HỒI THỨ TÁM MƯƠI
TÁM
Lưỡng
quốc công thần
Trong khi sự việc rung chuyển trời đất diễn ra tại Yên kinh, Khai bình,
Hoa lâm thì tại Nam Tống: sau khi Tể tướng Giả Tự Đạo ký hòa ước với Mông cổ
trở về Lâm an mặt đầy kiêu khí với Cảnh Định hoàng đế (Tống Lý Tông). *
Ghi
chú,
*
Cảnh Định
là niên hiệu của Tống Lý Tông trong thời gian 1960 – 1964.
Tống Lý Tông tên
thực là Triệu Quân, lên ngôi năm 1225, trải qua các niên hiệu:
– 1225 Bảo khánh,
– 1228 Thiệu định,
– 1234 Đoan bình,
– 1237 Gia huy ,
– 1241 Thuần hựu,
– 1253 Bảo hựu,
– 1260 Cảnh định,
– 1264 Băng năm Giáp Tý .
Triều đình Tống ngày đêm lo sợ Mông cổ bây giờ họ thấy Tống chỉ mất một
số vàng bạc tương đương với số tiền chi phí nuôi một hiệu binh trong hai năm mà
cái ách Mông cổ được gỡ ra. Cái họa kị mã Mông cổ đốt nhà giết tuyệt cả một
huyện, một thành phố không còn nữa thì mừng chi siết kể. Giữa bữa tiệc vua tôi,
văn võ bá quan vui mừng ấy thì Khu mật viện đệ lên tấu chương của Tiết độ sứ
Ích châu, nội dung tâu chiến thắng Bồ lăng, giết Mông ca. Vương Kiên còn xin xuất
quân ra ngả Phù phong, đánh Võ đô, Hán trung, Vị Nam, Hàm dương. Xin triều đình
cho quân vượt Trường giang đánh lên tái chiếm Kinh châu.
Giả Tự Đạo bỏ tấu chương vào túi, lệnh cho sứ giả của Vương Kiên nhập tiệc.
Tiệc tàn, Giả Tự Đạo lệnh ngày hôm sau, bách quan thiết đại triều nghe đình
nghị về chiến cuộc Ích châu và hòa ước Ngạc châu.
Hôm sau, trong buổi thiết đại
triều, khi các lễ nghi dứt, vì Tể tướng Giả Tự Đạo được ban ân: khi tâu trình
không phải xưng tên, không phải qùy. Ông bước ra:
– Muôn tâu thánh hoàng, sau hơn
tháng nghị hòa với Mông cổ , triều đình đã đạt được thắng lợi vô cùng lớn lao
là Mông cổ chịu rút về Bắc, trả lại ta 11 châu, 144 thành. Tuy nhiên từ khi động
binh họ phải chi quân phí quá nhiều, binh tướng chết vô kể. Họ đòi quân phí. Từ
ngày nghị hội đầu tiên, điều kiện họ đưa ra để ngưng chiến là ta phải nộp vàng,
bạc, lụa, và ngưng chiến tại chỗ. Tức chỗ nào họ chiếm được, họ giữ nguyên. Ta
thì đồng ý nộp vàng lụa, nhưng không chịu cắt đất. Thế nhưng buổi hội cuối
cùng, họ lại đồng ý rút quân về Bắc, trả ta 11 châu, 144 thành. Thực nằm mơ
thần cũng không thể tưởng nổi. Chỉ mới hai ngày qua thôi, mà họ đã rút quân
sang bên kia sông hết rồi.
Ông tự hào:
– Còn vàng, bạc, gạo nộp cho họ còn ít hơn quân phí một hiệu binh trong
hai năm. Không biết bệ hạ cùng triều đình có gì cần nghị không?
Một văn quan bước ra tâu:
– Thần Văn Thiên Tường, Khu mật viện sứ xin kính tâu: Mông cổ đang khăng
khăng đòi đất, rồi thình lình mềm như con chi chi, nhận tất cả điều kiện của ta
vì họ đại bại tại Ích châu. Đại Hãn của họ bị ta giết chết. Mông cổ đang có
cuộc tranh dành ngôi Đại Hãn giữa hai người em của Mông Ca là Hốt Tất Liệt với
A Lý Bất Ca. Hốt Tất Liệt chịu điều kiện của ta, để y rút quân về Bắc tranh
thắng với A Lý Bất Ca.
Từ nhà vua cho đến văn võ bá quan nghe tin quân Tống giết Đại Hãn của
Mông cổ đều kinh ngạc, mở to mắt nhìn nhau ngỡ ngàng.
Nhà vua hỏi:
– Khanh tâu chi tiết hơn về việc Mông Ca bị giết.
Sứ giả tâu trình chi tiết các trận đánh Điếu ngư, Trường thảo, Bồ lăng.
Cuối cùng kết luận:
– Khi thần lên đường về đây thì Vũ Uy vương, Vương Tiết độ sứ đang ra
quân đánh như sét nổ, tái chiếm lại toàn bộ Tứ xuyên. Mông cổ đã rút hết quân
từ Ích châu về Hàm dương. Vương
Tiết độ sứ muốn xin bệ hạ chấp thuận cho người khôi phục
lại Đông xuyên, Tây xuyên, xuất binh ra Tà cốc chiếm Phù phong, Vị Nam, Hàm
dương, Lâm đồng. Người xin triều đình xuất quân tái chiếm Kinh châu.
Giả Tự Đạo lắc đầu:
– Vương Kiên bị
Mông cổ đánh chiếm gần hết Tứ xuyên, sức cùng, lực kiệt. May nhờ Đại Việt viện
binh, xuất kỳ bất ý mà thành công. Mông
Ca tuy chết, nhưng các tướng của y đâu có hèn? Mông cổ ở vùng ấy còn tới 30 vạn
kị binh như hùm, như hổ. Bây giờ Vương
Kiên định đem mấy hiệu binh ọp ẹp chọi với chúng e chết
uổng mà thôi. Xin bệ hạ ban chỉ cho Vương Kiên: chỉ nên tái
chiếm lại Ích châu là có đại công lớn vô cùng. Triều đình đã ký hòa ước với
chúng, để được yên rồi. Không nên chọc chúng nữa.
Quản Khu mật viện Văn Thiên Tường cãi:
– Từ trước tới nay Hốt Tất Liệt muốn lấn áp Mông Ca. Vì vậy Mông Ca mới
lập ra Câu khảo cục để tỉa bớt vây cánh của y, rồi thu binh quyền, đem y về Hoa
lâm ngồi chơi. Mông Ca đem quân nghiêng nước vào đánh Trung nguyên, chính y
thân chinh đánh Tứ xuyên, còn mặt trận phía Đông y trao cho Tháp Sát Nhi. Vì bị
ta đánh bại, nên Tháp Sát Nhi bị Mông Ca cách chức trao cho mặt trận phía Bắc.
Bất đắc dĩ Mông Ca phải gọi Hốt Tất Liệt ra thay thế.
Ông ngừng lại cho mọi người theo kịp, rồi tiếp:
– Đúng ra Mông Ca là con cả của Đà Lôi chết, thì con thứ là Hốt Tất Liệt
sẽ lên thay. Đây Mông Ca để di chiếu cho em thứ ba là A Lý Bất Ca thay, thì đời
nào Hốt Tất Liệt chịu ngồi yên? Y phải đem quân về tranh ngôi với A Lý Bất Ca.
Chính vì vậy y buông mặt trận Ngạc châu, đem quân về Bắc. Cho nên mới hôm trước
y nằng nặc đòi giữ 11 châu, 144 thành; mà hôm sau y đổi thái độ. Mông Cổ đang
có nội chiến. Tại sao ta không nhân dịp này quét chúng khỏi Trung nguyên? Vương Kiên có lý khi muốn xuất
binh đánh ra Hàm dương. Ta cũng nhân dịp này đánh thốc lên Bắc phục hồi cố thổ!
Thế rồi văn võ bách quan cùng nhau tranh luận. Cuối cùng nhà vua ngả
theo phe Giả Tự Đạo:
– Suốt bao năm qua, ta chịu binh ách khổ cùng cực. Kho lẫm, quốc khố
trống rỗng. Binh tướng chết quá nhiều. Bây giờ Hốt Tất Liệt chịu trả đất, rút
binh, là dịp bằng vàng. Ta tạm thời ngồi trông anh em Hốt Tất Liệt tranh
dành. Cuộc nội chiến này ít ra phải 3 tới 5 năm. Hai cọp tranh thắng, cuối cùng
một cọp chết, một cọp bị thương, trong khi ta huấn luyện, bổ xung quân khí, phục
hồi kho lẫm. Bấy giờ ta quay lên tranh phong với chúng cũng chưa muộn.
Nhà vua ban chỉ:
– Triều đình ghi công Vương
Kiên cùng tướng sĩ Tứ xuyên. Binh bộ hãy xét công lao, phủ
tuất gia đình tướng sĩ vị quốc vong thân. Thăng thưởng cho tướng sĩ có công. Đối
với Vũ Uy vương và binh tướng Đại Việt thì tùy nghi, nếu họ muốn ở lại giúp ta,
ta điều hai hiệu binh thiện chiến này trấn tại Tương dương, Phàn thành. Nếu họ
muốn rút về thì triều đình gửi sứ sang tạ ơn Quốc vương Đại Việt, xin thăng
thưởng cho tướng sĩ Việt có công.
Văn Thiên Tường tâu:
– So với Đại Việt thì Tống là đại quốc. Binh tướng Đại Việt sang đây xả
thân vì Tống, thì Tống nên xét công thăng thưởng cho họ. Họ có thể có chức tước
của Đại Việt, nay thêm chức tước của Tống, họ càng thêm hãnh diện. Nhất là hiệu
binh Thiệu Hưng, họ gồm các Hoa kiều tài trí ở Đại Việt. Họ bỏ đời sống an
nhàn, về nước đánh Thát đát. Triều đình cần phong chức tước cho họ. Lại sai sứ
sang Đại Việt phong hàm cho cha mẹ của họ.
Nhà vua nhỏ nhẹ:
– Trẫm chuẩn lời tâu của Văn Thái phó. Vậy Binh bộ, Lễ bộ xét công tâu
lên để thăng thưởng cho họ càng sớm càng tốt.
Nhà vua suy nghĩ một lát rồi tiếp:
– Trẫm nghe Vũ Uy vương, vương phi là những người có tài đại tướng, lại
là những đấng bút mặc văn chương. Trẫm khẩn khoản kính mời vương, vương phi
cùng các đại tướng Việt tới Lâm an, để triều đình tỏ lòng ngưỡng mộ. Không biết
ai đi sứ được đây? Phải mời cho được ba đại tướng có mỹ danh Dã Tượng, Yết
Kiêu, Đại Đởm Nguyễn Thiên Sanh.
Giả Tự Đạo tâu:
– Vũ Uy vương, vương phi có tài dùng binh như Tôn- Ngô, võ công cao
không biết đâu mà lường. Cả hai lại là những đấng tài tử, bút mặc văn chương.
Vậy cần phải có một danh sĩ đi sứ thì mới tỏ ra triều đình trọng vọng vương.
Trấn Viễn đại tướng quân Giả Nghị tâu:
– Danh sĩ tại triều thì nhiều vô kể. Thần xin tiến cử một trong ba vị là
Lưu Khắc Trang, Tạ Phương Đắc, Văn Thiên Tường.
Nhà vua trì nghi:
– Nên cử hai vị là Thái phó Văn Thiên Tường và Phong đô hầu Tạ Phương Đắc.
Trẫm nghe khi Tạ Phương Đắc từ Thục về triều, thì Vũ Uy vương phi gửi hai sư đệ
là kiếm thuật danh gia theo hộ tống. Hôm trước Tạ Phương Đắc nhục mạ thậm từ Tể
tướng bị đầy ra Hưng quốc quân. Vậy hãy ban chỉ ân xá cho Phong đô hầu, khiến
hầu đem hậu lễ vào Thục mời Vũ Uy vương, vương phi và những đại tướng Việt có
công về triều. Triều đình phải tổ chức tiếp đón thực long trọng, để tỏ lòng tri
ân.
Tại Thành đô, sau khi quân Mông cổ rút khỏi Ích châu,
thì Vương Kiên, Gia Huyễn Ông
bận rộn vô cùng, vì phải lo phối trí lại lực lượng, tu bổ các thành trì, tái
huấn luyện binh tướng, bố nhiệm các quan văn võ mới. Những việc này Vũ Uy vương
không giúp gì được cả.
Vũ Uy vương cho họp các tướng hai hiệu binh Văn Bắc, Thiệu
Hưng, kiểm điểm quân số tổn thất . Hiệu Thiệu Hưng bị thiệt hại nhẹ trong trận đánh
Bồ lăng. Hiệu Văn Bắc thiệt hại chút ít trong trận Thảo trường khi giao chiến
với đội Cấm quân. Các tướng vô sự.
Yết Kiêu đặt vấn đề:
– Mục đích của triều đình là cứu viện Tống. Nay Mông cổ
đã rút khỏi Tứ xuyên. Triều Tống ký thỏa ước ngừng chiến với Mông cổ. Vậy chúng
ta rút về Đại Việt hay tiếp tục ở lại?
Dã Tượng bàn:
– Binh tướng xa nhà đã lâu. Hiện Mông cổ đang có nội chiến
khốc liệt, ta nên rút về càng sớm càng tốt.
Vũ Uy vương ban chỉ:
– Cô gia đã gửi biểu về triều. Hãy đợi chỉ dụ của
triều đình đã.
Có sứ giả của Vương Kiên đến. Sứ giả là Kiêu kị thượng tướng quân Nguyễn Văn
Lập. Sứ giả khải:
– Thưa vương gia, vương phi cùng chư tướng. Triều đình
sai hai vị sứ giả là Tạ Phương Đắc, Văn
Thiên Tường tới để thăng thưởng cho tướng sĩ Tống, Việt có công trong trận đánh
vừa qua. Vương Tổng trấn xin chỉ
dụ của vương gia.
– Hiện sứ giả ở đâu?
– Sứ giả đang ở trong thành.
– Được rồi,
chúng tôi đi ngay.
Vương cho mời tất cả các tướng soái hai hiệu binh
Thiệu Hưng, Văn Bắc từ cấp Quân trưởng lên đường vào thành.
Lễ nghi tất.
Văn Thiên Tường hướng tất cả tướng sĩ Việt:
– Hoàng thượng cùng triều đình đã gửi sứ giả sang Thăng
long, tạ ơn Thượng hoàng, Thiệu Long hoàng đế cùng triều đình Đại Việt đã mở
rộng kho lẫm giúp Tống trong cơn khốn khó. Đại Việt lại gửi binh hùng, tướng
tài trợ Trung nguyên. Triều đình sai tôi
vào đây trước là phong chức tước cho tướng sĩ hiệu binh Thiệu Hưng, Văn Bắc, sau là kính thỉnh vương
gia, vương phi cùng chư tướng về Lâm an để được diện kiến chư vị anh hùng Nam phương.
Văn Thiên Tường đọc chiếu chỉ tuyên dương công trạng cho
toàn thể binh tướng Đông xuyên, Tây xuyên, Hán trung, Thành đô đã xả thân báo
quốc.
– Vương Kiên chức tước cũ là:
Thái tử thiếu
bảo,
Trấn viễn thượng
tướng quân,
Tây xuyên quốc
công,
Ích châu Tiết độ
sứ.
Nay được thăng:
Thái tử Thái phó,
Hán trung quốc công.
Trấn viễn đại tướng quân,
Trung vũ quân
Tiết độ sứ,
– Tạ Phương Đắc, chức tước cũ là :
Binh bộ tham tri,
Khu mật viện sứ,
Thái tử thái bảo,
Phong đô hầu,
Nay được thăng:
Thái tử thiếu sư,
Binh bộ thượng thư,
Phó quản Khu mật viện,
Phong đô công.
Bình Tây đại tướng quân.
Gia Huyễn Ông chức tước cũ là:
Khu mật viện phó
sứ,
Thái tử thiếu sư,
Long nhương thượng
tướng quân,
Thành tâm hầu.
Giám quân Thành đô.
Nay được thăng:
Khu mật viện sứ,
Thái tử thái bảo,
Văn thành hầu.
Tổng trấn Thành đô.
Nguyễn Văn Lập chức tước cũ là:
Phó trấn thủ Điếu
ngư.
Kiêu kị thượng tướng
quân
Trung nghĩa hầu.
Nay được thăng:
Phiêu kị thượng tướng
quân,
Đại thắng hầu.
Tổng trấn Hợp
châu.*
* Ghi chú:
Tất cả chức tước cũ, và mới của bốn tướng, tôi lấy
trong bộ Tống triều công thần bi ký.
Sau khi Tống
triều mất, dân chúng các nơi lập đền thờ bốn vị tướng này, rồi tạc kia kỷ niệm.
Đến đời Thanh, vua Khang Hy ra lệnh cho hai đại thần
là Trần Hy-Cương, Tống Đạm sưu tầm tất cả văn bia các công thần Tống soạn thành
bộ sách mang tên Tống triều công thần bi ký. Bộ này soạn vào Mậu-Tuất (1718),
niên hiệu Khang Hy thứ 57. Nội dung sao chép tất cả văn bia, mộ chí các công
thần nhà Tống . Thư viện Quảng-châu, Liễu-châu, Côn minh, Thành đô đều có bộ
này.
Ngoài ra hầu hết
tướng sĩ Tống có công đều được thăng chức, ban tước. Phu nhân Minh Anh của Vương Kiên, Hoa sơn ngũ hiệp, Kim sơn tam anh, đều được thăng thưởng.
Các tướng hướng
về Lâm an tạ ơn.
Hướng về các tướng
Việt, Văn Thiên Tường nói bằng giọng đầm ấm:
– Từ nghìn xưa,
người Hán dù lưu lạc bất cứ phương nào, từ nguyên do nào, đều luôn hướng về quê
hương. Người Hán lưu lạc sang Đại Việt, được các triều đại Đại Việt ưu ái cho
kiều ngụ, tất cả đều khá giả. Nay nhân đất nước bị rợ Thát đát tàn phá, muốn
trở về quê hương đuổi giặc, được Thiệu Long hoàng đế cùng triều đình nghĩ tình Tống-Việt môi hở răng lạnh, đã cho
tổ chức thành hiệu binh Thiệu hưng rồi huấn luyện trang bị. Giữa lúc Ích châu
như ngọn đèn trước gió, hiệu binh Thiệu hưng được đem về cứu viện. Với lòng yêu
quê hương nhiệt thành, với tinh thần quyết đuổi giặc, đánh đâu thắng đó.
Ông nhìn các tướng
hiệu Thiệu Hưng:
– Triều đình
quyết định lao tưởng huân công, phong chức tước như sau:
– Đại tôn sư
Phùng Tập chức tước như sau:
Trấn Bắc thượng tướng quân,
Linh viễn đình hầu.
– Tất cả các Quân
trưởng được phong chức Uy viễn tướng quân. Tước Thiện tâm bá.
– Tất cả các Vệ
trưởng được phong chức Đô thống, tước Kiêu kị tử.
– Tất cả các Đô
trưởng được phong chức Tá lĩnh, tước Hùng uy nam.
Ghi
chú,
Phó tướng, tương dương với ngày nay là Thiếu tướng.
Tướng quân, tương đương với ngày nay là Trung tướng.
Thượng tướng quân, tương đương với ngày nay là Thượng tướng.
Đại tướng, tương đương với ngày nay là Đại tướng.
Đô thống, tương dương với ngày nay là Đại tá.
Tá lĩnh, tương đương với ngày nay là Trung tá.
Tham tá, tương dương với ngày nay là Thiếu tá.
– 18 đệ tử của
Thiên Phong đại sư được phong:
Đại từ, Minh tâm, Thông huyền đại sư.
Văn Thiên Tường hướng về Vũ Uy vương và các tướng Việt:
– Triều đình đã
gửi sứ sang Đại Việt tạ ơn Thái thượng hoàng và Thiệu Long hoàng đế, xin phép được
phong tặng cho tướng sĩ Việt. Quả Thượng hoàng là một Bồ tát hóa thân, lòng dạ người rộng như biển,
người ban chỉ:
“ Trong lịch sử Hán Việt, có không biết bao nhiêu người
Việt từng được các triều đại Trung nguyên thụ phong. Bây giờ Cảnh Định hoàng đế ban chức tước cho tướng sĩ Bắc Viện, càng thắt
chặt tình ruột thịt con cháu vua Thần nông”.
Vì vậy triều đình đã nghị. Xin chư tướng tiếp
chỉ.
Các tướng Việt
quỳ gối tiếp chỉ. Văn Thiên Tường đọc chiếu chỉ. Chiếu chỉ là một bản văn ca
tụng tinh thần, tài trí của các tướng Việt, rồi phong:
Vũ Uy vương:
Chức tước Đại
Việt phong cho là:
Thái tử thái bảo,
Đồng bình chương sự,
Võ hiển đại học sĩ,
Bắc cương Tiết độ sứ,
Trấn Bắc đại tướng quân,
Tước Vũ Uy đại vương.
Trấn ngự Bắc cương.
Chức tước Tống phong
cho là:
Thái sư, thượng trụ quốc,
Khai phủ nghị đồng tam tư,
Nam phương trung thứ công thần.
Phụ quốc đại tướng quân,
Đồng bình chương sự,
Kinh Nam tiết độ sứ.
Hành sơn đại vương.
Như
vậy chức tước Tống phong cho lớn hơn chức tước của Đại Việt bốn bậc, cao nhất
của Tống triều.
Thái sư
là hàm cao nhất của Tống triều.
Khai
phủ nghị đồng tam tư, được mở phủ đệ riêng, như một triều đình nhỏ.
Phụ
quốc đại tướng quân, cấp bậc cao nhất trong 18 đại tướng triều Tống.
Đồng
bình chương sự, chức Văn, tức Tể tướng.
Kinh Nam tiết độ
sứ: tư lệnh quân đội miền Nam Kinh châu.
Hành sơn
vương: vương tước ăn lộc miền Hành sơn.
Tước
của Vương phi Ý Ninh tại Đại Việt là
Thạc hòa, Minh đức, Trang duệ, Vũ
thắng trưởng công chúa.
Nay
thêm Linh mẫn huyền quân.
Như
vậy ngang với hàm của các bà Thái hậu Tống.
Nguyễn
Thiên Sanh,
Chức tước
của Đại Việt phong cho là:
Đại đởm đại tướng quân,
Tước
An xuyên hầu.
Nay thăng
lên:
Đại đởm, đại tướng quân,
Minh tâm, dũng
lược, duệ mưu công thần,
Nam phương, thần vũ Quốc công.
So với
chúc tước Đại Việt phong cho cao hơn bốn bậc.
Các Đại
đởm dũng sĩ được Đại Việt phong cho hàm
Vệ úy. Nay tất cả đều được thăng lên Tá lĩnh, ban cho mỹ tự Hổ uy, tước Minh
tâm Nam.
Dã Tượng:
Chức tước Đại
Việt phong cho là:
Tả thiên ngưu vệ đại tướng quân,
Tước Khâu Bắc bá.
Nay thăng lên:
Thiên tượng đại
tướng quân,
Nam phương uy dũng công thần.
Tước Khâu Bắc đình hầu.
Cao hơn chức tước
Đại Việt phong cho 4 cấp.
Vì Thúy Hồng tước
của Đại Việt là công chúa, Tống triều thể theo lệ phong cho các hoàng hậu, công
chúa, phong cho tước:
Nam phương, đại từ, thạc hòa huyền quân.
Vũ uy, quang minh công chúa.
Yết Kiêu:
Chức tước Đại
Việt phong cho là:
Hữu
thiên ngưu vệ thượng tướng quân,
Tước An biên Tử.
Nay thăng lên:
Đông hải Thiên kình đại tướng quân,
Nam phương hùng uy, công thần.
Tước An biên đình hầu.
Cao hơn chức tước
Đại Việt phong cho 8 bậc.
Phu nhân Vương Chân Phương là thần dân
Tống, từng theo quân thiết kế, theo chồng ra trận, an ủi tướng sĩ, công rất lớn,
theo nữ quan giai Tống thì đầu tiên phong cho tước phu nhân rồi từ từ lên nhất
phẩm phu nhân, rồi quận chúa, sau mới thăng công chúa. Nhưng vì công lao lớn
nên một bước được phong ngay:
Hồng đức, trang hòa Công chúa
Nguyễn Địa Lô:
Chức tước Đại
Việt phong cho là:
Văn Bắc thượng tướng quân,
Tước Văn sơn Tử.
Nay thăng lên:
Binh bộ tham tri,
Trung lang tướng,
Tước Văn sơn hầu.
Tức là thăng lên
12 bậc.
Binh bộ tham tri,
tương đương với ngày nay là Thứù trưởng
quốc phòng.
Trung lang tướng,
chức văn thấp hơn Tể tướng một bậc.Cao hơn phó Tể tướng.
Phu nhân Thái Ngọc Hồng được phong Nhu mẫn, hồng anh nhất phẩm phu nhân.
Phó thống
lĩnh hiệu binh Văn Bắc: Lý Đại,
các Quân trưởng hiệu Văn Bắc là Trần
Nhị, Vũ Tam, Phạm Tứ, Hoàng Ngũ đều được phong hàm Đô thống, tước Vũ uy Nam.
Tất cả các Ngưu tướng
nam nữ đều được phong Ngưu vệ tướng
quân, tước Nam thiên tử.
Trấn Bắc thượng tướng
quân Phùng Tập kính cẩn nói với Văn Thiên Tường:
– Thưa Thái phó,
tất cả tướng sĩ hiệu Thiệu hưng đều có ước vọng được ở lại quê cha, chống Thát đát.
Thượng hoàng cũng như Đại Việt hoàng đế đã chấp thuận. Xin Thái phó tâu với hoàng
thượng cho anh em chúng tôi được toại nguyện.
Văn Thiên Tường
cực kỳ cao hứng:
– Khi tôi lên đường
hoàng thượng, cùng triều đình đã nghị về việc này. Tất cả đều biết rõ tấm lòng
yêu quê hương của hiệu Thiệu Hưng. Hoàng thượng muốn dùng hiệu Thiệu Hưng trấn
ở phía Nam hồ Động đình làm trừ bị cho Tương dương, Phàn thành.
Ngưu vệ tướng
quân Lý Long Đại đưa mắt cho vợ là Vũ Trang Hồng rồi khải
với Vũ Uy vương:
– Khải vương gia, hiện trong nước vô sự, tại Tống giặc Thát đát
tạm yên. Thần lớn mật xin vương gia cho phép vợ chồng thần được thăm hồ Động đình,
cánh đồng Tương là nơi phát tích ra hai vị Quốc mẫu Đại Việt!
Trang duệ, Thạc hòa công chúa, Linh anh huyền quân Vương Chân Phương nói với Văn Thiên Tường:
– Thưa Thái phó,
trong gần 2 năm sống với tướng sĩ hiệu Văn Bắc, tôi có dịp truyện trò với họ. Họ cùng có tâm
nguyện rằng kỳ Bắc viện này sẽ được thăm khu đất linh hồ Động đình. Xin Thái
phó tâu lên triều đình chuẩn cho.
– Thưa công chúa,
không cần tôi tâu. Mà hoàng thượng muốn mời vương gia, vương phi cùng chư tướng
về Lâm an để triều đình được thấy uy vũ các vị. Trong buổi yết kiến, chư vị có ước
nguyện gì cứ tâu thẳng.
Vũ Uy vương quyết
định:
– Hiệu Thiệu Hưng
sẽ lên đường đi Trường sa, do Tạ Binh bộ thượng thư điều động. Hiệu Văn Bắc sẽ
do Thủy quân chở về Giang an, rồi lên bộ về Đại Việt. Các tướng phải đi theo quân.
Sau khi về tới Đại Việt, các tướng được nghỉ ba tháng. Trong ba tháng đó sẽ có
sứ Tống triều đón đi Lâm an yết kiến Tống Thiên tử, rồi du ngoạn hồ Động đình.
Cô gia với vương phi sẽ đi cùng chư tướng.
Tạ Phương Đắc
quyết định:
– Bây giờ Thái tử
thái bảo Gia Huyễn Ông sẽ cho thủy quân sẽ đưa hiệu Thiệu Hưng xuôi Trường
giang rời Thục vào hồ Động đình. Tuyên vũ sứ Trường sa đã được chỉ dụ của triều
đình tiếp đón, chỉ định khu vực đóng quân. Thái bảo đi theo giúp Trấn Bắc thượng
tướng quân, Linh viễn đình hầu Phùng Tập, là người của triều đình giúp quan
quân Trường sa với binh tướng hiệu Thiệu Hưng hiểu nhau.
Trước khi rời
Thục, trong tiệc tiễn đưa các tướng Việt, Văn Thiên Tường, Tạ Phương Đắc, Gia Huyễn Ông,
Vương Kiên dùng lời lẽ hết
sức cảm động cảm ơn. Cuối cùng Văn Thiên Tường thiết tha nói với vương phi Ý
Ninh:
– Khải phi! Trong
những ngày gần phi. Tường này thấy phi có tầm nhìn xa khác người. Ngày mai
chúng ta kẻ Nam, người Bắc không
biết bao giờ gặp lại nhau. Tuy nhiên vương gia, vương phi dã nhận tước phong
của triều đình, thì những thành bại của triều đình vương phi đều quan tâm. Xin
phi cho mấy lời khuyên!
Vương phi Ý Ninh
cảm động:
– Đa tạ Thái phó đã
coi trọng tôi. Trước đây tổ Trần Tự Mai* của chúng tôi đã từng là Phò mã Tống
triều, lập công với vua Nhân Tông. Bây giờ vợ chồng tôi lại theo gương người xưa.
Ghi chú
* Xin đọc bộ Nam quốc sơn hà, cùng tác giả, để biết hành
trạng của tổ họ Trần là Trần Tự Mai kết hôn với công chúa Tống là Triệu Huệ
Nhu, mà trở thành phò mã Tống, giúp Tống đánh đông dẹp bắc, được phong tước
Thái sư Kinh Nam vương.
Phi nhấn mạnh:
– Chúng tôi trở
về Đại Việt mà lòng để ở bên Tống. Cái họa Mông cổ chỉ mới tạm yên. Bây giờ
Mông cổ đã bị cắt ra thành 5 nước thì không còn mạnh như trước nữa. Cuộc nội
chiến Mông cổ trước sau gì rồi cũng chấm dứt. Dù A Lý Bất Ca thắng hay Hốt Tất
Liệt thắng thì chúng cũng sẽ đem quân đánh Tống. Vì sao? Vì từ thời Thành Cát Tư
Hãn đã phác họa cho con cháu biết rằng lãnh thổ Mông cổ đều ở vùng khí hậu lạnh
cắt da, xé thịt, tài nguyên nghèo nàn. Cần tìm một vùng đất để di dân vào lập
nghiệp. Cuối cùng Thành Cát Tư Hãn thấy Trung nguyên là nơi có thể đáp ứng nhu
cầu. Cho nên Mông cổ xâm chiếm vùng đất sát Trường thành tới Yên kinh, Sơn tây,
Tứ xuyên, Sơn Đông, rồi ào ạt di dân vào.
Phi cười nhạt:
– Nhưng kế hoạch
di dân của Thành Cát Tư Hãn bị thất bại quá nặng.
Gia Huyễn Ông
kinh ngạc:
– Phi nói thất
bại quá nặng ư? Bọn Mông cổ tràn vào Trung nguyên chiếm lĩnh đất cát, ruộng vườn
của người Hán rồi canh tác, khiến trời sầu đất thảm mà!!!
Phi cười lớn:
– Tôi hỏi tiên
sinh nhé: Liêu, rồi Kim từng chiếm Hoa Bắc, xua dân vào định
cư, cai trị người Hán hơn trăm năm. Nay khắp
Hoa Bắc có còn người Kim, người Liêu nào
không? Họ thành người Hán hết rồi!
Thấy cả bốn đại
thần Tống đều ngơ ngác, phi tiếp:
– Tôi nói Thành
Cát Tư Hãn thất bại quá nặng. Bởi từ ngày ông ta cho di dân vào Trung nguyên
nay trải 50 năm, tuy số dân di vào thì nhiều, mà như ném nắm muối xuống biển.
Họ biến đâu mất hết rồi. Vậy số di dân đó đi đâu? Các vị có thấy dân Mông cổ ở
Yên kinh không? Nhìn bề ngoài dường như không có xóm nào, thôn nào có dân Mông
cổ. Sự thực họ vẫn còn đó, họ sinh đẻ rất nhanh. Họ thành người Hán hết
rồi. Mấy năm trước chúng tôi từng tới
Yên kinh, từng đi thăm khắp các vùng đất từ Lâm đồng, Đồng quan cho tới Trương
gia khẩu. Tôi thấy di dân Mông cổ đã mất hết đặc tính dân lều trại. Nhà cửa của
họ là nhà tộc Hán. Y phục của họ là y phục tộc Hán. Con cháu họ không còn nói
tiếng Thảo nguyên nữa, mà chỉ nói tiếng Hán. Họ dùng văn tự Hán. Đi đâu cũng
nghe người Mông cổ bàn về Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế. Họ dẫn chứng toàn
truyện Khổng tử, Mạnh tử. Hễ mở miệng ra là bàn truyện Hán, Đường. Họ không còn
dùng tên Mông cổ, mà đổi ra dùng tên Hán. Nghĩa là họ thành người Hán rồi. Cơ đồ
này chỉ vài chục năm nữa, những di dân gốc Thảo nguyên chết đi thì không còn
vết tích của Mông cổ nữa, mà con cháu họ sẽ tự nhận là người Hán hết.
Tạ Phương Đắc tỏ
ra hiểu vấn đề. Ông nói:
– Chúng tôi quả
không chú ý đến điều vương phi nhận xét. Nhờ vương phi mà chúng tôi như người
mù được mở mắt ra.
– Chúng tôi đã
gây cho Mông cổ có nội chiến. Hiện Hốt Tất Liệt đã hủy bỏ hết những tố chức
chính sự, phong tục Thảo nguyên. Y dùng Hán pháp mà thành công. Xung quanh y
toàn mưu sĩ, văn quan người Hán. Binh tướng của y ba người Hán mới có một người
Mông cổ. Y bỏ ngôi Đại hãn, mà xưng là Trung Thống hoàng đế.
Triều đình của y tổ chức giống triều đình Đường-Tống. Nếu y thắng trong
cuộc chiến này, thì có nghĩa tập đoàn lều trại bại, tập đoàn định cư thắng thế.
Trung nguyên trở thành Thiên quốc, Mông cổ trở thành thuộc quốc. Dĩ nhiên sau đó
người Mông cổ bỏ lều trại ào ạt vào Trung nguyên sống. Ít lâu sau họ thành người
Hán hết. Dân chúng sống tại Thảo nguyên trở thành thiểu số. Đế quốc Mông cổ
không thể phục hồi nữa.
Phi thấy bốn đại thần Tống như người trong cuộc
cờ, mê mê, tỉnh tỉnh. Mình ngồi ngoài cuộc cờ mà thấy rõ. Phi tiếp:
– Nếu A Lý Bất Ca
thắng, y cũng sẽ cho dân Mông cổ tràn vào Trung nguyên. Không sao! Năm ba chục
năm sau họ cũng thành người Hán. Họ sẽ không còn nhận mình là giòng sói xám, mà
tự nhận là con cháu Thần Nông, Phục Hy, Hoàng Đếá.
Vương Kiên hỏi:
– Nếu như Trung Thống thắng, y đem
quân đánh Tống, thì vương phi nghĩ sao?
– A Lý Bất Ca
thắng, y đem quân đánh Tống có nghĩa là rợ Thát đát xâm Trung nguyên. Sĩ dân
Hán sẽ hết sức cùng Tống triều chống ngoại xâm. Tống triều sẽ tồn tại rất lâu.
Còn như Trung Thống thắng, dân
Hán coi triều Nguyên như Hán, như Đường. Y đem quân đánh Tống thì có nghĩa
triều Nguyên đánh triều Tống. Như Hạng Võ chiến Lưu Bang. Bởi y khéo chiêu hiền,
nạp sĩ, các tướng Tống sẽ hàng Nguyên, đánh Tống. Trường hợp này Tống sẽ không
thể tồn tại lâu được.
Vũ Uy vương, vương
phi dẫn bộ tham mưu cùng hiệu binh Văn Bắc dùng thuyền từ Thành đô theo đường
thủy đi Giang an, rồi vào Chiêu thông, sau đó về Khâu Bắc, Văn sơn. Phải mất 10
ngày, đoàn quân chiến thắng mới trở về tới biên giới Việt-Hoa.
Vừa lúc đó có sứ
giả Tống bao tin Tống Cảnh Định hoàng đế băng. Thái tử Triệu Kỳ lên nối ngôi, lấy niên hiệu là Hàm Thuần
( sau này băng miếu hiệu là Độ Tông).
Vũ Uy vương cùng
chư tướng dừng lại giữa đường lập bàn thờ tế vọng, tất cả tướng sĩ nhận chức tước
của Tống đều để tang.
Phụ quốc Thái úy
Chiêu Minh vương Trần Quang Khải; Tổng
trấn Thăng long kiêm quyền Tổng trấn Tây Bắc cương Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc; Quản khu mật viện Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật; dẫn các quan văn võ thuộc Tòa Tổng trấn đi
đón. Trong đoàn đón còn có cả Vũ sơn công Tạ Quốc Ninh, phu nhân Hoàng Liên; Văn
sơn hầu* Nguyễn Địa Lô, phu nhân Thái Ngọc Hồng; Chiêu võ thượng tướng quân,
Chiêu dương Nam, và phu
nhân Kha Li Đa.
Ghi chú
* Chức tước của triều đình ban Ngũ ưng thấp hơn chức tước
của Tống ban cho, nên từ nay, chúng tôi dùng chức tước của Tống.
Chức tước của cho Địa Lô mà triều Trần ban cho là Văn Bắc
thượng tướng quân, tước Văn sơn Tử. Nhưng chức tước mới của Tống phong cho cao
hơn nhiều Binh bộ tham tri, Trung lang tướng, Văn sơn hầu.
Vũ Uy vương phi
hỏi Chiêu Minh vương:
– Vũ sơn công Tạ
Quốc Ninh về nước từ bao giờ?
– Công từ Đại lý
về nước hơn nửa năm. Em trao cho công giữ chức Phó quản khu mật viện. Nhưng
công xin cáo từ vì tuổi già sức yếu. Còn phu nhân thì do Địa Lô đưa về đã ba
tháng.
Vũ Uy vương hỏi:
– Côi sơn Nam Cao Mang với phu nhân Kha Li Đa từ Hồi cương về nước bao giờ?
– Mới được ba
ngày.
Chiêu Minh vương
than:
– Tiếc quá, trong
buổi mừng chiến thắng này, Thiên trường ngũ ưng vắng mặt Đại Hành.
Căn cứ vào sổ ghi
công của Vũ Uy vương, Chiêu Minh vương thăng thưởng cho tướng các cấp Lượng trưởng,
Ngũ trưởng, binh sĩ. Còn lại từ cấp Đô trưởng, Vệ trưởng trở lên, thì gửi tấu
chương về triều xin thăng thưởng. Tất cả tướng sĩ được nghỉ ba tháng về thăm
nhà.
Một buổi khao
quân linh đình được tổ chức. Để bảo mật, các vương không hỏi nhiều về việc Bắc
viện, mà dành cho Vũ Uy vương tấu trình trong buổi thiết đại triều.
Chiêu Quốc vương
cử một đội Kỵ mã hộ tống Vũ Uy vương, vương phi cùng chư tướng về Thăng long
tấu trình chi tiết những gì đã làm trong thời gian Bắc viện.
Vương nói với
anh:
– Em cho Kỵ mã hộ tống anh chị với chư tướng là để tỏ lòng tôn
kính. Chứ bọn trộm cướp, bọn gian tà gan có to bằng trời cũng không dám đụng đến
anh chị với Dã Tượng, Yết Kiêu mà tan xương nát thịt.
Đã lâu ngày, bây
giờ anh em Vũ Uy vương mới được gặp
nhau trong buổi hội quân chiến thắng vinh dự. Theo thứ tự tuổi tác, Vũ Uy vương
lớn nhất rồi tới Chiêu Minh vương, Chiêu Quốc vương, Chiêu Văn vương, cùng đi
một đoàn về Thăng long.
Khi đoàn người
ngựa về tới Gia lâm thì có sứ của giả của triều đình đón. Ngoài thành Thăng
long hơn ba nghìn thiết kị dàn ra uy
nghiêm, cử nhạc chiến thắng đón vào thành.
Buổi thiết đại
triều tại điện Uy viễn trong khu Giảng võ. Thượng hoàng, Thiệu long hoàng đế,
Trung vũ đại vương Thủ Độ, Hưng Đạo vương Quốc Tuấn, Hưng Ninh vương Quốc Tung, Nhân Huệ vương Khành Dư thân ra cửa điện
đón tướng sĩ Bắc viện trở về.
Lễ nghi tất.
Lễ bộ thượng thư
tâu:
– Buổi thiết đại
triều hôm nay có thêm Thượng hoàng, Trung Vũ đại vương quang
lâm. Nội dung nghe Vũ Uy vương cùng chư tướng tấu trình về cuộc Bắc viện, chiến
thắng trở về. Trước hết, Trưởng sử của đạo quân Bắc viện tâu trình.
Trưởng sử (người
ghi chép nhật ký hành quân) là Nguyễn Địa Lô bước ra tâu:
– Thần, Văn Bắc
thượng tướng quân, Văn sơn Tử Nguyễn Địa Lô kính tâu Thượng hoàng, Hoàng thượng
chi tiết cuộc Bắc viện.
Trung Vũ đại vương Thủ Độ ban chỉ:
– Cháu được Tống
triều phong cho chức tước Binh bộ tham
tri, Trung lang tướng, Văn sơn hầu tại sao cháu không xưng chức tước này?
Như vậy phụ lòng Tống đế . Cháu đừng ái ngại khi được Tống triều phong chức. Vì
từ Thượng hoàng cho đến Hoàng thượng đều nhận sắc phong của Tống cả.
– Dạ! cháu tuân
chỉ của ông trẻ.
– Cho cháu bình
thân. Cháu chỉ tấu trình diễn tiến các trận đánh mà thôi. Còn những chi tiết về
12 Tây thi, cũng như mật kế của Vũ Uy vương,
cháu sẽ trình tại Khu mật viện sau.
Địa Lô được ngồi
trước một án thư. Hầu mở cuốn sổ nhật ký hành quân Bắc viện sát đát minh thư
nghĩa là cuốn số ghi chép công cuộc Bắc viện giết Mông cổ. Hầu tấu trình chi
tiết kể từ ngày hai hiệu binh vượt biên sang Trung nguyên cho đến lúc về đến Đại
Việt.
Thượng hoàng ban
chỉ:
– Tất cả có ba
trận đáng ghi nhận là trận Trường thảo, Bồ lăng và Điếu ngư. Trận Trường thảo
do Thiên tượng đại tướng quân, Nam phương uy dũng
công thần Khâu Bắc đình hầu Trần Quốc Kinh chỉ huy. Trận Bồ lăng do Đông hải
Thiên kình đại tướng quân, Nam phương hùng uy,
công thần, An biên đình hầu Trần Quốc Vỹ chỉ huy. Trận đánh Điếu Ngư do Binh bộ
tham tri, Trung lang tướng, Văn sơn hầu
Nguyễn Địa Lô chỉ huy. Ba tướng đã dùng sở học về Binh thư yếu lược, Vạn
kiếp tông bí truyền thư. Vậy ba tướng hãy tâu trình diễn tiến chi tiết, để
triều đình biết cái lẽ huyền diệu của hai bộ binh pháp này.
Thấy Thượng hoàng
dùng chức tước của Tống ban cho, Dã Tượng, Yết Kiêu, Địa Lô không còn e dè rằng
mình vọng ngoại nữa. Cả ba hầu biết trước rằng sẽ phải làm việc này, nên ba tướng
mang theo một trục vải rộng, dài ước 2 trượng (4 mét ngày nay) trên vẽ sơ đồ địa
thế trận đánh.
Dã Tượng treo trục vải trước sân rồng, rồi hầu
tâu trình dùng quân bao vây năm khu vực của năm bách phu Cấm quân. Hầu dùng cờ
tùy theo hoàn cảnh chỉ huy, biến đổi trận thế ra sao. Cuối cùng là việc hầu ném
đá giết Mông ca.
Tiếp theo Dã Tượng,
đến Địa Lô tường trình về trận đánh Điếu ngư. Hầu treo cái trục vải trên vẽ
hình thành Điếu ngư rất sống động, rồi hầu trình bầy các đợt công thành của
Mông cổ.
Cuối cùng Yết
Kiêu trình bầy việc bố trí ba hiệu binh lập phòng tuyến Bồ lăng, diễn tiến trận
đánh ở bốn lớp chiến lũy. Hầu kết luận:
– Thần là người
tổng chỉ huy. Còn trận chiến phá giặc khi
chúng vượt sông Ô giang đánh vào hông do Ngưu binh. Thần xin để các tướng trâu
Lý Long Đại , Vũ Trang Hồng; Trần Long Nhất, Phạm Trang
Tiên; Vũ Long Nhị, Hoàng Trang Liên; Phạm Long Tam; Hoàng Long Tứ tấu trình.
Vũ Uy vương ban
chỉ:
– Tướng chỉ huy
Ngưu binh trong trận này là Ngưu tướng Lý Long Đại. Vậy Long Đại hãy tâu trình.
Sau khi Lý Long Đại
tâu chi tiết, Trung vũ đại vương Thủ Độ ban chỉ:
– Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư, từng là chúa tướng của Dã Tượng, Yết
Kiêu, Địa Lô và các tướng trâu trong trận phá Mông cổ lần thứ nhất. Vương lại
là thầy của hai tướng về Binh thư yếu lược, Vạn kiếp tông bí truyền thư. Vương
cho nhận xét.
Nhân Huệ vương bước
ra:
– Tâu Thượng
hoàng. Trước hết thần xin nhận xét về Ngưu tướng. Quân số của Kị binh Mông cổ đối
trận với Ngưu binh trong trận Phù lỗ, Đông bộ đầu thì một Ngưu binh phải chọi với
10 Kị binh. Còn trong trận Bồ lăng thì một Ngưu binh phải chọi với 32 Kị binh.
Thế mà Ngưu binh thắng dễ dàng. Xét về nguyên do, thần thấy có 3.
Vương ngừng lại,
rồi tiếp:
– Một là các Ngưu
tướng đã kinh nghiệm trong các trận Phù lỗ, Đông bộ đầu, Thảo nguyên. Rồi luyện
tập trong suốt thời gian 10 năm qua. Bây giờ được dịp thi hành. Kinh nghiệm dư thừa.
– Hai là vùng Bồ lăng
lầy lội như vùng Phù lỗ, Đông bộ đầu. Nên Kị binh vô dụng, Ngưu binh có đất
tung hoành. Trận đánh diễn ra vào ngày 11 tháng 8, khí hậu vùng Tứ xuyên thấp nhiệt
như Đại Việt, nên trâu có sức tung hoành. Ngược lại khí hậu này đối với binh tướng
Mông cổ, sống ở vùng lạnh , nay gặp khí hậu nóng, mệt mỏi, tinh lực giảm đi
nhiều.
– Ba là các Ngưu
tướng dùng những gì học được trong Vạn kiếp tông bí truyền thư, uyển chuyển
thay đổi trận thế, phá vỡ trận thế Kị binh.
Nghe Nhân Huệ vương
tâu trình, Hưng Đạo vương không ngớt gật đầu tán thành.
– Về trận Thảo trường
,
Nhân Huệ vương
tiếp:
– Cách ém quân,
phục binh, biến đổi trận thế hoàn toàn đúng với binh thư. Tuy nhiên khi dàn
phục binh, Quốc Kinh có một sơ hở lớn là quên mất chủ đích giết chết Mông ca.
Mình có một hiệu binh, địch chỉ có 500 Kị mã. Thay vì cho hai vệ tiễn thủ khóa
chặt hai đầu thì lại cho hai vệ bộ binh. Nên Mông Ca, Ô Mã Nhi cũng như bọn Cấm
vệ chạy thoát. Đúng ra chúng sẽ bị bắt, bị giết tuyệt.
Vũ Uy vương lên
tiếng:
– Đúng như Nhân
Huệ vương nhận xét. Khi thiết kế Dã Tượng bị ám ảnh câu: giặc cùng chớ đuổi,
nên để hở cho chúng chạy. Tuy nhiên Mông Ca không bị giết tại trận, nhưng bị
trọng thương rồi băng hà.
Nhân Huệ vương
kết luận:
– Còn trận Bồ lăng
thì từ cách lập chiến lũy, giằng co cho giặc mệt mỏi rồi đuổi theo. Cuối cùng
dùng Ngưu binh truy sát, gây kinh hoàng cho giặc, đó là một ưu điểm Tất cả đều đúng
như Vạn kiếp tông bí truyền thư. Kể từ khi Mông cổ lập quốc, đây là trận thảm
bại nhất của chúng: 4 vạn Kị binh bị giết, bị bắt chỉ trong hai ngày.
Nhân Huệ vương
tiếp:
– Còn trận thủ
thành Điếu ngư của Địa Lô, thì từ thiết kế, đến diễn tiến trận đánh toàn vẹn,
không có một chút sơ hở. Giỏi! Dù Khổng Minh có sống lại cũng không hơn. Chỉ có
Công chúa Thánh Thiên thời vua Trưng là hơn được mà thôi!
Trung Vũ đại vương Thủ Độ vẫy tay gọi
Vũ Trang Hồng, Phạm
Trang Tiên,
Hoàng Trang Liên lại
bên vương. Vì tuổi vương với 4 nữ tướng như cụ (ông cố) với cháu, nên vương không
tỵ hiềm nam nữ. Vương nâng cằm 4 người tát yêu mỗi người hai cái rồi than:
– Bốn
cháu thực giỏi, nếu Linh Từ quốc mẫu còn tại thế chắc người sẽ vui lắm. Chiến
pháp của Kị binh mông cổ là dùng một Thập phu xung vào trận địch, phá vỡ phòng
tuyến, rồi hai thập phu tiếp theo đánh tỏa ra hai bên. Sau đó ba thập phu mới đánh
trực diện. Nhưng các cháu đã chọn địa thế lầy lội dàn trận. Khi Thập phu thứ
nhất xung vào, các cháu lùi lại. Kị binh lao tới bị sa lầy. Hai Thập phu sau
tiến lên bị dồn lại với nhau. Thế là chúng bị Ngưu binh ép ba mặt.
Vương
cầm bút viết lên tấm lụa bốn chữ:
Trưng vương di đức.
(Đức của vua Trưng để lại)
Rồi vương
trao cho bốn nàng, mỗi nàng một tấm. Vương lai lấy ra bốn cái hộp bằng gỗ trầm,
trao cho mỗi nàng một hộp:
– Đây
là những nữ trang mà đương thời Quốc mẫu dùng. Đúng ra nữ trang này dành cho
dâu của người. Nhưng người không có hoàng nam, nên già này cho các cháu. Hôm
qua ngựa trạm Bắc cương báo các cháu chiến thắng trở về, nên già mang theo thưởng
cho các cháu.
Bốn
nàng cảm động mở hộp ra, bên trong nào vòng ngọc, nào nhẫn kim cương, nào thoa,
nào xuyến, nào châm cài đầu. Các nàng đeo vào người rồi bái tạ vương.
Trung Vũ đại vương ban
chỉ:
–
Chiêu Minh vương là Thái úy lập danh sách thăng cho tất cả các cấp chỉ huy của
hiệu Văn Bắc chưa được Tống triều phong chức tước, thăng lên một cấp. Các binh
sĩ đều thăng lên Ngũ trưởng rồi chuyển đến các hiệu binh khác. Lại tuyển tân
binh thay cho các Ngũ trưởng. Tất cả binh tướng không phân biệt cấp, cao nhất
là Vũ Uy vương trở xuống đều được thưởng ba tháng bổng, lại cho nghỉ ba tháng để
hưởng những ngày thanh phúc với gia đình. Trong 21 tử sĩ đều thăng lên ba cấp. Lương bổng sẽ cấp cho
vợ-con. Nếu chưa có vợ con thì cha mẹ được hưởng.
Nguyễn
Địa Lô khiếu nại:
– Khải
Đại vương. Tướng sĩ ra trận được tiếp viện đầy đủ lương thực, cung tên, vũ khí
là do Tuyên vũ sứ Hà Bổng cùng các châu trưởng Hà Đặc, Hà Chương đã tận tụy với
nhiệm vụ trao cho...
Thủ Độ
à lên một tiếng:
– Cháu
không nhắc, e già này quên. Ta già rồi! Tất cả các tướng sĩ phụ trách tiếp vận
cho mặt trận cũng được thăng thưởng như những người ra trận.
Thượng
hoàng tuyên chỉ:
–
Trong 40 đệ tử của Mê linh được Vô Huyền Bồ Tát gửi theo sứ đoàn, đã lập công
không nhỏ. Vậy Lễ bộ ban chỉ phong tước cho họ, phong hàm cho cha mẹ những đệ
tử này.
Trước
khi bãi triều, Lễ bộ thượng thư tuyên chỉ của nhà vua:
– Hôm
nay là ngày mười bẩy. Để tướng sĩ Bắc viện có thời giờ về thăm nhà. Đến ngày 28
này sẽ có buổi thiết tiểu triều thu gọn gồm Thái sư, Thái úy, Binh bộ thượng thư,
Khu mật viện, các vương tổng trấn Đông Bắc, Tây Bắc, Thăng long, Tổng lĩnh
thiên tử binh, Tổng lĩnh Ngưu binh, Ngạc binh, Đại đô đốc Thủy quân để nghị quốc kế.
Bãi
triều.
Thiên
trường Ngũ ưng đã được phong tước Nam từ sau trận giải phóng, tái chiếm ba châu
Văn sơn, Khâu Bắc, Chiêu dương. Rồi dần dần do công lao thăng tới Tử, Bá. Sau
cuộc Bắc viện, triều đình Việt chưa kịp thăng chức tước, thì triều Tống phong
cho 3 anh hùng Dã Tượng,
Yết Kiêu, Địa Lô lên tước hầu. Triều đình Việt chấp nhận những phong tặng này,
không cần thăng lên nữa; mà chỉ thăng cho hai vị Cao Mang, Đại Hành vượt cấp
từ tử lên tước hầu. Aáp phong của 5 anh
hùng này ở 5 nơi khác nhau.
– Aáp
của Dã Tượng là châu Khâu Bắc, cực Bắc của Đại Việt. Châu này mới tái chiếm,
sau hơn nghìn năm bị mất. Trong cuộc tái chiếm này Dã Tượng lập công đầu. Nay
thuộc Quảng Tây, Trung quốc. Dân chúng hầu hết là người Việt bị bọn Thân Long
dụ dỗ, đánh lừa sang sinh sống với chiêu bài phục hồi Lý triều.
– Vì
Yết Kiêu gốc là ngư dân ở Đông triều, nên ấp của Yết Kiêu là An biên. An biên
nằm ở phía Nam sông Bạch Đằng. Ngày nay là thành phố Hải phòng. An biên là đất
linh, tối cổ. Hồi đầu thế kỷ thứ nhất, dân chúng ở đây sống rải rác, bị thú
rừng phá phách, bị trộm cướp hoành hành. Bấy giờ có một nữ kiệt tên Lê Chân, đứng
ra hô hào dân chúng tập hợp lại thành một trang, tổ chức cai trị, xây trường, lập quy, gọi là trang An biên. Lê Chân ứng nghĩa khởi
binh theo vua Trưng được phong Công chúa Đông triều. Dinh của công chúa dựng trên ngôi nhà khi ngài còn là con gái.
Sau khi ngài tuẫn quốc, dân An biên nhớ công, xây đền thờ gọi là đền Nghè. Ngày
nay nằm trên phố Ngõ Ngay, thành phố Hải phòng, quận Lê Chân.
– Aáp
của Cao Mang, là
Chiêu Dương nằm cạnh Khâu Bắc. Nay thuộc tỉnh Quảng Tây Trung quốc. Đất này mới
phục hồi cùng Khâu Bắc. Tình trạng giống châu Khâu Bắc của Dã Tượng.
– Aáp
của Đại Hành là Côi sơn. Nay thuộc tỉnh Ninh bình. Vì Đại Hành gốc người Trường
yên.
– Aáp
của Địa Lô là Văn sơn, nay thuộc tỉnh Vân Nam, Trung quốc. Cũng là đất mới phục
hồi cùng Khâu Bắc, Chiêu dương.
Theo
chế độ nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê, những người có tước đại vương, vương, công,
hầu , bá, tử, nam thì được phong ấp. Aáp đó coi như giang sơn riêng của người được
phong. Tước gia có quyền tổ chức cai trị, thu thuế, bổ nhiệm các chưc sắc làng,
xã. Các tước gia xây dinh thự của mình
trong ấp phong. Trường hợp các tước gia làm quan tại triều, hay các trấn lại có
dinh thự tại chỗ.
Dã Tượng,
Cao Mang, Địa
Lô được phong ấp vào dịp ba người đang có mặt tại chỗ, nên cả ba tổ chức hệ
thống cai trị, bổ nhiệm quan chức, ấn định thuế khóa xong.
Đại
Hành, với Yết Kiêu, thì chưa có thời giờ
về ấp phong của mình. Khi được phong, Đại
Hành cho ngựa phi về ấp của mình, triệu hồi Đại tư, Câu Đương, Học Lễ, Chánh ty
về Thăng long, để biết tình hình sinh hoạt ấp rồi cho thành lập một hội đồng
cai trị khi mình vắng nhà. Sau khi kết hôn với Cẩm Nhãn, Đại Hành cùng vợ về ấp
phong, xem xét tình hình, ấn định tô thuế, xây trường dậy trẻ học, bổ nhiệm các
chức sắc.
Ghi chú,
Đại Tư, Câu Đương: xem chú giải hồi thứ nhì.
Học Lễ, ngày nay không có chức tương đương. Chức này dành cho
người có học thức. Hoặc do tước gia bổ nhiệm, hoặc do Tuyên vũ sứ bổ nhiệm. Học
Lễ phụ trách nhiệm giáo dục dân trong xã, cai quản các thầy đồ. Giảng giải luật
pháp cho Đại Tư, Câu Đương. Trông coi việc thuế khóa, ngân sách của xã. Hưởng lương
vua.
Chánh ty, phụ
trách thi hành luật pháp trong ấp, xã. Chức này do Tuyên vũ sứ bổ nhiệm, tương
dương với trưởng công an xã. Hưởng lương vua.
Còn
Yết Kiêu, thì ấp phong An biên chính là quê hương của hầu. An biên bây giờ là
một tổng, gồm 5 xã. Hầu biết rất rõ từng nhà, từng người. Hầu cho ngựa về An
biên, mời ba người bạn hồi thơ ấu là Trịnh Nguyên Cừ, Nguyễn Lương Thiện, Lại Ngọc Đĩnh
về Thăng long. Sau khi bốn anh em bàn luận, Yết Kiêu cử Trịnh Nguyên Cừ làm Đại
tư, Lại Ngọc Đĩnh làm Câu Đương, Nguyễn Lương Thiện làm
Học lễ.
Sau hơn
10 năm khi thì xông pha chiến trận, khi thì theo sứ đoàn, khi thì Bắc viện. Đây
là lần đầu tiên 4 vị anh hùng được nghỉ
ngơi ba tháng liền.
Ngay
hôm vừa từ Bắc cương về, dự buổi thiết đại triều; Dã Tương, Yết Kiêu dẫn phu
nhân về nhà của mình. Nhà của hai hầu tại Thăng long được xây cất hồi gần 10 năm
trước, bấy giờ hai người mới được phong tước Nam, quân hàm Đô thống, lương bổng
không nhiều, nên không lấy gì làm to lớn cho lắm. Nhà hai hầu nằm cạnh nhau,
bên bờ Hồ tây, gần chùa Trấn quốc và đền Trấn võ. Mấy năm trước hai vị cưới vợ
về ở trong dinh 10 ngày, rồi cả hai vợ
chồng phải lên đường Bắc viện. Nhà bỏ trống, không ai ở. Vì Dã Tượng, Yết Kiêu
lãnh đạo Ngưu binh, Ngạc binh trong tình huynh đệ. Nên suốt thời gian hai vị đi
vắng, Thống lĩnh Ngưu binh, Ngạc binh vẫn cử người cắt cỏ, trồng hoa, quét dọn
dinh cho hai huynh trưởng.
Bây
giờ hai hầu mới được trở về hưởng thanh phúc. Nhưng hai cặp vợ chồng này sinh
ra không phải để hưởng thụ, mà để gánh vác việc nước. Nên họ chỉ ở trong dinh có ba ngày, rồi Dã Tượng đi
Kinh Bắc thăm nhạc phụ, nhạc mẫu. Yết Kiêu đi Hạ long thăm song thân.
Hồi
Thúy Hồng mới theo sứ đoàn, nàng được hưởng hàm Vệ úy, bổng của nàng do xã trao
cho cha mẹ. Lại khi nàng lập đại công trong trận giải phóng 3 châu Văn sơn,
Khâu Bắc, Chiêu dương, cha được triều đình ban hàm Tam tư, mẹ được Ngũ phẩm phu
nhân, được hưởng 5 mẫu công điền không phải nộp thuế. Rồi khi nàng được phong
công chúa, ông được phong tước Nam, bà được phong Nhị phẩm phu nhân, được hưởng
15 mẫu công điền. Khắp làng kéo đến mừng ông bà. Bổng của tước công
chúa là 100 mẫu ruộng. Nhưng bố mẹ Thúy Hồng muốn gieo cái đức với dân làng. Ông
bà cho tá tiền cầy, chỉ thu tô tượng trưng mà thôi.
Bây
giờ Dã Tượng với Thúy Hồng về làng, có một lượng Kị binh 20 người theo hộ vệ. Đại
tư sai đánh trống báo cho cả làng kéo ra đón.
Ở quê
vợ 5 ngày, Dã Tượng rủ vợ về thăm quê mình. Quê Dã Tượng ở Thiên trường, trong
một làng giầu có. Song thân Dã Tượng qua đời sớm, hầu được bà nội nuôi dưỡng.
Ngay khi đuổi Mông cổ ra khỏi nước thời Nguyên Phong, triều đình chiếu công lao
của Dã Tượng, phong hàm cho bà. Đại tư cử người phụng dưỡng bà rất chu đáo. Bây
giờ Dã Tượng được phong hầu, tin đưa về làng. Cả làng kéo đến mừng bà. Tuyên vũ
sứ sai người về báo với bà rằng Dã Tượng
được phong hầu cùng vợ tước công chúa về quê. Đại tư cho dựng nhà rạp, làm cỗ
mời cả làng đến chung vui. Nhớ lại thời
thơ ấu, hầu được sư trưởng trong làng tận tâm dậy dỗ. Hầu tới chùa đỉnh lễ với
thầy rồi xin cúng dàng 50 lượng vàng cho chùa. Với bổng Tả thiên ngưu vệ đại tướng
quân của hầu chỉ đủ ăn tiêu, hoặc dư giả thì thưởng cho đàn em, chứ làm gì có
vàng? Số vàng mà Dã Tượng có là do hồi kết hôn với Thúy Hồng, được Thượng
hoàng, Hưng Đạo vương ban cho. Nhất là Thái sư Thủ Độ ban cho tới 200 lượng !
Suốt thời gian Bắc viện, hầu cùng phu nhân không có dịp chi tiêu
Sau đó
hầu cùng phu nhân lên Bắc cương, nghỉ tại ấp phong là châu Khâu Bắc.
Yết
Kiêu dẫn phu nhân đi Đông triều thăm song thân, thăm họ hàng, thăm ấp phong của
hầu là Tổng An biên thuộc trấn Đông triều.
Đối
với Vương Chân Phương, cái
gì tại Đại Việt cũng khác Dương châu. Nên suốt dọc đường từ Thăng long đi Đông triều,
hầu phải luôn miệng giải thích cho phu nhân.
Song
thân Yết Kiêu là ngư dân trên vịnh Hạ long. Từ này con được phong chức tước,
ông bà cũng được phong hàm, cấp ruộng công điền, nhưng ông bà vẫn ở trên
thuyền, vẫn làm nghề đánh cá, mà không về dinh của con tại An biên. Đường từ Thăng
long đi Đông triều, phải hai ngày sức ngựa. Ngày đầu, khi gần tới trưa thì
viên trưởng toán Kị binh hộ tống đến trước
xe trình:
– Thưa
quân hầu, phía trước là Tổng An biên ấp phong của quân hầu. Chúng ta phải vượt
sông Bạch đằng để đi Đông triều. Vậy quân hầu cho vượt sông rồi ăn trưa. Hay ăn
trưa rồi vượt sông?
–
Không vượt sông vội. Tôi phải về An biên đã.
Thấy
phu nhân liếc mắt như muốn hỏi chi tiết về An biên, hầu biết ý, mỉm cười:
– Vùng
ấp phong An biên của anh gồm toàn Tổng, nằm ở phía Nam sông Bạch đằng. Có tất
cả 5 xã. Gọi là An biên thượng, An biên hạ, An biên trung, An biên đông và tây.
An biên là đất linh của Đại Việt. Dân trong vùng một nửa sống bằng nghề đánh cá.
Một nửa sống bằng nghề buôn bán, kiếm lời. Vùng này nức danh về những món ăn
hải sản. Em có đại tài về nấu nướng. Trong ấp phong không thiếu những người nấu
ăn giỏi. Anh sẽ bảo họ nấu những món anh thích
nhất cho em ăn, rồi sau này em làm cho anh ăn.
Chân
Phương móc trong bọc ra hai đĩnh bạc trao cho viên trưởng toán:
– Anh
em có 20 người phải không? Đây bạc đây, anh em kiếm hàng quán gì ăn, rồi cho
ngựa vào An biên nghỉ trưa. Mai ta vượt sông sau. Nhưng nhớ không được uống rượu
đấy nhá!
– Đa
tạ phu nhân.
Tới An
biên. Yết Kiêu chỉ con sông phía trước
nói với phu nhân:
– Đây
là sông Bạch đằng, xưa kia vua Ngô Quyền
đã đánh tan quân Nam Hán, bắt sống Thái tử Hoàng Thao, đem chém đầu. Phía sau
kia có một ngôi đền thờ vị nữ anh hùng thời vua Trưng. Bà được phong tước Công
chúa Đông triều. Cho nên dân ở đây tự
hào về mảnh dất linh của mình.
– Hồi
trên đường từ Tứ xuyên về nước. Chị Ý Ninh có thuật cho em nghe về hành trạng
của công chúa. Công chúa tên Lê
Chân. Thời còn niên thiếu, công chúa thấy dân chúng vùng này
sống lẻ tẻ, dễ bị trộm cướp hại. Công chúa mới tập hợp dân chúng lại thành trang An biên. Khi cuộc khởi nghĩa nổ ra, công chúa
cầm quân đanh chiếm Luy Lâu, Long Biên. Sau công chúa tuẫn quốc trong lần truy
kích Mã Viện ở Nam hải, dân chúng nhớ công ơn, lập đền thờ. Tại An biên đàn bà,
con gái được kính trọng, chiều chuộng lắm vì họ là hiện thân của công chúa Lê Chân.
– Em nhớ dai nhỉ! Nào chúng ta đi lễ công chúa
đã rồi hãy về dinh. Em tuy không phải là con gái công chúa Đông triều, mà anh
cũng kính trọng em vậy!
Hầu
trao cho viên Kị binh đánh xe một xâu tiền Nguyên phong thông bảo:
– Em
xuống xe, kiếm gì ăn cùng anh em hộ tống. Tôi với phu nhân đi lễ đền Nghè. Aên
xong, em trở lại dinh của tôi. Em đến cổng An biên, nhờ tráng đinh dẫn về dinh
của tôi. Tôi chờ ở đó. Em
tên Khuê phải không?
– Dạ.
Aên xong em sẽ đến đền ngay.
Từ tổng An biên tới thủ phủ trấn Đông triều
không xa. Đây là vùng mà thời niên thiếu
hầu từng cùng các bạn thường đua ngựa khắp nơi. Nên hầu rất thạo đường
lối. Hầu ra roi cho xe đi vào vùng An biên của mình. Từ ngày được phong thực
ấp, đây là lần đầu tiên hầu về ấp. Trước hết qua cái cổng bằng đá rất lớn trên
có ba chữ lớn An biên hạ. Có tráng đinh gác. Thấy xe của hầu, anh trưởng toán
cầm dùi đánh ba tiếng trống. Lập tức hơn năm chục tráng đinh xếp thành hai
hàng, vũ khí uy nghiêm. Viên trưởng toán hô lớn:
– Anh
em tráng đinh bái kiến quân hầu và phu nhân.
Yết
Kiêu, Chân Phương xuống xe duyệt hàng binh, rồi hỏi về tình hình an ninh trang.
– Em
tên gì? Bao nhiêu tuổi?
– Cao Thanh Ngừ. 22 tuổi.
Chân
Phương hỏi:
– Tên
anh sao giống tên cá vậy?
– Thưa
phu nhân đúng ra tên em là
Ngân. Nhưng em có biệt tài đánh cá Ngừ, nên thầy Học Lễ cho em
cái tên Ngừ để ghi tài.
– Ngày
thường em là gì?
– Thưa
vào ngày mùa thì em làm ruộng. Còn lại em theo bố đi đánh cá.
– Em
làm việc có đủ ăn không?
– Dạ
trước kia thì bố mẹ em với chúng em làm việc vất vả lắm cũng chỉ đủ ăn thôi. Từ
ngày xã này thuộc quân hầu, thì hải sản không phải nộp thuế. Còn ruộng thì tô giảm
nhẹ, nên bố mẹ em dư giả, xây được nhà ngói, sắm được thuyền lớn đánh cá.
– Em
cho tôi một người biết đánh xe ngựa, để đưa tôi đi thăm trang ấp.
Ngừ
vẫy tay gọi một tráng đinh da đen dòn, lực lưỡng:
– Chú
Thi,
Thi
chạy ra khỏi hàng quân hành lễ. Chân Phương ban lệnh:
– Chú đánh
xe cho tôi tới chợ nào gần nhất.
Thi
nhanh nhẹn lên xe, ra roi cho ngựa chạy.
Chân
Phương hỏi:
–
Trong tổng có bao nhiêu tráng đinh?
–
Trình phu nhân có 950 người, chia ra: tráng đinh bộ 450 người. Tráng đinh thủy
300. Còn lại 250 là tráng đinh
Ngưu.
– Em đánh
xe vào chợ. Chúng tôi cần sắm lễ dâng công chúa.
Chiếc
xe vào phố chợ. Dân chúng thấy một người mặc võ phục cấp tướng quân, cạnh một
thiếu phụ trẻ cực kỳ xinh đẹp, có tráng đinh đánh xe thì cùng mở to mắt ra
nhìn. Họ đâu biết đây là vị hầu tước
vùng họ đang sinh sống.
Thi
nói:
– Thưa
quân hầu, khu chợ An biên hạ lớn nhất trong 5 phố chợ An biên. Có tới gần trăm
phố.
Xe
dừng trước cửa hàng bán hoa quả. Rất thành thạo, Chân Phương chọn mua một mâm
ngũ quả: bưởi, na (mãng cầu), chuối, đu đủ, nhãn. Lại mua một con gà trống
luộc, một mâm xôi. Thấy phu nhân chọn toàn những loại thượng phẩm .
Bà chủ
hàng đon đả:
– Chắc
tướng quân với phu nhân đi lễ đền Nghè thì phải?
Ghi chú,
Xã An biên, thời vua Trưng là trang An biên do nữ tướng Lê Chân chiêu mộ dân phiêu bạt lại, tổ chức ngư nghiệp, nông tang,
mở trường học lập thành trang. Cuộc cách mạng của vua Trưng thành công bà được
phong Công chúa Đông Triều. Sau khi bà tuẫn quốc, dân chúng trong trang lập đền
thờ ngay tại ngôi nhà của bà. Đền thờ gọi là đền Nghè. Đền Nghè, hiện nay ( 2009)
nằm giữa thành phố Hải phòng. Bà rất thiêng, linh ứng kỳ lạ.
Chân
Phương nở nụ cười làm mọi người đều muốn ngây ngất:
– Sao
bà đoán rằng chúng tôi lễ đền Nghè mà
không đi lễ vua Ngô bên sông Bạch đằng?
– Thưa
phu nhân, tôi bán hàng ở đây từ hồi còn là con gái, trải 10 năm dư nên kinh
nghiệm mà thôi. Nếu phu nhân lễ vua Ngô ắt mua thêm rượu. Còn lễ công chúa Đông
triều thì không mua rượu.
– À
thì ra thế.
Chân
Phương muốn biết tình hình ấp phong của
chồng, công chúa hỏi:
– Thế
nào? Đời sống ở đây có dễ chịu không? Thuế có cao lắm không?
– Nhờ ơn
bà phù hộ mưa thuận gió hòa, ba mùa trúng liên tiếp. Dân đi biển không bị bão, đánh
được nhiều hải sản lắm. Còn thuế ư? Từ khi ấp được phong cho ngài Trần Quốc Vỹ,
ngài chưa từng về. Nhưng ấp do ba người bạn của hầu thay hầu cai trị, thuế nhẹ,
trộm cướp không có. Song xưởng đóng chiến thuyền nằm trong ấp nên có mấy nghìn
thợ với vợ con sống trong Xã. Mấy ông thợ say xỉn tối ngày, hay quấy nhiễu lắm.
Xe đến
cổng đền. Hai thiếu phụ khăn áo chỉnh tề từ trong sân ra đón khách:
– Kính
mời quân hầu cùng phu nhân vào lễ bà.
Yết
Kiêu kinh ngạc:
– Sao
hai cô biết có vợ chồng chúng tôi mà ra đón?
Hai
thiếu phụ đỡ mâm lễ vật:
– Dạ
chú Ngừ sai người báo.
Cô ta
lễ phép chỉ vào một trung niên nam tử đứng
trong sân:
– Thưa
quân hầu, ông chủ từ biết quân hầu về
nên dẫn chúng em tới đây chờ. Còn quan viên của An biên thì tập họp ở đình An
biên trung, chờ quân hầu.
Yết
Kiêu nhìn ông chủ từ: dáng quen quen dường như đã gặp ở đâu. Nhưng trong nhất
thời hầu không nhớ ra. Ông chủ từ chắp tay vái hầu:
– Chúc
mừng cố nhân, nay công với đất nước đã thành, danh đã toại, áo gấm về cố hương.
Yết
Kiêu đáp lễ:
– Yết
Kiêu này trí nhớ không tốt. Huynh tha lỗi cho vì không nhớ huynh là ai!
– Lương Thiện đây!
Yết
Kiêu giật mình nhớ lại, hồi thơ ấu hầu cùng ba người bạn là Trịnh Nguyên Cừ,
Nguyễn Phúc Ninh, Lại Ngọc Đĩnh cùng học với nhau. Cả bốn cùng học với thầy đồ
Năng ở làng bên cạnh. Cả bốn cùng là học trò giỏi của trường. Lương Thiện đẹp trai, hiền
lành, tính tình nhu nhã. Hồi mới được phong An biên Nam, Yết Kiêu đã ủy cho ba
người bạn thay mình coi ấp phong. Trịnh Nguyên Cừ làm Đại tư, Lại Ngọc Đĩnh làm
Câu dương. Nguyễn Lương
Thiện làm Học lễ.
Hầu tạ
lỗi:
– Xin
lỗi anh! Vì chúng mình cách xa nhau thoáng một cái đã 15 năm. Cả hai cùng lớn
lên, nên Yết Kiêu không nhận ra.
– Hồi
giặc Mông cổ sang, lúc anh tổ chức Ngạc binh. Mình ứng nghĩa, định theo anh. Nhưng
anh đã lên đường về Thăng long. Mình đành nhập Thủy quân. Nhờ lập công mình được
thăng hàm Tá lĩnh. Rồi khi anh được phong tước Nam, trao cho mình làm Học lễ.
Vì mình có chút học, nên anh em ủy cho mình làm thủ từ đền này. Ban nẫy thấy
anh, mình đã nhận ra ngay. Vì anh không thay đổi nhiều.
Yết
Kiêu với phu nhân lễ xong, Lương
Thiện mời hai người cùng thụ lộc:
– Mời
quân hầu với phu nhân xơi thịt gà trống của An biên. Gà trống này nuôi bằng
tôm, tép, cá của dân chài, nên thịt mềm, thơm lắm. Còn xôi thì dùng nếp cái hoa
vàng, rền lắm.
Yết
Kiêu vừa ăn mấy miếng, thưởng thức đặc sản của quê hương mình mà từ ngày theo
quân, hầu không được ăn.
Từ cổng, một thiếu phụ tuổi khoảng 30-31 đang
bưng mâm lễ tới. Bà ta nói với Lương
Thiện trong nước mắt:
– Xin
thầy khấn với Bà dùm em.
– Cô Kiều Vy đấy phải không? Cô muốn cầu xin gì
nào?
– Em xin Bà phù hộ cho chồng
em bỏ rượu. Từ nay không đánh em nữa.
Chân
Phương nhìn thiếu phụ: mắt trái sưng vù, tím bầm. Môi ướm máu. Cánh tay phải
buộc bằng một miếng vải. Công chúa nắm lấy tay hỏi bằng giọng thiết tha:
– Người
chị đầy vết thương! Những vết thương này do chồng đánh hả?
– Vâng
ạ!
– Chắc
lại già mồm, già miệng nên chồng nó mới đánh cho phải không?
Thiếu
phụ òa lên khóc:
– Thưa
cô! Chồng cháu uống rượu nhiều quá. Cháu can anh ý uống ít đi ! Anh ý không
nghe. Anh ý đánh cháu. Chứ cháu đâu có già mồm, già miệng. Đây không phải là
lần đầu anh ý đánh cháu.
Lương Thiện can thiệp:
– Chị
Yết Kiêu ạ. Vùng này có đến 10 xưởng đóng chiến thuyền, với hơn nghìn lính thợ.
Bọn lính thợ thường họp nhau chén chú, chén anh, say khướt, rồi đánh vợ chửi
con. Vì thợ là lính thủy quân, nên xã vô thẩm quyền. Đô đốc thống lĩnh các xưởng
suốt ngày phải xử tội bọn chúng, nhưng chúng chứng nào tật ấy. Mà cũng tại mấy
bà vợ, chồng say rượu đánh đến nhừ đòn mà không dám cáo với quan Chánh ty tổng.
Thiếu
phụ thở dài:
– Thưa
thầy, nếu em mách quan, thì chồng bị phạt nặng. Anh ấy đánh chết.
Chân
Phương mủi lòng nói với chồng:
– Thực
là một kiếp người đáng thương. Đây thuộc ấp phong của anh! Anh nói ấp này có
truyền thống trọng phụ nữ, mà sao chị này bị đánh như thế này? Anh phải giải
quyết cái nạn chồng đánh vợ tàn nhẫn thế này đi! Em chịu không nổi rồi!
– Được!
Em là vợ anh. Luật Đại Việt cho phép các phu nhân tước gia được thay chồng sửa
trị dân trong ấp. Em là người có học thức, em giải quyết ngay.
– Em nói tiếng Việt không thạo, sợ có chỗ hiểu
lầm.
Lương Thiện chỉ vào Yết
Kiêu nói với Kiều Vy:
– Vì
chị thành tâm cầu Công chúa. Nên ngài dun dủi cho chị gặp quý nhân đây. Quý
nhân chính là Trần Quốc Vỹ, tước phong Đông hải Thiên kình đại tướng quân, Nam
phương hùng uy, công thần, An biên đình hầu. Chúng ta là dân trong
ấp của hầu đấy. Hầu sẽ có cách chữa cho chồng chị bỏ rượu. Chị khai đi, chồng chị tên gì? Thuộc cơ đội nào?
– Dạ
anh ấy tên Lê Văn Khoa, cấp Vệ úy
phó xưởng số chín.
Lương Thiện bảo thiếu phụ
giúp lễ:
– Cô đến
đình xã Trung, bảo có Đông hải Thiên kình đại tướng quân, Nam
phương hùng uy, công thần, An biên đình hầu đòi Đại Tư, Câu Đương, Chánh ty tới
có việc.
Không đầy một
khắc Đại Tư Trịnh Nguyên Cừ, Câu Đương Lại Ngọc Đĩnh, và viên Chánh ty tới.
Lễ nghi tất.
Đại Tư Trịnh
Nguyên Cừ nói:
– Ty chức được
báo tin quân hầu với Công chúa về. Chức sắc năm xã tập trung ở đình An biên
trung chờ quân hầu.
Chân Phương nói:
– Các anh với anh
Quốc Vỹ là bạn thời thơ ấu. Không cần lễ nghi phiền phức. Phiền Đại Tư, Câu Đương
tới xưởng số chín, gọi trưởng xưởng với phó xưởng là Vệ úy Lê Văn Khoa tới đây hầu việc.
Yết Kiêu lệnh cho
Lương Thiện dẫn vợ Lê Văn Khoa ra phía sau vườn. Hơn khắc sau một Tá lĩnh, một Vệ úy
tới. Tá lĩnh tên Lê Quang Nghi. Vệ úy tên Lê Văn Khoa. Cả hai cùng hành lễ quân cách.
Yết Kiêu hỏi:
– Vệ úy Khoa! Người
dã biết tội chưa?
– Thưa đại tướng
quân thuộc cấp không hề phạm tội gì. Có Tá lĩnh Nghi làm chứng.
– Người có đọc 10
điều răn của Tiết Chế Hưng Đạo Đại vương không?
Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét