hô lớn:
– Bách quan
khấu đầu bái kiến thánh hoàng.
Nhà vua vẫy
tay:
– Các khanh
bình thân. Miễn lễ.
Quang Minh điện
đại học sĩ tâu:
– Tâu thánh
hoàng, buổi thiết triều hôm nay có Hành sơn đai vương Trần Nhật Duy, vương
phi; ba vị hầu Trần Quốc Kinh, Trần Quốc Vỹ, Nguyễn Địa Lô và hai phu nhân. Đặc
biệt có cả 4 Ngưu vệ tướng quân cũng về chầu.
Trong điện
có tới hơn bốn trăm người mà không một tiếng động. Vì từ hồi Tống đang như ngọn
đèn trước gió, được viện binh Việt vào Tứ xuyên đánh bại Mông cổ, giết Mông ca,
mà Tống thu hồi được 10 châu, 144 thành. Các quan đều nghe danh Vũ Uy vương,
cùng chư tướng Việt. Hôm nay họ mới được thấy người mà họ khâm phục.
Nhà vua ban
chỉ:
– Thỉnh vương
gia, vương phi cùng chư tướng vào.
Nhạc quan
cho các nhạc công cử bản chiến thắng, chào đón các anh hùng Nam phương. Hành Sơn đại
vương cùng phái đoàn vào điện. Nhà vua vẫy tay:
– Miễn lễ!
Tạ Phương Đắc
trình diện từng người một. Các đại thần Tống đều là những nhà nho đạo đức. Họ tự hào, họ đang sống ở Hàng châu, vùng nổi
danh sản xuất ra những giai nhân mà khi thấy vương phi Ý Ninh, Vương Chân Phương, Thúy Hồng, Thái Ngọc
Hồng, họ đều ngơ ngác. Họ thấy cái đẹp của vương phi Ý Ninh là một giai nhân
luyện võ, chân khí sung mãn, tươi hồng, thân thể nảy nở cân đối. Rồi khi thấy
hai tướng trâu Vũ Trang Hồng, Phạm Trang Tiên, da tuy ngăm đen,
nhưng mắt sáng như sao, chỉ nhìn cũng thấy đầy sinh khí.
Nhà vua
truyền kéo ghế mời vương, vương phi, các phu nhân ngồi. Nhà vua tuyên chỉ:
– Trẫm cũng
như bách quan từng nghe đại danh Hành Sơn
đại vương, vương phi, các tướng Yết Kiêu, Dã Tượng, Đại Đởm. Vậy phiền chư
khanh đứng ra giữa điện để mọi người được thấy phong thái anh hùng. Văn Thái phó tường thuật
trận Bồ lăng mà An biên hầu đánh tan 4 vạn kị binh Mông cổ cho các đại thần n
ghe.
Yết Kiêu, Dã
Tượng tuân chỉ đứng giữa điện.
Văn Thiên Tường
thuật chi tiết trận đánh như thế nào. Tể tướng Giả Tự Đạo nói:
– Kị mã Mông
cổ là những binh mạnh bất khả đương. Thế mà bị Ngưu binh đánh bại. Hôm nay có 4
Ngưu tướng tại đây. Nào mời 4 tướng đứng ra giữa điện để thánh hoàng thấy khí
sắc anh hùng.
Lý Long Đại,
Vũ Trang Hồng ;
Trần Long Nhất , Phạm Trang Tiên đứng ra
giữa điện. Các quan nhìn hai cặp vợ chồng tuy trẻ, nhưng khí sắc tinh anh. Quan
Hình bộ thượng thư Lục Tú Phu hỏi:
– Liệu Hành
sơn vương có thể huấn luyện cho Tống mươi đội Ngưu binh không?
Phạm Trang Tiên lễ phép:
– Kính Thượng
thư, hiệu binh Thiệu hưng có ba quân bộ binh. Mỗi quân đều có một một Vệ Ngưu
binh 80 người. Các Vệ Ngưu binh vẫn ngày đêm thao luyện. Nếu triều đình muốn
thì ba Vệ Ngưu binh có thể đào tạo thêm mấy chục Vệ nữa.
Sau buổi
thiết triều, Khu mật viện họp để cùng Hành Sơn vương bàn mật sự. Hành Sơn vương
tâu với nhà vua:
– Hiện sứ
quân Lý Đảm đang có 15 vạn hùng binh. Lý thấy sau trận nội chiến, binh lực Đại
nguyên tan tác. Lý muốn khởi binh đánh thẳng vào Đại đô. Nhưng Lý khởi binh thì
không có chính nghĩa. Thần lớn mật xin bệ hạ ban chiếu chỉ phong chức tước cho
Lý, gửi một hịch cần vương cho dân chúng miền Bắc. Lý nhân đó tuyên bố tuân chỉ
của triều đình khởi binh đuổi Thát đát ra khỏi Trung nguyên.
Thái phó Văn
Thiên Tường tán thành:
– Như vậy
triều đình nên phong vương cho Lý.
Nhà vua hài
lòng:
– Ai có thể đi
sứ trong vụ này?
Vương phi Ý
Ninh chỉ Yết Kiêu:
– Đông hải
Thiên kình đại tướng quân, Nam phương hùng uy, công thần, An biên đình hầu Trần
Quốc Vỹ là người của triều đình. Phu nhân cũng nhận tước phong Hồng đức, trang
hòa Công chúa. Công chúa là em vợ của Lý.
Tể tướng Giả
Tự Đạo trì nghi:
– Liệu Lý Đảm
có nhận chức tước của triều đình không?
Lại bộ thượng
thư Trương Thế Kiệt cương quyết:
– Nhận! Tôi
tin rằng Lý sẽ nhận. Vì Lý với Đại nguyên hiện ở vào thế không cùng đứng. Bắt
buộc Lý phải khởi binh. Lý yếu hơn Đại nguyên, nên phải tìm thế liên binh. Nay
triều đình mở vòng tay đón, thì Lý cầu mà không được.
Nhà vua
tuyên chỉ:
– Vậy phải
ban chỉ càng sớm càng tốt. An biên đình hầu cùng phu nhân sẽ dùng thuyền đi cho
mau.
Rời Lâm an,
Hành Sơn vương cùng phái đoàn về Trường sa. Vương dặn Yết Kiêu:
– Cháu đem đội
Ngạc ngư, 4 tướng trâu dùng thuyền ra biển. Tới Liêu Đông thì cùng lên bờ,
rồi để Địa Lô dùng đường bộ đi Bắc Liêu.
Vương trao
cho Địa Lô một thẻ bài:
– Đây là thẻ
bài của Hốt Tất Liệt, do Bạch Liên lấy trộm cho ta. Cháu dùng để đi qua vùng
kiểm soát của Đại nguyên, tới Bắc Liêu.
Yết Kiêu, Địa
Lô chưa kịp lên đường thì có thư của Vũ Chính gửi từ Đại đô:
“ Khải vương gia,
Có biến cố lớn. Lý Đảm bí mật chuẩn bị khởi binh, bất thình
lình đánh úp Đại đô. Lý sơ hở để lộ kế hoạch.
Cha vợ của Lý Đảm là Vương Văn Thống được Hốt Tất Liệt tín dùng trao cho chức Tể tướng.
Không kế nào của Vương mà không dùng, không lời nào của Vương mà không nghe. Vương
ở trong, thông báo chư sự cho Lý Đảm. Đảm ở ngoài chỉnh bị binh mã, lương thực.
Cả hai ước tính sẽ chờ dịp khởi binh. Sau trận đánh Tích Mộc Não Nhi, toàn lực
kị binh Mông cổ, Đại nguyên bị tan nát. Vương Văn Thống thấy thời cơ đã đến, báo cho Lý Đảm khởi binh.
Tại Tế Nam có một đại thần Mông cổ, tên Vương Khánh, là một nhà nho. Ông ta thường tỏ ý thân với A Lý Bất
Ca. Lý Đảm cho rằng ông ta chống Hốt Tất Liệt, nên chuyện gì cũng bàn với ông ta. Lý sơ hở để ông ta lấy được bức thư của Vương Văn Thống viết cho Đảm. Lập tức ông ta phi ngựa ngày đêm cáo
với Hốt Tất Liệt. Hốt Tất Liệt đem bằng chứng đó ra hỏi tội Vương Văn Thống. Vương không còn chối được tội. Hốt Tất Liệt truyền chém
Vương.
Sau khi chém Vương Văn Thống, Hốt Tất Liệt cử Thừa tướng Sử Thiên Thạch làm tướng
cùng Thân vương Hợp Tất Xích đem
mấy đạo kị binh thình lình đánh Lý Đảm. Đảm không kịp trở tay, hiện bị vây
trong thành Tế Nam. Y không thể ra lệnh cho tướng sĩ các đạo quân đến cứu viện.
Thân vương Hợp Tất Xích sai
sứ đến các Tuyên vũ sứ, các tướng chỉ huy quân của Lý Đảm thuyết phục đầu hàng.
Ai đầu hàng nhất nhất tướng đến quân đều được thăng lên một cấp. Chức vụ được
giữ nguyên, của cải, đất đai cũng được giữ nguyên. Ai chống lại thì từ tướng đến
quân, vợ con, dĩ chí dân chúng bị giết sạch. Hầu hết các Tuyên vũ sứ, các tướng
đều đầu hàng. Chỉ trong 10 ngày toàn lãnh thổ của Lý Đảm thuộc về Nguyên. Đảm
bị vây trong thành Tế Nam. Đã hai lần Đảm phá vòng vây mà không thành công“.
Hành Sơn vương
họp chư tướng lại, giảng giải cho biết tình hình. Vương nói với Yết Kiêu:
– Nhạc phụ
cháu chết, chắc chắn Chân Phương sẽ đau đớn lắm. Cháu đem Chân Phương vào gặp
thím, để thím an ủi cho bớt u sầu. Còn việc cháu đi sứ thì ngừng lại. Vì gần như
toàn lãnh thổ của Lý Đảm đã bị Đại nguyên chiếm đóng. Việc một đoàn 36 Ngạc ngư
với tướng trâu không thể tới Tế Nam được. Ví dù tới Tế Nam, thì cũng không thể
vào thành. Mà vào thành thì cũng bó tay, chứ cứu Đảm thì vô phương.
Vương phi
bàn:
– Việc Yết
Kiêu đi sứ Sơn đông phải hủy bỏ. Mình cần dâng biểu về Lâm an để triều đình
biết tự sự. Còn Địa Lô phải dùng thuyền đi Cao ly. Rồi từ Cao ly vào Bắc liêu.
Địa Lô lên đường
được hơn tháng thì có thư về:
“Khải vương gia,
Thần đã tới Bắc Liêu. Tháp Sát Nhi bị trúng phong huyền vựng,
mê man*. Thần cho uống ba thang thuốc, tuy đã qua cơn nguy ngập, nhưng bán thân
bất toại, miệng méo, mắt nhắm không kín. Chân,
tay trái teo lại, không cử động được. Nếu dùng châm cứu ba ngày một lần thì
trong vòng 3 tháng có thể đi lại tuy khó khăn một chút. Tháp Sát Nhi đã có thể
thiết triều. Tuy nhiên vương vẫn cho Thái tử Đô Ngột Nhi ngồi cạnh nghe việc
triều chính.
Cha con Tháp Sát Nhi có nhiều điều bất đồng ý kiến. Đô Ngột
Nhi quá hèn, chỉ muốn quy phục Đại nguyên để được an thân. Trong khi đó em ruột
y là Đô Nhĩ Kha nhỏ hơn y hai tuổi, văn mô, vũ lược, có chí khí, muốn làm cho Bắc liêu hùng mạnh lên, quay mặt về
Nam tranh hùng với Đại nguyên. Tháp Sát Nhi muốn phế Đô Ngột Nhi, lập Đô Nhĩ
Kha, nhưng chưa có cớ. Đô Ngột Nhi biết thế, âm thầm tìm ngoại viện từ Đại
nguyên.
Trước đây Tháp Sát Nhi nghe lời khuyên của Trung Thành vương, đã thiết lập một triều đình giống triều đình Tống
ở Trung nguyên, Lý của Đại Việt. Trung Thành vương được phong làm Thái úy, thống lĩnh binh mã. Một
nho sĩ người Liêu được bổ nhiệm làm Chiêu văn quan đại học sĩ, giám tu quốc
sử (Tể tướng). Bây giờ bổ nhiệm thần làm
Vũ lâm đại học sĩ, quản Khu mật viện, kiêm Tổng lĩnh Cấm quân, Thị vệ. Lập tức
thần tổ chức hệ thống phòng thủ, giám sát khắp nơi. Chỉ mười ngày thần đã biết
những viên quan nào thân Đại nguyên. Viên quan nào còn hướng về Hốt Tất Liệt.
Thần cài người vào làm chân tay cho Đô Ngột Nhi: từ đầu bếp cho tới mã phu, thị
vệ. Nên nhất cử nhất động của Đô Ngột Nhi, thần đều biết hết. Thần đã liên lạc được
với Thúy Trang và Hoài Đô. Có tin tức gì thần sẽ báo sau”.
Ghi chú,
* Trúng phong huyền vựng, tên một loại bệnh rất cổ của y học
Á châu. Tương đương với ngày nay là Huyết áp cao rồi bị tai biến mạch máu não.
Vương viết
chỉ dụ:
“Làm cách nào cho Đô Ngột Nhi rời kinh đô, đi xa. Giúp Đô
Nhĩ Kha nắm quyền. Rồi khi Tháp Sát Nhi băng, lập Đô Nhĩ Kha lên thay“.
Tại Trường
sa, ngày 20 tháng 6, giờ tỵ, vương phi Ý Ninh khai hoa, nở nhụy ra một hoàng
nam. Năm đó là năm Bính Dần (1266). Vương đặt tên là Quốc Toản. Sau khi lễ vọng
về Nam tạ ơn liệt tổ. Vương sai chuyển thư về Đại Việt cáo với Thượng hoàng và
Tuyên thái phi. Tuyên Thái phi ban chỉ: tìm cách đưa Quốc Toản về nước để Thái
phi dậy cháu. Triều đình ban chỉ phong cho Quốc Toản tước Hoài Văn hầu. Aáp
phong là Hàm tử, gồm bốn xã, dân đông, tài nguyên xúc tích.
Thượng hoàng
gửi một thanh kiếm ban cho Quốc Toản, trên thanh kiếm có hàng chữ:
Ngự tứ thượng
phương bảo kiếm
Hoài văn hầu
Trần Quốc Toản,
Nghĩa là: Thanh kiếm của vua ban cho Hoài Văn hầu Trần Quốc
Toản.
Vương phi hướng
về Nam bái tạ, rồi mời mọi người ra sân. Phi rút thanh kiếm ra khỏi vỏ: kiếm có
mầu vàng óng ánh như vàng, tỏa ra khí lạnh ghê người. Phi khen:
– Kiếm này hơi
nặng.
Phi vung lên, ánh vàng lóng
lánh như quả cầu vàng. Phi đưa ngang, kiếm chạm vào cây côn sắt cắm bên cạnh.
Chít một tiếng, cây côn to bằng cổ tay, đứt ngọt. Mọi người đều kinh ngạc.
Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét