HỒI THỨ BẨY MƯƠI BẨY
Nếu
con tát cạn biển Đông,
Thì
con mới hiểu được lòng mẹ cha.
Địa Lô
thuật tiếp Hoàng Liên được nối gân chân
tay, tái hồi với Tạ Quốc Ninh ra sao? Nàng được Vô Huyền bồ tát thu làm đệ
tử rồi trả thù thế nào. Hiện Hoàng Liên dang cùng Tạ Quốc Ninh giúp quần hùng Đại
lý cần vương.
Thuật
xong tử trao thư, vàng, ngọc của Hoàng Liên cho ông bà.
Từ
ngày song thân Thất liên được ban chức tước, được cấp ruộng canh tác không phải
sưu thuế, thì cuộc sống rất nhàn nhã. Tuy nhiên vì con gái phải sang cống cho
Thát đát, hung dữ khó lường, nên ngày đêm lo lắng. Bây giờ được biết con gái đều
trở thành quý nhân, lại gửi vàng-ngọc về phụng dưỡng thì mừng chi siết kể. Nhưng
trong lòng 14 người ấy đều thao thức, ước vọng có ngày gặp lại con.
Vương
phi nói:
– Các
ông bà nên viết thư cho con, viết càng dài càng tốt, kể về cuộc sống yên ổn tại
quê nhà. Trong thư cũng nên nhắc rằng những gì cha mẹ được hưởng là do ân huệ
của triều đình ban cho.
Sáng
hôm sau cả đoàn tiếp tục lên đường về Thăng long. Khi đoàn qua Gia lâm, vương
ban chỉ:
– Con
người ta, gốc thân xác là cha mẹ. Trừ Dã Tượng, Yết Kiêu, Đội kỵ mã Long biên,
các mã phu, đầu bếp; gia đình đều ở Thiên trường, thì đi cùng chú thím. Còn Cao Mang, Kha Li Đa; Đại
Hành, Địa Lô; Thúy Hồng nhà gần đây, nên về thăm nhà một vài ngày, rồi phải về
Cố trạch bái kiến Thượng hoàng. Địa Lô, Thúy Hồng nên đến thăm gia đình bốn con
bé Động hoa, trao thư, quà tặng chúng gửi cho gia đình
Vương
phi Ý Ninh gọi Địa Lô lại gần:
– Ngay
chiều nay, cháu phải làm lễ phát tang Như Lan, rồi làm cơm cúng nàng cho phải đạo.
Việc xong, cháu về Thiên trường ngay.
Đoàn
người ngựa vừa tới Bắc ngạn thì có sứ giả của Thượng hoàng truyền chỉ:
“ Vương, vương phi không phải vào thành Thăng long yết
kiến triều đình, mà về thẳng Cố trạch yết kiến Thượng hoàng”.
Cố
trạch tức Thiên trường.
Đất
Thiên Trường là miền họ Trần dựng nghiệp từ mấy trăm năm. Khi vua Thái Tông lên
ngôi, cắt đất phong cho hoàng tộc, mỗi người một vùng. Sợ rằng tông tộc phân
tán đi khắp nơi, thâm tình sẽ phai lạt, nên nhà vua phân chia vùng đất linh gần
tháp Phổ Minh ra thành từng khu nhỏ, chia cho các vương hầu mỗi người một mảnh,
cất dinh thự làm nơi cư ngụ chính thức
tại quê hương. Đất này sử gọi là Cố
Trạch. Hằng năm tất cả tông tộc nhà Trần
phải về Cố Trạch giỗ tổ, cùng xum họp.
Vùng
Cố Trạch bao gồm toàn huyện Mỹ Lộc, Vụ Bản và thành phố Nam Định
ngày nay. Hiện (2001) vùng Cố Trạch chỉ còn
lại một khu nhỏ nơi có đền thờ Hưng Đạo vương, cùng đền thờ các vua Trần và
công thần.
Nguyên
Phong hoàng đế nhường ngôi cho con sau là vua Thánh tông. Tân quân tôn ngài là
Thái thượng hoàng đế. Tuy đã nhường ngôi cho con, nhưng thượng hoàng vẫn nắm
những quyết định lớn.
Đoàn
người ngựa đổi hướng chạy về Nam. Vương
phi thắc mắc:
–
Chúng ta từ Mông Cổ về, lý ra triều đình cần nghe chúng ta tâu trình để biết
tình hình. Thế sao phụ hoàng lại tuyên chỉ cho chúng ta về Cố trạch?
Vũ-uy vương trả lời vương phi:
– Anh
nghĩ, khi được tin chúng ta trở về, đúng lý ra triều đình phải triệu hồi chúng
ta để tường trình chư sự. Thế mà phụ hoàng lại truyền chỉ chúng ta về Thiên Trường
tâu lên người, như vậy thì cái vấn đề đối phó vơí Mông Cổ này, do chính phụ hoàng
định kế sách. Em nghĩ sao?
– Em
thì em nghĩ khác. Có thể phụ hoàng nghi trong triều có tai mắt của giặc, nên người
muốn chúng ta diện tấu, như vậy kín đáo hơn.
Vương
vỗ tay vào thành xe:
–
Chúng ta sang Trung Nguyên suốt
ba năm liền, không biết ở nhà triều đình có gì thay đổi không?
– Em
nghĩ thay đổi thì có, nhưng không nhiều, vì phụ hoàng vẫn nắm kỷ cương.
Vương
phi đưa mắt nhìn vào dẫy núi Côi, trong tâm tưởng tượng lại trận đánh cánh đồng Văn, rồi than:
– Anh
à, Mông Cổ phá rồi, phụ hoàng đã nghe theo lời tâu của Hưng Đạo vương rằng: nước
mình đất hẹp, dân thưa, so với Trung
Nguyên chưa bằng một phần trăm, mà Trung Nguyên còn bị Mông Cổ đánh
bại. Vậy mình cũng chẳng nên vì tự ái, đem ít lễ vật, sai sứ sang nói lời nhũn nhặn mà tránh được chiến
tranh thì hơn. Không biết ai đi sứ?
– Tướng
quân Lê Tần.
Trong trận đánh Bình Lệ nguyên, tướng quân Lê Tần tả xung hữu đột
giải cứu phụ hoàng bao phen. Vì vậy sau trận ấy, người ban cho Lê tướng quân
cái tên Lê Phụ Trần.
Lê Phụ Trần
lại được phong tước hầu, trao cho chức Ngư Sử đại phu, rồi gả... rồi gả...
công-chúa Chiêu Thánh cho.
Nghe
chồng nói, vương phi Ý Ninh mở to mắt tỏ vẻ bực mình:
– Công
chúa Chiêu Thánh! Anh mà cũng nói như vậy sao? Làm gì có... vụ sư phụ lấy
chồng!!!
– Anh
biết rõ là không có cái vụ ấy. Nhưng thái-sư
Trung Vũ đại vương Trần Thủ Độ muốn
mọi người phải tin như vậy thì anh cũng phải chịu thôi.
– Nhưng
em không chịu. Em phải nói ra sự thực. Bằng không, thanh danh của sư phụ bị ô
uế.
Xe đã đi
vào địa phận Cố-trạch. Để kéo vương-phi ra khỏi cơn giận, vương chỉ về ngọn
tháp phía xa xa:
– Kìa là tháp Phổ
minh. Một trong Nam thiên
tứ đại thần khí.
Ghi chú,
Tháp và chùa Phổ minh ở xã Tức
mặc, nay là Lộc vượng, ngoại thành Nam định. Tháp và chùa được dựng từ
đời Lý. Tại đây có cái vạc lớn do Bồ tát Minh Không đúc là một trong Nam thiên tứ đại Thần khí:
– Tượng Phật Quỳnh lậm,
– Chuông Quy điền,
– Đỉnh tháp Báo thiên,
– Vạc Phổ minh.
Hồi thứ bẩy, đã thuật về Cố
trạch, bây giờ xin thuật tiếp về chùa và tháp Phổ minh.
Niên hiệu Thiệu-long thứ nhì (1262) đời vua
Trần Thánh-tông, dựng cung Trùng-quang ở gần và cho tu sửa chùa, làm chỗ nghỉ
ngơi của Thái-thượng hoàng.
Niên
hiệu Hưng-long thứ 13 (1305) đời vua Trần Anh-tông, cho xây tháp 14 tầng trên
12 bậc gạch, cao hơn 20 mét bằng đá quý, gạch nung trang trí hình rồng lượn,
với chữ « Hưng-long thập tam niên».
Sau
khi vua Trần Nhân-tông băng hà, nhục thể đem thiêu, triều đình đem bẩy viên xá
lợi đặt trong tháp để thờ phụng. Chính vua Trần Minh-tông có thơ đề:
Đề
Phổ-minh tự thủy tạ.
Huân
tận hương đầu mãn tọa hương,
Thủy
lưu sơ khởi bất đa lương.
Lão
dung ảnh lý tăng khai bế,
Đệ
nhất thiền thanh thu tứ trường.
Đào Thái-Tôn dịch như sau:
Đề
ở nhà thủy tạ chùa Phổ-minh.
Hương
cháy ngàn tăm khắp chốn thơm,
Nhẹ
trôi dòng nước khói lan nồng.
Đa
già rợp bóng, sư cài cửa,
Một
tiếng ve kêu, thu rộn buông.
Năm 1426, Vương Thông bị Bình-Định vương Lê Lợi đánh bại, có người mách với y rằng: sở dĩ người
Việt nổi lên bại được quân Minh là do Nam-thiên tứ khí. Vương Thông sai quân hủy vạc Phổ-minh cùng với đỉnh tháp
Báo-thiên, tượng phật Quỳnh-lâm, nói thác rằng để đúc súng đạn.
Tiến-sĩ Bùi Huy-Bích
(1744-1818) có bài thơ Du Phổ-minh tự dưới đây:
Loạn hậu trùng tầm đáo Phổ-minh,
Nhàn
hoa dã thảo mãn nham quynh.
Bi
văn tước lạc hòa yên bích,
Phật
nhãn thê lương chiếu dạ thanh.
Pháp
giới dữ đồng thiên quảng đại,
Thổ
nhân do thuyết địa anh linh.
Liêu
liêu cổ đỉnh kim hà tại?
Thức đắc vô hình thắng hữu hình.
Ngô Đức-Thọ dịch như sau:
Sau loạn tìm về đến Phổ-minh,
Hoa
đồng cỏ nội ngút trời xanh.
Văn
bia sứt mẻ nhòe mây khói,
Mắt
Phật âu sầu chiếu ngũ canh.
Cõi
phép cùng trời bao rộng lớn,
Người
đây vẫn nói đất linh thiêng.
Não
lòng đỉnh cổ rầy đâu tá?
Mới
biết vô hình thắng hữu hình.
Hiện nay vạc không còn nữa, nhưng
tháp, chùa Phổ-minh vẫn còn đó. Chùa, tháp cùng vời đền thờ các vua Trần, đền
thờ Hưng-Đạo vương ở cạnh nhau.
Du khách muốn hành hương, trước hết tới thành
phố Nam định rồi dùng xe, đi về hướng Bắc thành phố, qua khu Lò-trâu, quẹo
phải, tới những đoạn sông Vỵ-hoàng chỗ còn, chỗ bị lấp, rồi quẹo trái là đến
khu di tích lịch sử này. Đầu tiên là cái sân ngoài, có cây đa cổ. Qua lần cổng
thứ nhất tới cái hồ. Đi vòng qua bờ phải hồ tới đền thờ đức thánh Trần. Vòng
qua trái hồ là đền thờ các vua Trần. Bên trái đền thờ vua Trần là tháp và chùa
Phổ-minh. Trong đền thờ đức thánh Trần cũng như các vua Trần. Hai đền, chùa,
tháp còn giữ được khá đầy đủ tượng, câu đối, hoành phi cổ.
Tháp
Phổ-minh hiện được các nhà sản xuất tranh sơn mài, các họa sĩ dùng làm cảnh
tiêu biểu cho di tích lịch sử, văn hóa Việt-Nam. Nếu đi sâu vào Tức-mạc còn có
lăng đức thánh Trần và vương phi, nhưng lăng này là lăng vọng, chứ không phải lăng
thực.
Độc
giả muốn thâm cứu về chùa, tháp Phổ-minh, có thể đọc thêm các sách (bằng chữ
Hán):
Trung-quốc:
– Quách-thị Nam-chinh,
– Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký,
– Giao-chỉ linh thần kỷ sự.
Việt-Nam:
– Đại-Việt sử ký toàn thư (đệ ngũ kỷ),
– Hoàng-Việt nhất thống địa dư chí,
– Đại-Việt địa chí,
– Nam-định tỉnh địa dư chí,
– Phương-đình mạn hứng tập,
– Tồn thi cảo,
– Đại-Nam nhất thống chí,
– Đồng-Khánh địa dư chí lược,
– Toàn Việt thi lục.
Chùa Phổ-minh
Nắng chiều vàng úa dọi vào tháp, hiện ra
ánh hào quang rực rỡ. Viên đội trưởng kỵ-mã hộ tống tới trước xe cung tay hành
lễ:
– Khải vương-gia. Vương gia định
về vương-phủ hay đến triều kiến thượng-hoàng?
– Ta cần
triều kiến phụ-hoàng rồi mới về phủ.
Đoàn xa giá hướng tháp Phổ Minh,
qua tháp thì tới hành-cung là nơi thượng-hoàng ở. Đoàn xe vừa dừng lại, đã có
viên thái-giám Đại Lực cúi đầu hành lễ:
– Khải vương-gia! Thượng hoàng đang
mong vương gia, vương phi.
Ý Ninh hỏi:
– Công công! Có ai nữa không?
– Khải, có Trung
Vũ
đại vương, Hưng Ninh vương, Hưng Đạo vương, Chiêu Minh vương, Chiêu Quốc vương,
ngự sử đại phu Lê Phụ Trần, và tham tri bộ Lễ Chu
Bác Lãm.
Trung
Vũ
đại vương là tước phong của Thái-sư Trần Thủ Độ, Hưng Ninh vương là tước phong
của Thượng tướng Trần Quốc Tung anh Hưng Đạo vương, Chiêu Minh vương là tước
phong của Thái úy Trần Quang Khải, con thứ vua Thái tông. Chiêu Quốc vương
Trần
Ích Tắc được cử trấn nhậm Bắc cương thay Vũ Uy vương sang Mông Cổ làm con tin.
Vương cùng vương-phi xuống ngựa, đi
trước, phía sau là Dã Tượng, Yết Kiêu, Vương
Chân Phương.
Tất cả leo lên chín bậc thềm, vào trong chính điện quỳ gối:
– Thần nhi khấu đầu vấn an phụ hoàng.
– Các
con bình thân, an tọa. Thế nào đường xa
có mệt lắm không?
– Đa
tạ phụ-hoàng! Hoàng nhi chỉ cần thấy long thể phụ hoàng thì dù mệt gì cũng hết.
Vương
quay sang Trung Vũ đại vương
khấu đầu:
–
Chúng con kính cẩn vấn an ông trẻ.
Thái-sư
Thủ Độ vẫy tay:
–
Miễn lễ.
Thấy Thái sư cột
giải khăn tang ngang cánh tay,
vương phi kinh
hãi:
– Thưa
ông trẻ! Trong nhà mình có tang ư?
– Đúng vậy, năm trước sau khi đi Văn sơn họp với hai cháu;
trở về thì Tuyên minh thái hoàng thái hậu, rồi Linh từ quốc mẫu băng!
Thái-sư
Trần Thủ Độ là người tạo ra triều Trần, là chú vua Thái tông, là vai ông của
Vũ-uy vương, uy thế cực kỳ lớn, nhưng ông không thích lối xưng hô theo cung đình,
vì vậy Vũ Uy vương phải xưng hô theo lối bình dân. Vũ Uy vương cùng Vương phi quay
sang Hưng Ninh vương, Hưng Đạo vương:
– Đệ
kính cẩn ra mắt nhị vị vương huynh.
Thượng
hoàng đưa mắt nhìn vương phi Ý Ninh, rồi vẫy tay, chỉ vào ghế cạnh ngài:
– Hà,
ba năm qua, con vì quốc sự phải bôn ba nắng mưa. Thực thực xứng đáng con cháu
vua Trưng. Con ngồi đây.
Cử chỉ
sủng ái con dâu của Thượng hoàng không qua được con mắt của Trung Vũ đại vương: Thượng
hoàng có hằng mấy chục con dâu, ngài chưa từng tỏ ra cử chỉ sủng ái như vậy với ai. Nay trước mặt số đông
người, ngài tỏ ra như vậy, chỉ vì Ý Ninh là học trò yêu của Vô Huyền bồ tát
(Chiêu Hoàng). Ngài tuy đã cao niên, mà vẫn không quên được người từng đầu gối
tay ấp xưa.
Vương
phi Ý Ninh cảm động, khép nép ngồi bên phụ hoàng, rồi chỉ Vương Chân Phương tâu
trình lý lịch nàng. Trung
Vũ đại vương tuyên chỉ:
– Chân Phương mới học tiếng Việt, thì dự buổi
thiết triều vô ích. Chân Phương coi như vợ Yết Kiêu thì là con dâu Hưng Đạo vương.
Hãy đưa về phủ Hưng Đạo bái kiến vương phi.
Cung
nữ dẫn nàng rời đại điện.
Hưng Đạo
vương đưa mắt cho Tả thiên ngưu vệ đại tướng quân, Khâu Bắc bá Dã Tượng:
– Con
kiểm soát an ninh lại một lần, trước khi khai hội.
– Tuân
chỉ phụ vương.
Dã Tượng
lui ra khỏi điện, kiểm lại toán thị vệ canh gác một lượt, rồi trở vào cung tay:
– Khải
phụ vương, hoàn toàn cơ mật.
Thượng
hoàng lên tiếng:
– Trẫm
triệu chư khanh về đây để chúng ta duyệt lại tình hình đất nước, rồi đưa ra kế
sách sao cho xã-tắc được toàn vẹn.
Thời
vua Thái tông còn tại vị, niên hiệu Nguyên Phong thứ ba (1253) phong cho em
ruột là Khâm Thiên đại vương
Nhật Hiệu lĩnh chức thái úy. Chức thái úy tương đương
với ngày nay là Tổng tư lệnh quân đội. Thế nhưng trong trận giặc Mông Cổ sang đánh
lần thứ nhất, quân thua Bình Lệ Nguyên, hai ải Phù Lỗ, Cụ Bản đều vỡ, triều đình
rút khỏi Thăng Long. Giặc nhập kinh thành đốt phá tàn sát dân chúng. Trước thế
nước chông chênh như trứng chồng trên đá, Hưng Ninh vương, Hưng Đạo vương, Vũ
Uy vương, Nhân Huệ vương đang cùng chư tướng xuất lĩnh quân dân xả thân chống giặc;
vua hỏi thái úy Nhật Hiệu kế sách phá giặc, thì vương run rẩy đến nỗi nói không
ra lời, tay cầm cái sào viết lên mặt nước hai chữ nhập Tống, ý khuyên nhà vua
nên trốn sang Tống. Nhà vua kinh hoảng hỏi thái sư Trần Thủ Độ. Thái sư khẳng định
“Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ-hạ đừng lo”. Rồi Khâm Thiên đại vương còn trái lệnh của Tiết Chế Hưng Đạo vương,
dàn quân tại cánh đồng Văn chọi nhau với giặc, làm thiệt hại mấy vạn binh mã.
Hết giặc, vương xấu hổ xin từ chức. Thiệu Long hoàng đế phong em kế là Chiêu
Minh đại vương lĩnh chức thái úy, thay thế ông chú vô tài, lại nhát gan.
Chiêu
Minh đại vương nghe phụ hoàng ban chỉ, liền đứng dậy vỗ tay hai cái, hai viên
tá-lĩnh mang ra ba cuốn trục vải treo lên
ba cái giá. Vương chỉ vào cái thứ nhất:
– Tâu,
về thiệt hại của dân chúng rất ít. Khi giặc nhập Bắc biên, Vũ Uy vương cho ém
quân, vì vậy chúng không phá phách gì cả. Tại chiến trường Bình Lệ nguyên,
chúng tàn phá đốt hơn hai nghìn nóc gia, nhân mạng dân chúng không thiệt hại
gì, vì đã di chuyển sang vùng lân cận. Tại chiến lũy Phù Lỗ, cũng như Cụ Bản
toàn bộ hai làng này, nhà cửa, lũy tre bị đốt sạch. Dân chúng cương quyết ở lại
cùng chống giặc, nên thiệt hại lên đến
1234 người.
Hưng
Ninh vương ngắt:
– 1234
xuất đinh hay tính chung?
– Thưa
vương huynh tính chung. Nam chết
675 người, còn lại 559 là nữ. Trong số 1234 người thì người già trên 55 tuổi và
trẻ dưới 16 tuổi là 447.
Yết
Kiêu đứng hầu sau Hưng Đạo vương xin tâu. Thượng Hoàng vui vẻ nói với ông như
cha nói với con:
– Con
tử chiến tại Phù Lỗ, Cụ Bản chống giặc, chắc con biết rõ tình hình hơn.
Giọng
nói của thượng hoàng đầm ấm, khiến Yết Kiêu cảm động:
– Tâu,
các hoàng nam được huấn luyện chiến đấu, họ biết tiến lùi nhịp nhàng, họ còn
biết sợ giặc. Chứ người già, đàn bà, trẻ con, họ chỉ biết liều mạng giữ làng,
họ chiến đấu như hổ đói gặp mồi. Triều đình không đủ vũ khí phát cho họ. Họ tự
tạo vũ khí. Vũ khí của họ là gậy gộc vót nhọn, là dao bổ củi. Có người dùng
gạch, dùng đá ném vào giặc. Khi ra lệnh rút quân họ không tuân, cứ đánh. Có người ruột lòi ra, một tay nhét ruột vào, ôm bụng,
một tay cầm dao xông vào chém giặc. Tất cả tù binh Mông Cổ bị bắt chúng khai,
chúng không sợ quân, sợ tướng của ta, mà sợ người già, đàn bà, trẻ con.
Tất cả
cử tọa đều nhắm mắt tưởng tượng lại cuộc chiến khủng khiếp tại ải Phù Lỗ, Cụ
Bản. Hưng Đao vương tiếp lời Chiêu Minh vương:
– Tại
sao trong lịch sử Trung Nguyên, với biết bao
nhiêu cuộc chiến, trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, biết bao nhiêu lớp sóng
phế hưng; nhưng chưa có thời nào dân chúng lại một lòng chiến đấu như vậy? Tộc
Việt ta, cũng chưa có thời nào mà dân chúng lại tỏ khí phách cùng với triều đình
chống giặc như vậy?
Vương
ngùng lại cho cử tọa suy nghĩ, rồi tiếp:
– Binh
tướng can trường khi lâm chiến, một lòng với triều đình thì bên Trung nguyên
không thiếu. Bên Đại Việt ta, thời Hùng từng thắng giặc Ân, thời Âu Lạc từng
thắng quân Tần Thủy Hoàng. Thời Lý từng thắng Tống. Nhưng đấy là do triều đình,
tướng sĩ thắng giặc, chứ dân chúng thì không hề tham dự. Duy thời Lĩnh Nam, vua
Trưng cùng 162 anh hùng, nhân cái nhục bị giặc Hán tàn bạo chiếm nước, mà cùng
nhqu tuốt gươm khởi binh. Trong 162 anh hùng đều xuất từ dân chúng; các ngài khích
cho dân biết cái nhục bị trị, mà cùng nổi lên. Sau khi đuổi dược giặc, triều
Lĩnh Nam thể
theo ý dân mà lập nền cai trị. Dân chúng cảm thấy đất nước là của họ chứ không
phải của triều đình. Vua Trưng từng ban chỉ cho tướng sĩ rằng:
“ Đất nước này là của toàn dân. Vua và triều đình là
người lo cho dân, chứ không phải ngồi trên đầu dân mà ban phát ân huệ. Triều đình,
tướng sĩ do dân mà ra. Bất cứ làm gì cũng phải tâm niệm: Việc này dân chúng có ưa
thích không? Dân chúng được hưởng gì? Làm những điều mà lòng dân oán đối thì
vua, quan không khác gì đạo tặc “.
Vì vậy
mà đất nước Lĩnh Nam tuy
nhỏ, hẹp, cũng đánh cho quân Hán trước sau năm trận kinh thiên động địa. Tài như
Mã Viện, Lưu Long, Đoàn Chí mà phải năm năm mới thắng được. Vừa rồi cuối đời
Lý, vua thì hôn ám, triều đình thì gồm toàn các quan ù lý, quyền vào tay hậu
cung. Do vậy khi ngôi vua chuyển sang giòng họ Đông A nhà ta, dân không hề hồi
tưởng. Khi Thượng Hoàng tiếp ngôi từ họ Lý, trên vua không quá phân biệt xa
cách anh em giòng họ. Đối với dân chúng ban hành chính sách lắng nghe nguyện
vọng của họ mà lập nền cai trị. Vì vậy dân chúng coi đất nước là của họ, làng
ấp là của họ. Rồi trong cuộc chiến, ta gửi quân về hương đảng cùng dân chúng chống giặc. Sau này, và mãi mãi, dù
Mông Cổ có mạnh tới đâu, nhưng ta giữ được
cái vũ khí cả nước là thành, toàn dân là quân; thì ta không sợ Mông Cổ
nữa.
Chiêu Minh đại vương tâu tiếp:
– Sau
khi giặc rút đi, triều đình đã phủ tuất, truy phong cho tất cả dân chúng Phu
Lỗ, Cụ Bản. Dân các làng xung quanh kéo sang giúp hai làng này tái thiết. Trong
vòng hơn tháng, những gì bị tàn phá đều được phục hồi. Còn Thăng Long, cánh đồng
Văn.
Vương
chỉ vào trục vải thứ nhì:
– Khi
giặc tới biên giới, triều đình đã kêu gọi dân chúng rời khỏi Thăng Long. Nhưng
phân nửa dân chúng không nghe, nhất là người Hán; vẫn ở lại. Giặc nhập thành đốt
hết cung điện, nhà cửa, giết sạch dân chúng. Phủ thừa Thăng Long ước tính có hơn
bốn vạn người bị giết. Còn vùng cánh đồng Văn, khi dân chúng thấy Khâm Thiên đại vương dàn quân, họ đã bỏ chạy
về vùng núi Côi, thành ra thiệt hại nhân mạng coi như không có. Duy nhà cửa,
thì giặc đốt sạch hai xã.
Vương
chỉ vào trục vải thứ ba:
– Tổng
kết tình hình toàn quốc, từ trước đến nay, qua tin tức của thương nhân, qua người
Hán, dân chúng nghe nói đến Mông Cổ đều khiếp đảm. Nhưng qua trận chiến vừa
rồi, dân, binh, tướng của ta không còn sợ chúng nữa. Một điều cực quan trọng là
những dư luận, những chủ trương phục hồi Lý triều không còn. Thần nhi có thể
khẳng định triều đình với dân chúng hiện giờ là một khối.
Thượng
hoàng hỏi:
– Từ
nghìn xưa, triều đại nào của Bắc phương cũng vậy. Họ luôn tìm đủ cớ sang đánh
ta. Hưng Đạo vương đã tâu với trẫm rằng: Các triều đại trước cứ sau mỗi lần đuổi
giặc, lại hậu lễ, lời khiêm mà yên được xã tắc. Vậy triều đình đã sai tướng
quân Lê Phụ Trần
làm chánh sứ, Tham tri bộ Lễ là Chu
Bác Lãm làm phó, sang sứ Mông Cổ xin thần phục, triều cống.
Ta những tưởng triều đình Mông Cổ sẽ không chịu. Nào ngờ họ nhũn như con chi
chi!
Lê Phụ Trần tâu:
– Khi
thần lên đường, Hưng Đạo vương có ban chỉ dụ cho thần rằng việc đi sứ tuy quan
trọng, nhưng đó là hư. Thực là giữa ta với Mông Cổ hiện tiếp giáp với nhau ở
phía Tây. Còn phía Đông thì có Tống ngăn cách. Mông Cổ đã chiếm hằng trăm nước,
hiện binh lực của họ mạnh bất khả đương. Trước sau gì họ cũng sẽ diệt Tống.
Diệt Tống xong, họ sẽ đánh ta để trả thù. Vậy phải tìm hiểu rất kỹ tình hình
Mông Cổ để có thể tìm ra phương lược giữ nước. Thế nhưng khi sứ đoàn tới biên
giới thì họ cho Lôi Kỵ hộ tống tới Yên Kinh. Dọc đường sứ đoàn cũng không được
tiếp xúc với dân chúng. Rồi khi tới Yên Kinh, sứ đoàn được cấp nơi ở, được cung
phụng ăn uống cho đến khi về. Sứ đoàn không được triều kiến Đại hãn Mông Ca. Vì
vậy sứ đoàn không biết gì cả.
Thượng
hoàng cười:
–
Chính vì vậy mà trẫm đã cử Vũ Uy vương cùng vương phi đi Mông Cổ làm con tin để dò xét tình hình. Nào
chúng ta hãy nghe vương tâu trình.
Cử tọa
hướng mắt nhìn Vũ Uy vương, vương phi. Vũ Uy vương tâu chi tiết:
– Cuộc
trao tù binh, đổi lấy gia đình các võ sĩ Tống.
– Thu
nhận năm thiếu nữ Đông hoa, làm kế bắt nai.
– Kết
thân với Tống qua vụ cứu Vương
Kiên.
– Tống
nhượng cho Đại Việt khu đất Bắc, diệt bọn thổ phỉ Thân Lợi lập ra ba khu Văn sơn,
Khâu Bắc, Chiêu dương.
–
Thành lập hai hiệu binh Thiệu hưng, Văn Bắc.
– Cứu
Tô lịch thất tiên. Gửi sang làm Tế tác tại triều đình Mông Cổ. Thành công trong
việc hạ bệ Hốt Tất Liệt. Phá tan triều đình Hốt Tất Liệt.
– Kết
thân Cao ly, Hồi Cương, Đại lý, Sơn Đông cùng chống Mông Cổ.
– Hiện
Mông Ca thân chinh đánh Tống.
Lễ bộ tham tri Chu Bác Lãm hỏi:
– Khải vương gia,
thần xin vương gia cho biết chi tiết về một
trong Tô lịch thất tiên. Nàng tên Tô Kim Huệ, tức Thanh Hoa. Vì nàng là thứ
thiếp của thần.
Vũ Uy vương đưa
mắt nhìn vương phi:
– Sứ đoàn làm quá
nhiều việc, vì vậy vụ Tô lịch thất tiên, cũng như Đông hoa ngũ tiên tôi trao
cho vương phi đảm trách. Vương phi trả lời cho Chu tham
tri đi.
Vương phi Ý Ninh
mỉm cười:
– Truyện 7 nàng
Tô Lịch gồm chi tiết vừa vui, vừa buồn; vừa đau lòng vừa phấn khởi.
Phi nhìn thẳng vào mặt Chu Bác Lãm:
– Thanh Hoa hiện đang
ngồi ở địa vị cực kỳ cao sang. Nàng được Đại hãn Mông Ca sủng ái nhất trong
hằng nghìn giai nhân Tây vực, Tống, Hồi, Liêu, Kim. Nàng được Mông Ca phong tước
Tuyên phi. Mông Ca đang đốc xuất quân chính quốc Mông Cổ cùng các nước Tây vực đánh
Tống. Hậu cung của ông ta có đến ngàn mỹ nữ, thế mà cuộc đánh Tống này, ông ta
chỉ mang mình nàng theo thôi. Vừa rồi Chu Tham tri theo Lê tướng
quân đi sứ là đi sứ với Hốt Tất Liệt. Chứ Chu tham tri đi sứ Hoa lâm thì e đã bị
giết rồi!
– Xin Phi nói rõ hơn!
– Chu
Tham
tri là chồng cũ của Tuyên phi Thanh Hoa. Khi Tham tri tới Hoa lâm thì thế nào
nàng cũng biết. Biết tất nàng sẽ tìm cách liên lạc với Tham tri. Việc lộ ra thì
Tham tri với nàng ắt bị xử lăng trì (xẻo thịt).
Thế rồi phi thuật : bẩy nàng bị Ngột
Lương Hợp Thai bắt đem gửi tên thổ phỉ Thân Long
Vân. Được Vương Kiên sai Hoa sơn ngũ hiệp cứu thế
nào. Cuối cùng được Dã Tượng, Thúy Hồng cứu đem về Khâu Bắc, rồi bị xử tội voi
dầy, được Tuyên minh Thái hoàng thái hậu ân xá, đưa sang Mông Cổ. Nàng lập đại công,
cha mẹ được phong tặng, nàng được phong tước quận chúa.
Thượng hoàng phán :
– Đúng ra Tô lịch thất tiên phạm tội làm
Tế tác cho Mông Cổ thì chồng của họ sẽ bị xử tử, cách hết chức tước. Trong đó
có Chu tham tri. Nhưng vì bẩy người đới tội lập công nên chồng cũng được ân xá.
Chu Tham tri không bị truất giáng gì cả. Khi sự thể
xẩy ra, Vũ Uy vương, vương phi từng thượng biểu về triều. Thái sư Thủ Độ không
muốn tin này lộ ra ngoài, vì lộ ra chỉ thêm đau lòng cho các ông chồng. Vì vậy
vụ này chỉ Thái sư, Linh Từ quốc mẫu với trẫm biết mà thôi.
Mồ hôi Chu
Bác Lãm
vã ra như tắm.
Trung
Vũ
đại vương Thủ Độ bàn :
– Trong ba năm qua, Vũ Uy vương, vương
phi đã làm được những truyện xẻ núi, lấp sông. Truyện cực kỳ hệ trọng là đòi được
vùng đất đã mất trên ngàn năm từ Tống, mà không phải tốn sức, tốn tiền tài gì
cả. Cuối thời Đinh sang đầu thời Lê ; Tống từng gửi binh sang đánh ta. Bị
ta phá. Rồi đến thời vua Lý Nhân tông, do tham vọng của tên cuồng nho Vương
An Thạch,
mưu đánh ta, bị ta ra tay trước (1066) rồi họ kéo binh nghiêng nước sang trả
thù (1077), bị ta phá. Từ hồi đó đến giờ
80 mươi năm có dư, giữa ta với Tống trải qua một thời gian dài hòa hoãn với nhau. Năm trước triều đình uỷ cho Vũ Uy vương
lĩnh đặc mệnh toàn quyền sang làm con tin ở Mông cổ, rồi đưa đến ta với Tống kết
thân. Tống đã lờ đi cho ta diệt bọn thổ phỉ Thân Long Vân, lại đồng ý cắt ba
vùng cựu địa Chiêu dương, Văn sơn, Khâu Bắc trả cho ta. Đổi lại Vũ Uy vương
hứa ta tiếp cứu khi Tống lâm nguy. Thế
rồi ta thành lập, huấn luyện trang bị cho hai hiệu binh Văn Bắc, Thiệu hưng.
Vương ngừng lại một lát rồi hỏi :
– Bây giờ Mông Ca đem quân nghiêng nước đánh
Tống, ta cần quyết định : có nên giúp Tống hay không ? Nếu giúp thì giúp
như thế nào ?
Chiêu Quốc vương tâu :
– Thần nhi nghĩ hứa với Tống là Vũ Uy vương, chứ không phải
triều đình. Tội vạ gì ta phải giúp Tống, để gây hấn với Mông cổ ! Bây giờ
mình nên kết thân với Mông cổ để được yên thân. Nếu muốn khởi binh, thì ta cần
khởi binh liên hợp với Mông cổ, đánh vào sau lưng Tống thì hơn.
Nhân Huệ vương ngắt lời Chiêu Quốc vương :
– Chú Ích Tắc đưa ra đề nghị đó, không
còn đạo lý nào nữa ! Một là ta kết thân với Mông cổ ư ? Thì ta đã gửi
sứ sang Mông cổ, cũng như Mông cổ gửi sứ
sang ta đòi sáu điều :
Một là đích thân quốc vương phải vào
chầu,
Hai là đem trưởng
nam làm con tin,
Ba là kê biên dân
số,
Bốn là phải chịu
quân dịch,
Năm là phải nộp
thuế, lương thảo.
Sáu là nhận Đạt
lỗ hoa xích (Đa gu ra tri) .
Như vậy có khác
gì ta bị Mông cổ cai trị? Chính vì thế mà thời Nguyên phong, ta bác sáu điều
trên, Mông cổ mới vào phá nước ta, bị ta đánh bại. Hai là triều đình đã ủy cho
Vũ Uy vương lĩnh đặc mệnh toàn quyền, thì vương hứa với Tống là triều đình hứa.
Ta không thể, không nên, nuốt lời. Ba là, vùng đất Chiêu dương, Văn sơn, Khâu
Bắc bị Trung nguyên chiếm đã nghìn năm, thế mà bây giờ họ chịu trả cho ta, thì
ta phải biết thiện chí của họ như thế nào rồi. Ta cần giữ lời hứa.
Thượng hoàng đưa
mắt nhìn Hưng Đạo vương như hỏi ý kiến. Vương tâu :
– Sở dĩ Mông Cổ
chưa kéo quân sang trả thù vì người bị
ta đánh bại là Hốt Tất Liệt. Hiện y mất hết uy quyền. Còn Mông Ca thì đang
dồn hết lực lượng diệt Tống. Tống ở phía Bác ngăn Mông Cổ cho ta. Nếu Mông Cổ
diệt xong Tống, chúng sẽ thừa thế, đánh ta, lập nền cai trị như Hồi cương, như
Tây tạng, như Đại lý. Vậy ta phải giúp Tống. Tống tồn tại thì ta mới yên. Thà
ta đánh Mông Cổ trên đất Tống, còn hơn đánh Mông Cổ trên đất Việt. Vũ Uy vương
từng hợp với Đại lý, Hồi cương, Cao ly, Liêu Đông, Tống cùng liên
hợp chống Mông cổ. Thì bây giờ là lúc ta phải thi hành.
Trung Vũ đại vương Thủ Độ quyết định :
– Trước hết ta
giúp Tống lương thảo. Lương thảo ta chuyên chở ra mặt trận phía Tây là nơi chủ
lực Mông Cổ mạnh nhất. Lương thảo của ta giúp gồm gạo, ngô, khoai, sắn khô. Gạo
của ta ngon hơn gạo Trung nguyên. Ta lại giúp cá khô, tôm khô, mực khô. Thứ đến
ta gửi hai hiệu binh tinh nhuệ cứu Tống, khi họ lâm nguy. Ta đã thành lập, vũ
trang, huấn luyện hai hiệu binh Văn Bắc và Thiệu Hưng hơn năm truớc. Suốt thời gian qua ta vẫn luyện
hai hiệu binh phương cách phá chiến thuật Thành Cát Tư Hãn. Còn tướng ? Ta
nên gửi tướng nào qua ?
Chiêu Quốc vương đề
nghị :
– Đã gửi tướng
qua thì nên gửi những tướng kinh nghiệm sẵn có. Tướng kinh nghiệm sẵn có thời
Nguyên Phong, võ công họ cao, tài điều binh như thần. Kỵ binh thì Lý Tùng Bách.
Xung phong đánh trực diện thì Trần Đình Biên, Nguyễn Tha, Trương Đình Khá. Uyển
chuyển mưu trí thì Đỗ Thanh, Bùi Hoán, Hoàng Vui, Nguyễn Thiên Sanh. Vậy ta nên
chọn tướng nào ?
Vũ Uy vương xua
tay :
– Dĩ nhiên các tướng
thời Nguyên Phong kinh nghiệm, tài ba. Nhưng hiện tuổi họ trẻ nhất cũng 33, già
nhất đã 60 rồi. Nếu dùng họ vào việc viễn chinh thì e lực không đủ. Aáy là chưa
kể hiện các tướng Mông Cổ đều có võ công cao, chứ không như các tướng hồi đánh
sang ta thời Nguyên Phong đâu !
Thượng Hoàng đưa
mắt nhìn Vũ Uy vương phi. Phi biết phụ hoàng hiểu tài năng cũng như kinh nghiệm
của mình. Phi kính cẩn tâu :
– Mông Ca trao
cho Hốt Tất Liệt việc tuyển tướng, luyện binh. Hốt Tất Liệt rút kinh nghiệm
trong các trận đánh với Tống, với Cao ly, với Đại Việt. Y thấy tất cả những
trận Mông Cổ bị bại do tướng của họ khi lâm trận bị các tướng võ công cao giết chết,
khiến hàng ngũ rối loạn. Vì vậy thay vì cử người Mông Cổ vào các chức vụ Bách
phu, Thiên phu, Vạn phu ; y tuyển các cao thủ không phân biệt người Tống,
Cao ly hay bất cứ nước nào, rồi cho huấn luyện thành Bách, Thiên, Vạn phu.
Thượng Hoàng hiểu
ý con dâu :
– Vậy ta cần gửi
những võ lâm cao thủ đi theo trong quân. Khi xuất trận, các cao thủ ấy tìm cách
giết tướng Mông Cổ. Hai cao thủ sẵn sàng theo quân là Lê Ngân Sơn, Lê Kim Sơn của phái Sài sơn,
vì phu nhân của hai bị bị Mông Cổá bắt. Ngoài việc vì nước, hai vị ấy còn thêm
thù nhà nữa. Phu nhân hai vị đó hiện ra sao ?
Vương phi Ý Ninh
tâu :
– Tử Hoa sau cải
là Tử Liên, nhũ danh Cao Đại
Nhu, thứ thiếp của Lê
Kim Sơn, chưởng môn phái Sài sơn. Hiện là vương phi của Cáp
Thiết Sáp Nhi. Lan Hoa, nhũ danh Cao
Thiếu Nhu, thứ thiếp của Lê Ngân Sơn, phó chưởng môn
phái Sài sơn. Hiện là vương phi của Ngọc Mộc Hốt Nhi. Hai người này là con của Mông
Ca.
Nói đến đây Thượng
Hoàng nhìn vương phi Ý Ninh :
– Việc đây xong, con nên về chùa Thần quang,
thăm sư phụ. Ta sẽ gửi sứ theo, xin người cho mươi đội kiếm trận Mê linh viện
Tống.
Ngài quyết định :
– Ta không thể
gửi các tướng thời Nguyên Phong. Phải để họ ởû với quân cơ hữu, giữ nhà. Tre
già, măng mọc. Ta nên gửi các tướng trẻ thì hơn.Tướng trẻ ta không thiếu.
Mọi người đều hướng
mắt vào Dã Tượng, Yết Kiêu. Trung
Vũ đại vương mỉm cười :
– Năm đứa Thiên
trường ngũ ưng đều là những tinh hoa của Đại Việt. Mỗi cháu đều có biệt tài
riêng, hình như năm cháu kết hợp với nhau bằng lời nguyền. Yết Kiêu, con nhắc
lại lời nguyền đó cho Thượng Hoàng nghe đi.
Yết Kiêu khoan
thai đọc :
“ Một là trung với Xã tắc,
Hai là xả thân cứu nước,
Ba là phẩm giá, đạo đức,
Bốn là tài trí, dũng, mưu,
Năm là hiếu kính phụ mẫu.
Thượng Hoàng hài
lòng:
– Vậy ta gửi cả
Ngũ ưng theo trong quân giúp Tống. Nhật Huy con! Con định trao cho họ giữ nhiệm
vụ gì?
Vũ Uy vương tâu:
– Dã Tượng hiện
là thống lĩnh hiệu binh Văn Bắc. Yết Kiêu là thống lĩnh hiệu binh Thiệu Hưng.
Thần nhi đề nghị gửi Đại Hành tiếp tục sang Mông Cổ. Vì Đại Hành được Mông Cổ tuyển
làm Phi mã đại tướng quân, lĩnh Vạn phu trưởng. Thần nhi sẽ nói với Thúy Nga
xin với chồng là Thân vương
Tháp Sát Nhi cho Đại Hành được chỉ huy đội Cấm vệ hộ tống Mông
Ca. Như vậy Đại Hành sẽ chuyển tin tức của Thanh Hoa về cho ta. Địa Lô thì sẽ là
quân sư cho hai hiệu binh Thiệu hưng, Văn bắc. Còn Cao Mang thì thần nhi đề
nghị gửi sang Hồi cương, giúp Hồi cương chống Mông Cổ.
Trung Vũ đại vương nói:
– Trời về chiều
rồi. Vũ Uy vương vừa trải qua đoạn đường dài từ Bắc cương về đây, cần nghỉ ngơi.
Mai ta bàn tiếp.
Buổi
thiết triều tạm ngưng.
Vũ Uy vương muốn
biết mẫu thân hiện ra sao. Vương hỏi viên Tổng thái giám Đại Lực :
– Công
công ! Mẫu thân tôi hiện ở đâu ? Mẹ Dư Hạo ra sao?
– Khải vương
gia ! Nghe tin vương gia, vương phi về, Mai thái phi sang phủ của vương
gia điều động thái giám, cung nữ quét dọn, làm cỏ, làm tiệc chờ vương gia, vương
phi về ngự. Còn Dư bà ư? Người hằng ngày mỏi mắt trông chờ vương về.
Vương phi than
với vương :
– Lòng mẹ ! Ôi
người ta ví lòng mẹ rộng như biển Đông cũng phải! Biển Đông rộng nhưng còn có
bờ! Biển Đông sâu còn có đáy. Nhưng lòng mẫu thân rộng vô cùng tận, sâu không
có đáy nữa.
Đoàn tùy tùng hướng
phủ Vũ Uy.
Luật thời Lý, Trần quy định: khi một hoàng tử đến tuổi
13-14 thì được phong tước vương, được lập vương phủ, được phong hàm, phong chức
văn, chức võ, rồi trao cho trấn nhậm một vùng. Vương phủ có đủ các quan như một
triều đình nhỏ.
Năm 13 tuổi, hoàng tử Nhật Duy được phong tước Vũ Uy vương, phong hàm Thái tử thiếu bảo, chức
văn là Đồng bình chương sự, chức võ là Phụ quốc thượng tướng quân, và trao
cho trấn ngự Bắc cương. Các quan thuộc phủ Vũ Uy đều tùng sự ở tòa Tổng trấn
Bắc cương. Khi vương trao quyền cho Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc, thì
các quan thuộc tòa Tổng trấn chia làm hai. Những người là mệnh quan của triều đình
thì vẫn ở lại tòa Tổng trấn. Còn những quan thuộc phủ Vũ Uy thì chuyển sang Văn
sơn. Thành ra phủ đệ Cố trạch, không có người nào cả.
Vương được cấp một khu đất tại Cố trạch vuông vức 10 mẫu
(360.000 m2) để
xây vương phủ. Nhưng vương phải trấn nhậm biên giới phía Bắc, nên chưa từng về
Cố trạch. Vương sai thợ từ Bắc cương về, xẻ gỗ dựng vương phủ. Mẫu thân của vương
là Tuyên phi Mai Đông Hoa trông
coi xây vương phủ, tuyển cung nga, thái giám, mã phu cho vương. Bây giờ là lần đầu
tiên vương về phủ của mình.
Trong khi vương vắng nhà thì trao quyền quản lý vương
phủ cho nhũ mẫu của vương là bà Dư Hạo. Bà
Hạo là vợ của một Thị vệ tên Dư
Thanh. Khi Thái phi Mai Đông Hoa sinh vương, thì
bà được tuyển làm nhũ mẫu cho vương. Sau khi nuôi sữa vương ba năm bà Dư Hạo được Thái phi
ban thưởng vàng, bạc, lại ban cho chức tước, rồi cho về với gia đình. Nhưng bà Dư Hạo là người tình
cảm, bà không muốn xa người con sữa, nên Mai thái phi giữ bà lại. Vương phủ Vũ
Uy tại Cố trạch xây xong, Mai thái phi trao cho chồng Dư bà làm Tổng quản, còn
bà thì giữ chức Phủ khố, cai quản toàn
bộ cung nga, đầu bếp, bộc phụ.
Thấy Dã Tượng, Yết Kiêu ngập ngừng không biết nên theo
mình hay về Hưng Đạo phủ. Vương phi mỉm cười:
– Hai cháu theo chú thím đã ba năm. Hãy về hàn huyên với
phụ vương đi. Mang cả Chân Phương theo.
Phủ Vũ Uy nằm giữa phủ Hưng Ninh, Chiêu Quốc. Mỗi phủ
tọa lạc trong một trang trại rộng 10 mẫu.
Phủ Hưng Ninh kiến trúc rất đặc biệt: ngôi nhà chính bằng
gỗ, vuông vức. Mái bằng gạch xanh. Ngôi
nhà dựng trên bệ đá xanh, cao đến hơn 2 trượng (4 m ngày nay). Bốn
bên có bậc đá xanh đi lên. Xung quanh có bốn dẫy nhà nhỏ. Trong sân có tượng
Phật Di Lặc với 5 đứa trẻ trên bụng.
Ngược lại Phủ Chiêu Quốc là một ngôi nhà lớn hình vuông. Bốn bên có bốn dẫy nhà
nối với chính thất. Trong trang trại có hồ, giữa hồ là một thủy các. Trong phủ
người ra vào rầm rập.
Cổng phủ Vũ Uy là những khối đá chồng lên nhau. Ngôi
nhà chính có hai tầng. Tầng dưới tường
bằng đá xanh. Tầng trên bằng gỗ. Cổng phủ không có Thị vệ canh gác.
Xe, ngựa cùng đoàn tùy tùng chạy thẳng vào trong sân. Một
phụ nữ trung niên dáng người thanh nhã, trang phục giản dị: quần lụa đen, áo
cánh mầu mỡ gà đang đứng giữa sân, tươi cười tiếp đón, đó là Thái phi Mai Đông Hoa. Cạnh
bà là Địa Lô, Cao Mang, Đại
Hành, Kha Li Đa, Thúy Hồng, thêm một thiếu phụ trang phục vương phi hoa lệ, và
10 thiếu nữ cực kỳ xinh đẹp.
Vương phi Ý Ninh hỏi Địa Lô, Đại Hành:
– Các cháu về thăm nhà sao mau vậy?
Đại Hành đáp:
– Song thân Địa Lô qua đời lâu rồi. Chỉ mình cháu còn mẫu
thân. Sau khi bái lậy mẫu thân, mẹ con ăn với nhau bữa cơm, mẹ cháu khuyên:
việc nước trước, việc nhà sau, phải đi Thiên trường ngay. Vì vậy cháu cùng Địa
Lô lấy ngựa về đây.
Dù là tước vương, cầm quyền nghiêng nước, nhưng xa cách
mẹ đã ba năm, vừa thấy thân mẫu, Vũ Uy vương cũng không giữ được xúc động, chân
tay vương run run. Vương, vương phi xuống xe hành đại lễ:
– Hài nhi bái kiến mẫu thân.
Mai Thái phi vẫy tay:
– Miễn
lễ ! Miễn lễ.
Thiếu
phụ cung tay hướng vương, vương phi :
– Em
kính cẩn ra mắt anh chị.
Mai
thái phi chỉ thiếu phụ :
– Đây
là Chiêu Quốc vương phi. Nhũ danh Lê Hương Thủy. Hương Thủy nức tiếng văn hay,
chữ tốt, uyên thâm Nho học, xuất khẩu thành thơ. Tiếc rằng chưa tập võ.
Ý Ninh
cầm tay Chiêu Quốc vương phi :
–
Chúng mình là chị em dâu, mà từ khi chú Ích Tắc cưới em về, chị em ta chưa từng
gặp nhau. Chú Ích Tắc thay anh trấn ngư Bắc cương, em là đấng nữ lưu có văn
tài, sao em không ở trên ấy giúp chồng mà về đây ?
– Thưa
chị phụ hoàng triệu hồi anh Ích Tắc về họp, nên em về theo đấy chứ.
Vương phi Hương Thủy tiếp :
– Anh
Ích Tắc luôn nhắc đến chị : mưu thần, chước thánh ; kiếm pháp thần
thông. Em ước ao được một phần mười tài
trí như chị thì cũng thỏa lòng rồi.
Vương
phi Ý Ninh mở cái bọc lớn ra : trong nào gấm Thục, lụa Tô châu, ngọc Sơn
tây, nào son, nào phấn, nào nước hoa, lại có cả sâm Cao ly. Phi bầy lên cái án
thư ; rồi cùng vương chắp tay, cung cung, kính kính hành lễ với Thái
phi :
–
Chúng con tuy xa mẫu thân, nhưng lòng nào có quên. Con mang quà về dâng mẫu
thân đấy.
Thái
phi cảm động, bà cầm lấy cái vòng vàng đeo tay, trên dát 9 viên kim cương lóng
lánh :
– Ừ,
những sản phẩm của Trung nguyên không dễ gì kiếm ra được ở trong nước.
Ý Ninh
mở bọc khác lấy ra cặp vòng ngọc bích xanh biếc đeo vào tay Hương Thủy :
– Chị
tặng em đấy. Cặp vòng này chị mua tại Yên kinh. Người đẹp như em phải đeo vòng ngọc
mới phải.
Ý Ninh
nói với Mai thái phi :
– Con xin mẹ tha cho vợ chồng con cái tội bất
hiếu, không ở cạnh phụng dưỡng mẹ. Từ khi chúng con kết hôn, vì quốc sự chúng
con không được thần hôn, định tỉnh trong
lòng chúng con luôn khắc khoải, bồn chồn không yên.
Thái phi cầm tay Ý Ninh :
– Mẹ thực có
phúc mới được dâu tài trí như con. Cứ mỗi lần có tấu chương của hai con gửi về,
phụ hoàng đều cho mẹ đọc. Con ơi! Quốc sự trên hết. Hai con đã làm truyện vá trời
thì sao có thể báo hiếu mẹ nhỉ?
Bà chỉ vương phi Chiêu Quốc:
– Phủ Chiêu Quốc cạnh phủ của con. Vương phi Hương Thủy
biết con không ở nhà, trong phủ thiếu thốn đủ thứ, nên phi sang giúp mẹ làm
tiệc tẩy trần cho các con đấy.
Không thấy mẹ sữa Dư Hạo, vương
hỏi :
– Mẫu thân ! Mẹ Hạo đâu rồi ?
– Dư bà đang điều động đầu bếp làm tiệc tẩy trần. Để mẹ
mời Dư bà lên.
Một cung nữ xuống nhà bếp, lát sau, một phụ nữ, dáng người
thanh thoát, tuổi khoảng 42-43 trang phục giản dị từ bếp lên đại sảnh :
– Dư Hạo xin
tham kiến vương gia, vương phi.
Thấy mẹ sữa, tình cảm hồi thơ ấu bừng bừng sống dậy: khi
vương đau yếu bà bế bồng, dỗ dành. Khi thì bà tắm rửa cho vương. Khi thì bà đút
cơm cho ăn. Không tự chủ được, vương ôm lấy lưng bà:
– Mẹ Dư! Vạn dặm xa xôi lúc nào con cũng tưởng nhớ đến
mẹ.
Dư bà cảm động rơm rớm nước mắt:
– Vương gia, vương phi phải bôn ba hải ngoại, tiểu tỳ lo
lắng vô cùng. Nhưng tin tức của vương gia tiểu tỳ vẫn được Thái phi báo cho đầy
đủ.
Vương phi Ý Ninh lấy một nén vàng (10 lượng), một cây
gấm Thục, một cây lụa Tô Châu trao cho Dư bà:
– Xa quê hương, lúc nào anh Nhật Duy cũng nhắc đến mẹ
luôn. Chúng con mang quà về biếu mẹ đây.
Dư bà cảm động, cầm vàng, cây lụa, cây gấm. Vương phi
lại đeo vào cổ Dư bà chuỗi ngọc mầu tím:
– Chuỗi ngọc này chính tay anh Nhật Duy chọn để làm quà
cho mẹ Dư đây. Con nghe nói em sữa của anh Nhật Duy là Dư Anh học rất giỏi.
Bây giờ em ở đâu?
– Cảm ơn phi chiếu cố đến nó. Hiện nó là gia tướng trong
phủ Chiêu Quốc.
Vũ Uy vương buông mẹ sữa ra, hai tay vương nắm lấy hai
tay bà, mặt nhìn mặt. Vương nhìn từ mái tóc óng mượt, cho tới bờ vai, ngực,
toàn thân bà. Vương nghĩ thầm:
– Đây là nguồn yêu thương, là nguồn hạnh phúc suốt mười
năm liền của mình đây. Bộ ngực này mình từng rúc dầu vào làm nũng, từng dài mồm
ra bú đây.
Dường như Dư bà hiểu được lòng vương. Nước mắt bà chảy
dài trên má.
Mai Thái phi
nắm tay Kha Li Đa:
– Con có biết tiếng Việt không?
Kha Li Đa chắp tay:
– Dạ con mới học, nhưng những lời Thái phi nói, con hiểu hết.
Ý Ninh chú ý thấy có 10 thiếu nữ phục dịch phong thái khác
thường. Nhìn y phục phi biết đó không phải là cung nữ. Người nào cũng đẹp mượt
mà, lưng ong, mắt phượng, da trắng. Nhất là dáng đi uyển chuyển . Phi nói với
Thúy Hồng:
– Em coi! 10 cô bé này xinh đẹp kém gì Đông hoa ngũ tiên.
Thúy Hồng nắm tay một cô:
– Mười cô này đẹp hơn bọn em nhiều. Cả mười như những
bông hoa ban mai, tươi thắm. Còn bọn em bây giờ thành hoa mùa Thu, thành đồ cổ
rồi.
Vũ Uy vương xua tay:
– Em đừng nói vậy, năm cô Đông hoa tuổi mới hai mươi,
hai mốt, hoa đang độ khoe sắc, sao gọi là đồ cổ được nhỉ? Nếu các em thành đồ
cổ thì chị Ý Ninh cũng thành đồ cổ sao?
Ý Ninh hỏi Thái
phi:
– Mẹ ơi! Mấy cô bé này là...
– Con thử đoán xem?
Phi thấy mẹ chồng đầm ấm thì đùa:
– Con chắc mẹ bay lên Cung Quảng, đem mấy cô tiên nữ
trên ấy xuống đây. Mẹ ơi! Mẹ cho con vài ba cô đi!
– Con muốn vài ba cô để làm gì?
– Con sẽ dạy các cô ấy thuật bắt nai, rồi gửi sang Mông
Cổ, bắt hồn các tướng Mông Cổ.
– Thế thì mẹ
cho con cả 10 đứa đấy. Còn thuật bắt nai ư? Cả 10 đều được học rất kỹ, kỹ hơn
cả Đông hoa nữa.
Vào thời Lý, thời Trần, các vương hầu, phú gia thường bỏ
tiền ra mua các thiếu niên nam nữ về làm gia bộc. Đối với các gia bộc, chủ toàn
quyền bán, cho, hoặc dựng vợ gả chồng. Bây giờ Thái phi phán cho con dâu cả mười
thiếu nữ, thì đó là một mệnh lệnh.
Vương phi Ý Ninh tưởng mình chỉ đùa với mẹ cho vui thôi,
không ngờ Mai thái phi tin là thực. Khi bà nói dứt thì cả mười cô đều quỳ gối
hành lễ:
– Bọn thần xin bái kiến vương phi. Từ nay bọn thần sống
gửi thịt, chết gửi xương theo phi.
Phi vung tay, một kình lực êm dịu đỡ các nàng dậy:
– Các em không nên đa lễ. Chị chỉ lớn hơn các em ba, bốn
tuổi, thôi chúng mình xưng hô như chị em cho thân mật.
Vương kinh ngạc hỏi mẹ:
– Mẹ ! Mấy cô bé này mẹ tuyển ở đâu vậy?
– Con ơi! Chuyện như thế này! Sau khi nhận được biểu chương
của hai con tâu về việc dùng hai con bé Đông
hoa Hồng
Nga, Thúy Trang bắt hai tướng Mông Cổ là Hoài Đô, A Truật như bắt nai non. Linh
Từ Quốc mẫu bàn với mẹ rằng tại sao ta không đào tạo thêm vài chục con bé nữa, để
dùng hoa thay kiếm kích đánh với Mông cổ? Đại Việt mình có hằng triệu giai
nhân, nếu vơi đi trăm giai nhân, cũng
chẳng sao! Ta dùng quần thoa đương kiếm-kích mà!
Thúy Hồng vận Mật tông, nàng nghe được Vũ Uy vương đang
nghĩ gì:
– Mười cô bé xinh đẹp này mà vào tay Ý Ninh thì triều đình
Mông cổ nghêng ngả mất.
Bất giác Thúy Hồng kính phục vương:
– Đàn ông ai thấy sắc, thanh cũng rung động hết. Thế mà
vị vương gia này tuổi còn trẻ, đẹp đến như bẩy nàng Tô lịch, với năm đứa mình.
Cao nhất là Mông Ca, Hốt Tất Liệt, dĩ chí
các danh tướng Mông cổ ai cũng rung động hết. Thế mà vương rửng rưng. Bây giờ
10 cô này rực rỡõ như hoa, mà vương cũng không chú ý. Thực là đại trượng phu,
thực là đại chính nhân quân tử.
Thái phi cười, vuốt tóc Thúy Hồng:
– Thế rồi, Quốc mẫu với mẹ cùng đi thăm hết các trường,
các phường, tuyển được 50 giai nhân. Quốc mẫu chia chúng thành năm đội, mỗi đội
10 đứa. Người đặt tên cho chúng là đội Kim, đội Ngọc, đội Ngân, đội Ngà, và đội
Thúy. Sau khi huấn luyện, Quốc Mẫu giữ 10 đứa đội Kim. Mẹ giữ 10 đứa đứa đội Ngọc. Chiêu Minh vương
phi giữ 10 đứa đội Ngân. Chiêu Văn vương phi giữ 10 đứa đội Ngà. Chiêu Quốc vương
giữ 10 đứa đội Thúy. Mười đứa này đều có tên là Ngọc. Lớn nhất là Ngọc Minh,
rồi tới Ngọc Đức, Ngọc Thiên, Ngọc Hạ, Ngọc Tiên, Ngọc Trị, Ngọc Kỳ, Ngọc Quốc,
Ngọc Trí, Ngọc Cách. Mẹ đặt cho đội ca này là Thập ngọc Tây hồ.
Vương phi Ý Ninh lấy ra mười bông hoa bằng vàng, trên
dát hồng ngọc. Phi thân cài lên tóc cho 10 cô Ngọc mỗi người một chiếc:
– Chị tặng cho các em làm quà diện kiến.
Mười nàng Ngọc cảm động, nước mắt nhỏ giọt, liếc nhìn
vị vương phi, mà các nàng từng nghe nói: xinh đẹp, ôn nhu, văn nhã; kiếm thuật
thần thông; cử bút thành văn, bẩy bước thành thơ. Bây giờ thành chủ nhân của
mình, đến nằm mơ các nàng cũng không ngờ tới.
Phi chú ý tới hai thiếu nữ Ngọc Đức, Ngọc Thiên: môi hồng,
mắt phượng, gương mặt sáng rở, tóc óng mượt, lưng thon, ngực nở, dáng đi yểu điệu
thì khen thầm:
– Hai cô bé này đẹp hơn năm cô Đông hoa đã đành mà còn
muốn hơn cả Tô lịch thất liên nữa. Nếu đem sang Mông cổ thì sẽ bắt hồn được bọn
thân vương, đại tướng.
Phi để cho vương hàn huyên với mẹ, với vú Dư. Phi vẫy
hai nàng theo ra vườn hoa, không có ai bên cạnh. Phi tát yêu rồi nói:
– Chà hai em đẹp quá. Chị định gả hai em cho hai tướng
trẻ Mông cổ. Hai em có bằng lòng không?
– Chỉ sợ bọn em còn quá trẻ, e không làm tròn bổn phận
phi trao cho. Vì bọn em không biết tiếng Mông cổ.
– Hai tướng này là người Việt, chỉ hơn các em hai ba tuổi
thôi. Họ là con của hai kị mã Long biên, theo phò mã Trần Thủ Huy với công chúa
Đoan Nghi sang Mông cổ từ thời Thành Cát Tư Hãn. Hai người này tuy sinh trưởng
ở Mông cổ, tuổi 20 mà đã lên tới Vạn phu trưởng. Thế nhưng cả hai đều luôn hướng
về Đại Việt. Một người tên Trần Mạnh Quốc. Một người tên Vũ Cao San. Chị sẽ tâu xin
triều đình đứng ra gả hai em cho hai tướng này. Như vậy song thân các em sẽ được
ban hàm tước, cũng như ruộng công điền.
– Đa tạ phi. Chúng em có phải làm nhiệm vụ Tây Thi không?
– Bắt buộc.
– Hai em phải giữ kín truyện này nghe. Dù cha mẹ cũng
không tiết lộ.
Ba người trở vào đại sảnh.
Kha Li Đa cung tay:
– Khải Thái phi. Mấy em này đẹp quá! Con là gái mà còn
mê, huống hồ các đấng nam nhi. Con mới học tiếng Việt thôi, con nhớ có câu:
tiền chủ, hậu khách. Sao Thái phi không gả những tiên nữ này cho các tướng của
mình trước. Còn dư hãy mang sang Mông Cổ. Con thấy mình có nhiều tướng chưa vợ.
Xa thì con không biết, trước mắt có anh Đại Hành vẫn còn phất phơ giữa chợ. Con
nghe nói hơn năm qua anh ấy ở Hoa lâm, có không biết bao nhiêu tiểu thư, quận
chúa muốn chiêu làm chồng, mà tim anh ấy bằng thép, dạ bằng gang, nên không thèm
ngó tới các nàng. Nhưng nào ngờ anh chàng trên đường về thăm mẹ, vừa gặp một
nàng cô bé bán hàng rong bên bờ hồ Tây bị cô ấy bắt mất hồn. Lại còn bẩy tám Ngưu tướng, Ngạc tướng nữa vẫn chưa có người sớm tối bên
nhau.
Kha Li Đa lại chỉ vào ba nàng Ngọc Hạ, Ngọc Tiên, Ngọc
Trị :
– Trong mười cô, cô nào cũng đẹp cả. Nhưng ba cô này,
mắt đen, sáng lung linh, mỗi khi cười thì đẹp
đến bay hồn lạc phách người nhìn; cả ba cô đều dễ làm người ta siêu
lòng. Nếu phi gả cho Mông cổ thì cần gả cho những tướng võ. Các ông ấy võ công
càng cao, càng dễ ngã vì nụ cười. Hiện cạnh Mông Ca, có ba tướng chỉ huy Cấm quân chưa ông nào có vợ cả.
Ba ông này thấy các chị Tô lịch, Đông hoa là dán mắt vào, nước miếng nuốt ừng
ực. Nếu gả ba cô bé này cho mấy ông ấy thì phi nói gì các ông ấy cũng phải
nghe.
Thái phi hỏi:
– Đó là những tướng nào vậy?
– Nếu con nhớ
không lầm thì ba ông này là Kim Đại Hòa, hàm Ưng phi tướng quân, Tổng lĩnh Thị
vệ. A Mit Lỗ Tề hàm Hùng uy tướng quân,
Tổng quản Thái giám cung nga. Đi Mi Trinh, hàm Hổ uy tướng quân, Tổng lĩnh Cấm
quân,
Vũ Uy vương nghe cô gái Hồi lý lắc, tuy đùa
vui, nhưng đây là việc hệ trọng không nên bỏ qua. Kết quả vụ Hồng Nga, Thúy
Trang, Thanh Nga, Thúy Nga đang sáng chói. Vương đưa mắt nhìn phi.
Vương phi Ý Ninh chợt nhớ đến hôm ở điện Quang Minh,
phi đã hứa hỏi vợ cho mấy ông
này. Phi hỏi ba nàng Ngọc Hạ, Ngọc Tiên, Ngọc Trị:
– Ừ, ba em đẹp thế này thì phải gả cho ba thiếu niên anh
hùng kia mới xứng. Trong ba tướng thì Kim Đại Hòa là người Việt. Chị gả Ngọc Hạ
cho y. Còn A Mít Lỗ Tề thì chị gả Ngọc Tiên cho. Cuối cùng Đi Mi Trinh chị gả
Ngọc Trị cho.
Giọng nói của phi ngọt ngào, nhưng uy nghiêm. Ba nàng biết đây là mệnh lệnh. Cả ba
quỳ gối xuống hành đại lễ:
– Bọn thần muôn vàn cảm tạ phi đã tác thành cho mối lương
duyên.
Vương phi Ý Ninh nghĩ thầm:
– Thế là 10 cô Ngọc thì một cô dã có chồng. Mình gả 5 cô
rồi. Còn bốn cô, không biết ai sẽ được hưởng diễm phúc này?
Kha Li Đa chỉ vào Địa Lô:
– Còn lại mấy nàng, xin phi gả cho cái anh chàng đẹp trai,
mà duyên tình lôi thôi này một cô. Con nghe nói, trước kia anh í có tình ý đã
gắn bó với công chúa Như Lan thuộc phủ Kiến Bình vương tại Cao ly; rồi không
biết sao, để Như Lan làm vợ cái ông Thái tử Cao ly. Mà hỡi ôi, ông ta chỉ là
cục bột mà thôi. Hình như ca dao có câu:
Tiếc thay cây quế
giữa rừng,
Để cho thằng Mán,
thằng Mường nó leo.
Lập tức Ngọc Minh kéo nhị, Ngọc Đức thổi tiêu, rồi Ngọc
Trí cất tiếng ca theo điệu Quan họ, rồi đổi sang điệu hát Xẩm.
Thúy Hồng khen:
– Em hát hay thực. Các em biến sang điệu Ru em, Trống
Quân đi.
Ngọc Tiên cất tiếng hát theo điệu Ru em, hơi nàng dài,
buồn rười rượi, rồi chuyển sang điệu hát Trống quân vui tươi.
Kha Li Đa vẫn không tha Địa Lô:
– Rồi vương phi Mông Cổ là Thúy Nga gả đệ nhất mỹ nhân
Dương châu cho anh í! Thế mà anh í lại để nàng lọt sang tay anh Yết Kiêu. Bây
giờ Như Lan chết rồi anh ấy mới thấy tiếc. Chúng con đã bàn định ở Phù lỗ: anh
í phải ở vậy suốt đời, không được tơ tưởng đến nàng nào để tạ lòng Như Lan!
Sáng nay anh ấy làm cơm cúng Như Lan, khóc đến sưng mắt lên. Mà chả biết Như
Lan có kịp từ Mông cổ về ăn không?
Bị Kha Li Đa tấn công trước mặt Thái phi, Địa Lô đành mỉm
cười, không biện luận. Kha Li Đa hỏi Thúy Hồng:
– Chị Hồng ơi! Anh Địa Lô cười như thế này là cười cộng
hay cười nhân?
Mọi người đều bật cười. Địa Lô biết nàng muốn nói tiếng
cười trừ, mà quên mất. Tử trêu:
– Không phải cười cộng hay cười nhân đâu mà là cười chia
đấy.
Mọi người cười rộ.
Thái phi tát yêu Kha Li Đa:
– Con nói thực phải. Nhưng con ơi! Chí khí năm con chim
ưng này cao lắm. Bắt mấy anh ấy lấy vợ thì e khó hơn bắc thang lên trời. Trong
năm người thì Dã Tượng trúng tuyển Thanh Nga rồi để Mông Cổ bắt mất. Nay vẫn chưa
có ai. Yết Kiêu bị Vương
Chân Phương cột chân rồi. Còn con, con nhờ thánh A La phù hộ nên
bắt được Cao Mang. Còn lại Đại
Hành, tuy chưa cưới vợ, nhưng cũng như có vợ. Con nói Đại Hành vừa về nước đã
bị bắt, thế truyện ra sao?
Kha Li Đa kể:
“ Sáng nay vương
phi cho phép anh Cao Mang, Đại Hành, Địa Lô, chị Thúy Hồng với con rời sứ đoàn
về thăm nhà. Chị Thúy Hồng tách ra về Kinh Bắc. Anh Địa Lô tách ra về Gia lâm.
Chỉ còn anh Cao Mang, Đại Hành vào thành Thăng long. Khi chúng con qua
chùa Trấn Quốc, thì đã trưa, chúng con gặp hơn chục hàng quà rong. Anh
Cao Mang cho
chúng con ăn bún riêu, rồi bún ốc. Có một cô bé đẹp lắm: lưng ong, mắt bồ câu,
mũi dọc dừa, ngực nở căng đon đả mời bọn con ăn bánh tôm Hồ Tây.
Anh Đại Hành thấy
cô bé đẹp não nùng, đẹp ủy mị thì dán mắt vào người nàng không rời. Anh xin
nàng rán cho ba người chúng con, mỗi người ba cái bánh tôm. Nhưng anh ấy không ăn
mà cứ ngây người ra nhìn, làm cô bé xấu hổ. Cô bé hỏi:
– Em có gì lạ mà
khách quan nhìn kỹ vậy?
Anh Đại Hành trả
lời:
– Cách đây ba năm,
tôi có gặp một cô bé, bé lắm, giống cô, nhưng không đẹp bằng cô.
– Thế rồi quan
khách cưới cô làm vợ phải không?
– Không! Vì khi
gặp cô thì tôi phải có việc đi xa. Tôi chỉ gặp có một lần, rồi xa nhau.
– Thế trong thời
gian xa cách, khách quan có tưởng nhớ đến nàng không? Tôi đoán quan khách quên
tiệt rồi!
– Không! Tôi
nhớ cô ấy vô cùng, ngày nhớ, đêm nhớ, ăn
nhớ, ngủ nhớ.
– Vậy bây giờ
quan khách về đây tìm cô ấy phải không?
– Đúng vậy. Nhưng
cô ấy còn bé lắm, không đẹp bằng cô!
– Bé gì mà bé. Nữ
thập tam, nếu 3 năm trước khách quan cưới
nàng thì bây giờ ít ra nàng đã tay bồng, tay mang rồi.
– Bây giờ thì
nàng cũng lớn rồi. Không chừng nàng chính là cô đấy.
– Khách quan khéo
đùa thì thôi! Vừa gặp tôi mà khách quan đã lẳng lơ, quên cô ấy rồi! Từ nẫy đến
giờ khách quan thả đến năm sáu con dê ! Đàn ông thế đấy! Vậy mà miệng leo lẻo
nhớ cô bé. Hư!
– Cô đừng hiểu
lầm! Tôi khen cô đẹp vì đó là sự thực, chứ giết tôi, tôi cũng không bỏ nàng.
Trong lòng tôi chỉ có nàng thôi!
– Tìm nàng như
tìm chim. Ba năm qua rồi. Ví thử cô ấy lấy chồng mất thì khách quan tính sao?
– Aáy! Cô đừng
nói gở. Tôi tin rằng cô ấy vẫn chờ tôi. Biết đâu cô bé đó là cô thì sao?
– Hư! Anh định
chim tôi đấy à? Tôi là gái có chồng. Chồng tôi giỏi võ lắm. Anh mà chim tôi thì
chồng tôi sẽ đánh cho nhừ đòn.
Đến đây anh
Cao Mang với
con về thăm nhà. Truyện đó ra sao chỉ có anh Địa Lô biết. Không ngờ anh Đại
Hành lại lẳng lơ đến thế. Đi khắp bốn phương, vừa về đến nhà gặp cô bé bán hàng
rong là hồn phách bay phơi phới!”
Địa Lô thuật
tiếp:
“ Chúng con đến
nhà anh Đại Hành. Ngôi nhà khá khang trang, trong vườn hoa nở thơm rực. Lão mẫu
đang ngồi trên ghế ngoài sân. Thấy Cao Mang bà bật lên tiếng kêu mừng rỡ, rồi ôm lấy con, nước
mắt đầm đìa:
– Con về đấy à!
Thảo nào mấy hôm nay có con quẹt nó cứ đậu trên cây thị nó kêu suốt ngày.
Bà kể:
– Từ ngày con đi,
Thái sư Thủ Độ sai quan Trưởng sử hằng tháng tới thăm mẹ, lần nào vương cũng
ban lụa, vải, thịt gà, thịt lợn, trái cây cho mẹ. Bổng của con, người sai quan Phủ
khố phát cho mẹ, không thiếu đồng nào. Vì vậy nhà cũng dư giả. Nhiều lần Thái sư
thân tới thăm mẹ. Quả thực nhà mình có phúc, con mới được gặp người.
Bà chỉ lên bàn
thờ:
– Hồi con được
phong tước Nam, cả huyện kéo đến mừng. Rồi khi con được thăng Trấn Viễn thượng tướng
quân, tước Côi sơn Tử, quan Lễ bộ thượng
thư thân đến phong hàm cho mẹ, cho bố con. Triều đình cử người đem xe ngựa đến đón
mẹ về thăm ấp Côi sơn của con. Aáp của con lớn lắm, nằm dưới chân núi Côi.
Trong ấp có đền thờ vua Lê, vua Đinh. Quan huyện Yên mô nói rằng con tha thuế
cho dân trong ấp ba năm. Dân chúng mừng lắm, họ vái lậy mẹ.
Bá mẫu dẫn chúng
con vào nhà: nhà ngăn nắp sạch sẽ. Bá mẫu nói:
– Con có nhớ hồi
con sắp đi không? Bấy giờ con bé Cẩm Nhãn bán bánh tôm, nó mới 13 tuổi, nó đến đây
ở với mẹ. Một tay nó chu toàn cơm nước, thuốc thang, dọn dẹp nhà cửa, giặt quần
áo cho mẹ, nó hầu mẹ cứ y như là một dâu thảo. Mẹ bảo nhà khá giả, bổng của con
dư thừa, không phải đi bán bánh tôm nữa. Nhưng nó không nghe.
Vừa đến đó thì
cái cô bé bán bánh tôm mở cổng bước vào. Thì ra cô chính là cái cô Cẩm Nhãn mà
anh Đại Hành gặp hồi lên đường. Anh Đại Hành nói không ra hơi:
– Cẩm Nhãn, thì
ra là em. Đúng không? Anh nói em giống cô bé của anh ba năm trước có sai đâu!
Cẩm Nhãn cảm động:
– Bây giờ em đã
16 tuổi rồi, không còn là cô bé tý tẹo nữa.
– Ừ nhỉ anh
quên. Qua ba năm
mà em trổ mã đẹp như thế này đây!”.
Nghe đến đây Kha Li Đa reo lên:
– Ấy à! Thì ra cái cô bé bán bánh tôm lại chính là người
thay anh Đại Hành phụng dưỡng mẹ già! Đúng là duyên số. Mừng anh có vợ đẹp!
Đại Hành xua tay:
– Không! Cẩm Nhãn đâu phải vợ anh? Anh chưa có ý định
gì cả. Cô bé đó là người phụng dưỡng mẹ cho anh! Anh sẽ nhớ ơn cô ấy đời đời,
và đền đáp thực hậu.
Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét