Trung Tá Nguyễn Văn Vinh
Lời Tòa Soạn: VNCH đã giữ vững đuợc cuộc sống tự do trong suốt 21 năm ngắn ngủi nhung đầy gian truân, máu và nuớc mắt, đầy sự hy sinh của biết bao nhiêu nguời.
Trong số những sự hy sinh đó, phải nói tới sự hy sinh của nguời lính Biệt Kích Dù hoạt động tại Bắc Việt. Số phận của họ rất bi thảm khi bị kẹt tại Bắc Việt. Bảng tổng kết so khởi cho biết trong số những Biệt Kích Dù đuợc thả ra miền Bắc
-có 7 nguời đã bị CS tuyên án tử hình và đa bị hành quyết,
-9 nguời tử trận,
-21 nguời chết trong các trại tù khổ sai miền Bắc,
-7 nguời chết sau khi
đuợc thả về,
-2 nguời mất tích khi thi hành nhiệm vụ,
-11 nguời bị chỉ định phải định cu tại các nông truờng hay hợp tác xã miền Bắc. Đa số những nguời còn lại đều bị tra tấn dã man và bị bắt lao động khổ sai trong những trại tù khắc nghiệt nhất. Tại sao hầu hết các biệt kích thả xuống miền Bắc đa bị CS bắt?
Bài viết sau đây là của Trung tá Nguyễn Văn Vinh, nguời trực tiếp phụ trách các toán Biệt Kích Dù đuợc thả xuống Bắc Việt, sẽ cho chúng ta biết những nét đại cuong về tổ chức các đon vị Biệt Kích, các hoạt động của họ và cách thức điều hành của co quan tình báo Hoa Kỳ.
* * * * *
Vài nét về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Ít ai biết đến các tên P45, Sở Bắc hay Sở Khai Thác, tiền thân của Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Muụ Đó là những bí danh của một co quan tình báo chiến luợc, đuợc thành lập từ cuối năm 1958, đặt trực thuộc Phủ Tổng Thống và nằm trong mạng luới chỉ huy của Đại Tá Lê Quang Tung, Tu Lệnh Lực Luợng Đặc Biệt VNCH. Co quan này đuợc Hoa Kỳ yễm trợ cả về tài chánh lẫn các phuong tiện cần thiết để thực hiện cuộc chiến tranh không quy uớc chống miền Bắc CS.
Sau Hiệp dịnh
đinh chiến Geneva, vi tuyến 17 đuợc chọn làm vùng phi quân sự và sông Bến Hải là biên giới thiên nhiên, ngăn cách 2 miền Nam Tự Do và Bắc CS. Quân đội viễn chinh Pháp, duới áp lực của Hoa Kỳ, đa phải kéo cờ tam tài xuống khỏi dinh Norodom, nhuờng chỗ cho quốc kỳ VN tung bay tại dinh Độc lập vừa đuợc đổi tên và đổi chủ. Để đáp lại, quân đội Pháp đa không nuong tay, xóa sạch mạng luới tình báo mà họ đa khổ công gầy dựng trong nhiều năm tại miền Bắc.
Đâ
y là một sự thiệt hại khá lớn cho ngành tình báo non trẻ của miền Nam.
Trong khi
đó, CS đa để lại tại miền Nam vô số co sở tình báo mà họ đa gầy dựng trong suốt thời kỳ chống Pháp, trong đó phải kể đến các thân nhân của các cán bộ và bộ đội tập kết. Thêm vào đó, các khuyết điểm to lớn chồng chất của 2 chế độ lỗi thời Thực dân dân và Phong kiến đa làm mồi nuôi duỡng các phong trào chống đối trong nội bộ miền Nam, rất thuận lợi cho các cán bộ CS nằm vùng khai thác.
Dù vậy, ngành tình báo miền Nam, tuy phải xây dựng trễ và phải
đặt nền móng từ đầu, nhung lại đuợc huởng ứng nồng nhiệt vì đa số nguời Việt thời ấy, nhất là đồng bào di cu, các bộ lạc dân tộc thiểu số, các đảng phái chính trị và tín đồ các tôn giáo, đa thấy rõ bộ mặt gian dối của CS.
Có nguời
đa chứng kiến những vụ tàn sát hay đấu tô dã man các thành phần quốc gia yêu nuớc nhung bất đồng chính kiến với CS và có khi họ chính là thân nhân của các nạn nhân đó.
Ngoài ra, những tài liệu sống
động nhu cuốn phim Chúng Tôi Muốn Sống đa gây đuợc một ấn tuợng ghê tởm CS trong mọi tầng lớp nhân dân miền Nam.
Nắm
đuợc các yếu tố thuận lợi trên đây, Sở Bắc đa gấp rút gửi nhân viên đến các trại định cu, liên lạc với các vị lãnh dạo tinh thần cung nhu các bộ lạc dân tộc thiểu số, chiêu mộ các thanh niên nhiệt tình yêu nuớc còn thân nhân ở tại miền Bắc, để cấp tốc đua về huấn luyện và tạo vỏ bọc thuận lợi, đua họ về quê quán hoạt động.
Từ những n
ăm đầu tiên đến năm 1966, các toán xâm nhập miền Bắc thuờng xử dụng một trong những phuong cách sau đây:
- Nhảy dù
đem vào vùng mục tiêu.
- Xâm nhập đuờng biển bằng thuyền mẹ, và từ đó xử dụng thuyền con boi vào vùng công tác.
- Xâm nhập vào vùng phi quân sự, vuợt sông Bến Hải và lén lút đi bộ vào điểm công tác, móc nối với thân nhân đa nằm vùng, hoặc giới chức đuợc tín nhiệm tại địa phuong. Truờng hợp sau này thuờng phải xử dụng “bona fides” để nhận nhau.
- Cử chuyên viên phục vụ tại Tòa Đại sứ của một vài nuớc thứ 3 nhu Lào, Cam-bốt, Pháp, Thái Lan hay Hong Kong...rồi từ đó tuyển mộ và huấn luyện các công tác viên có khả năng, và tạo cho họ cái vỏ bọc thích hợp cung nhu giấy tờ hợp lệ để họ dễ dàng xâm nhập vào miền Bắc hoạt động. Phuong pháp này đa đuợc điều nghiên tỉ mỉ, nhung vì quá tốn kém nên chỉ đuợc thực hiện từng giai đoạn.
Tuy có nhiều hình thức xâm nhập khác nhau nhu vừa trình bày trên, nhung trong bài này, tôi (Trung tá Nguyễn V
ăn Vinh) chỉ xin đề cập đến những toán Biệt Kích xâm nhập miền Bắc bằng đuờng hàng không mà thôi, vì đây la phần việc mà chính tôi đa đảm nhận trong nhiều năm tại co quan tình báo chiến luợc này.
Những chuyến bay
đem
Các toán Biệt Kích Dù thuờng
đuợc thả xuống miền Bắc vào những đem trăng. Mùa trăng thuận lợi cho công tác này bắt đầu từ ngày mồng 10 - 20 âm lịch hằng tháng.
Giờ giấc
đuợc chọn tùy thuộc vào điều kiện an ninh và thời tiết tại vùng công tác. Để có đủ phuong tiện đối phó với các bất trắc có thể xảy ra khi toán chạm đất, các nhân viên Biệt Kích Dù phải mang theo các trang bị cá nhân khá nặng nề.
Ngoài súng tiểu liên Swedish K. của Thụy
Điển hoặc Sten của Anh hay Uzi của Do Thái có trang bị ống giảm thanh và 3 đon vị hỏa lực, họ còn phải đeo thêm các dụng cụ khác trên 20 món, nào bidon nuớc, bản đồ vùng mục tiêu, địa bàn, lựu đạn, 3 ngày luong khô, đen bấm, pamean, dao găm, túi cứu thuong cá nhân, cà mèn, pháo hiệu (pen flare), đồng hồ đeo tay, radio, v.v...
Các dụng cụ này thuờng
đuợc mua ở các nuớc thứ 3 và không một trang cụ nào đuợc mang nhãn hiệu Hoa Kỳ hay miền Nam VN. Các đồ trang bị tập thể nhung dụng cụ phá hoại, đồ cứu thuong, luong thực dự trữ dùng cho 3 tháng, v.v...đều đuợc đóng thành kiện.
Máy truyền tin dự trữ và máy beacon là máy phát tín hiệu có tần số nhất
định, đuợc đặt tại kiện hàng só 1. Các toán viên khi nhảy dù xâm nhập vào đem, chiếc dù có thể bị ảnh huởng của gió, bạt ra xa cách bãi thả 1-2 km.
Nhung nhờ các radio cá nhân,
họ có thể dễ dàng bắt tín hiệu từ máy beacon phát ra, để đi về huớng tập trung.
Thông thuờng, các nhân viên quê quán vùng vào
đuợc thả về mục tiêu vùng đó. Để đảm bảo an ninh cho công tác, mục tiêu và nhiệm vụ của toán chỉ đuợc thuyết trình vào giờ chót, truớc khi lên máy baỵ Các chuyến xuất phát trong những năm đầu đến năm 1964, chính co quan Trung Uong Tình Báo Hoa Kỳ đa yểm trợ cho các chuyến bay bí mật này và lộ trình duy nhất đuợc xử dụng là Tân Son Nhất - Đa Nẵng - Vùng mục tiêu.
Tại
Đa Nẵng, đợi lúc trời tối, phi co cỡi bỏ hết mọi huy hiệu truớc khi khởi hành xâm nhập vào vùng hành quân. Phi co đuợc xử dụng là loại DC7 hoặc DC6. Phi hành đoàn thuờng là nguời Trung Hoạ Dai` Loan
Tuy nhiên, cung có lúc phi hành
đoàn là nguời VN, đuợc tuyển chọn trong số si quan có khả năng và đuợc tín nhiệm nhất của Không Quân Việt Nam. Phó TT Nguyễn Cao Kỳ hồi còn mang lon Đại úy, đa nhiều lần làm phi công chính thức cho các phi vụ đặc biệt này.
Đế
n cuối năm 1966, Trung Uong Tình Báo Hoa Kỳ rút vào bóng tối, nhuờng chỗ cho MAC-SOG, một co quan tình báo quân sự, thay thế yểm trợ cho Nha Kỹ Thuật.
Khi cuờng
độ chiến tranh VN đi đến giai đoạn khốc liệt nhất thì nhu cầu tin tức gia tăng cao, do đó số toán Biệt Kích Dù hoạt động phải đuợc tăng cuờng nhiều hon.
Các phuong tiện xâm nhập cu
đuợc thay thế bằng C123 hoặc C130 và noi phát xuất đuợc chuyển sang Nakor-Phanum, một sân bay nằm sát biên giới Thái-Lào hoặc sân bay don nằm ở phía Đông -Bắc Thái Lan.
Từ các noi
đó các toán Biệt Kích Dù đuợc chuyển qua trực thăng CH3 để bay băng qua lãnh thổ Lào, tiến về vùng mục tiêu nằm trên ranh giới Lào-Việt.
Cung có lúc mục tiêu
đuợc lựa chọn nằm sâu trong nội địa Bắc Viêt.
Trực th
ăng là phuong tiện xâm nhập vừa rẻ tiên vừa tiện lợi nhung lại là phuong tiện kém an toàn nhất, vì tiếng động co quá lớn, địch dễ phát hiện.
Phải ch
ăng đây là một trong những nguyên nhân thất bại của công tác Biệt kích tại miền Bắc? Vấn đề này đa đuợc phía VN quan tâm và nêu lên nhiều lần trong các phiên họp Việt-Mỹ, nhung phía đối nhiệm không quan tâm.
Số phận những con chim lạc loài
Đế
n cuối năm 1968, trong số gần 40 toán đuợc cho xâm nhập bằng đuờng hàng không và đuờng bộ để hoạt động dài hạn, chỉ có 5 toán là còn giữ đuợc liên lạc với Trung uong, đó là các toán Tourbillon (1962), AreÀs (1962), Remus (1963), Easy (1963) và Eagle (1963). Theo đánh giá chung của các chuyên viên hữu trách Việt - Mỹ. thì cả 5 toán này hình nhu đa bị địch kiểm soát, nhung cá nhân tôi vẫn còn tin tuởng một toán, đó là toán Ares. Sự tin tuởng này có thể đúng vì lý do sau đây:
Vào những n
ăm đầu ở trại cải tạo, tôi thuờng bị cán bộ, không biết thuộc co quan nào và cấp nào, đa thay nhau thẩm vấn tôi về các toán Biệt Kích. một trong những lần thẩm vấn ấy, tôi bị 3 tên cùng một lúc thay nhau hạch hỏi suốt buổi sáng, khiến tôi không còn sức chịu đựng, tôi đa bị gục ngã vì tức giận và xây xẩm.
Họ cho nguời dẫn tôi về phòng, nhung 2 giờ sau lại kéo tôi lên tiếp tục thẩm vấn. Họ dùng
đủ trò ma giáo “hỉ, nộ, ái, ố”,...lúc thì mời tôi hút thuốc lá “có cán” (tức loại thuốc có đầu lọc, một loại thuốc cao cấp vào thời ấy), lúc lại đập bàn quát mắng, khinh bi.
Họ chua bao giờ
đánh đập tôi lúc thẩm vấn, nhung họ đa dùng những lời rất cộc cằn và thô lổ để áp đảo tinh thần tôi.
Một
điều làm tôi quan tâm hon cả là họ hỏi tôi rất nhiều về toán Ares, nhu truởng toán tên gì, quê quán ở đâu, tuổi tác độ bao nhiêu, dáng điệu bên ngoài nhu thế nào, có những đặc điểm gì, những liên hệ gia đinh, địa chỉ của các nguời thân lúc ở miền Nam, v.v...
Tôi thầm nghi nếu
Ares đa thật sự nằm trong tay họ thì mắc mớ gì họ phải hỏi tôi những chuyện thừa thải ấy. Tôi có lý do để không trả lời họ, vì Ares đa xuất phát năm 1962, truớc khi tôi đuợc thuyên chuyển về Sở Bắc.
Tuy nhiên, hôm nay tôi xin nói ra
đây những gì tôi có thể nói ra đuợc. Một vài chi tiết khác tôi thấy chua thể tiết lộ lúc này vì có thể phuong hại đến sự an toàn của toán đó, nếu quả thật toán đó đến nay vẫn còn dấu đuợc tung tích.
Ares hay Hạ Long có tên thật là...,
một cán bộ trung cấp và là đảng viên CS bị khai trừ vì bất mãn. Anh đa theo đoàn nguời di cu vào Nam năm...và đuợc một giới chức miền Nam báo cáo lên ông Ngô Đinh Nhu, Tổng Thống Diệm và ông Nhu đa luu tâm và giúp đỡ cho nguời này.
Sau dó, Sở Bắc
đa cử nguời đến tiếp xúc thuyết phục và bố trí cho anh trở về Bắc hoạt động. Anh đa đồng ý và đa đuợc đua xâm nhập vào Vịnh Hạ Long năm 1962, rồi từ đó tiến dần về cảng Hải Phòng và nhà máy điện Uông Bí.
Đâ
y là 2 mục tiêu mà anh có nhiệm vụ theo dõi và báo cáo mọi sinh hoạt. Ares tỏ ra rất tích cực trong mọi nhiệm vụ giao phó, và điều rất kỳ lạ là anh đa mộ mến Tổng Thống Ngô Đinh Diệm một cách khác thuờng.
Hàng n
ăm, truớc ngày Song Thất hoặc 26/10, anh đều có đánh điện chúc mừng TT Diệm và nguyện trung thành phục vụ tổ quốc. Khi nghe tin TT Diệm bị giết qua đai phát thanh, anh rất thắc mắc và sau khi đuợc Trung uong xác nhận, anh đa tỏ ra chán nản tột độ.
Dù vậy, anh vẫn thi hành mọi công tác giao phó một cách chu
đáo. Những chuyến tàu cập bến Hải Phòng, nhất là các tàu chở vu khí hay quân dụng, đa đuợc anh theo dõi và báo cáo khá chi tiết.
Ngoài nhiệm vụ trên, anh còn báo cáo kết quả oanh tạc của một số mục tiêu khác nhau nhu cầu Hàm Rồng và nhà máy
điện Uông Bí ở quanh vùng Hải Phòng.
Để
giúp anh thi hành nhiệm vụ trong thời gian anh bị bị bịnh sốt rét, Trung uong đa chấp thuận đề nghị của anh, tuyển mộ thêm nguời em ruột và một hai nguời khác trong họ hàng, để phụ anh thực hiện quan sát các mục tiêu ở xạ Trong những năm 1966, 1967 và 1968, bệnh sốt rét của anh trở nên trầm trọng, nhung Trung uong không tiếp tế cho anh đuợc vì địa điểm nhận tiếp tế của anh nằm trong Vịnh Hạ Long đa bị lộ. Thêm vào đó, vùng biển Hải Phòng bị Mỹ gài mìn khiến mọi cố gắng tiếp tế bằng thuyền cho anh đều không thể thực hiện đuợc.
Khoảng giữa n
ăm 1968, do lời yêu cầu của phía VN, Hoa Kỳ đa tìm đuợc kế hoạch tiếp tế cho AreÀs. Trung uong báo ngay cho anh tọa độ một số bãi thả tiếp tế và yêu cầu toán đến tận noi nghiên cứu và báo ngay địa điểm uu tiên đuợc chọn.
Sau khi nhận phúc
đáp, Trung uong đa huớng dẫn các chi tiết mà toán phải thi hành để có thể nhận tiếp tế đúng nhu dự liệu.
Đế
n ngày N, giờ G, một đoàn phản lực đa xuất hiện bắn phá một số mục tiêu ở Hải Phòng, cùng lúc đó một phản lực co khác đa nem’ một thùng “container” đựng hàng tiếp tế xuống thửa ruộng đa ấn định và đuợc AreÀs đánh dấu bằng 2 cụm khói trắng nhu đa chỉ thị.
Cách tiếp tế này
đa đuợc thực tập 2 lần tại trại Long Thành và cả 2 lần đều đem lại kết quả mong muốn. Trong container đựng hàng tiếp tế, ngoài luong thực, thuốc men, áo quần còn có 10 thoi vàng để toán trao đổi thực phẩm hoặc thuốc men mỗi khi cần đến.
Ngoài các vật dụng trên, còn có 4 lá tho, trong
đó có một lá tho thăm hỏi của Truởng công tác, còn 3 lá tho khác đuợc dán bì kín. Toán đuợc chỉ thị dán tem vào và tuần tự gởi đến một địa chỉ trung gian tại Thái Lan. Mỗi tho đều có dấu hiệu riêng mà toán không đuợc biết lý do.
Chỉ trong một thời gian ngắn, 2 tho có nội dung thuờng
đa đến tay nguời nhận, tho còn nguyên si không bị mở, nhung tho thứ 3 có “gài” một tài liệu bí mật giả tạo lại không đến tay nguời nhận. 2 tháng sau, khi duợc Trung uong hỏi về lá tho này thì toán cho biết, trên đuờng di tới buu điện, bị còi báo động, đuong sự phải chạy tìm hầm trú ẩn, không may đánh roi lá tho xuống vung bùn nên đuong sự đa không gửi. Lý do này đa khiến bạn đồng minh Hoa Kỳ nghi ngờ lòng trung thành của Ares
Nhiệm vụ mới
Đế
n năm 1968, sau đợt tấn công của địch vào dịp Tết Mậu Thân, Nha Kỹ Thuật phải lãnh nhận thêm rất nhiều công tác ngoại biên với những toán mới đuợc thành lập :
- Các toán STRATA là những toán quân nhân
đuợc huấn luyện thuần thục để thi hành những công tác đột kích hay phá hoại các căn cứ địch nằm trên lãnh thổ Bắc Việt.
- Các toán PICK-HILL là những toán nguời Miên gốc Việt hoạt
động trong lãnh thổ Cam-bốt, có nhiệm vụ quan sát và phá hoại các căn cứ địa của VC nằm trên lãnh thổ nuớc láng giềng Cam-bốt.
- Các toán EARTH-ANGEL, còn
đuợc gọi là Đề Thám, là những toán đuợc thành lập với thành phần tù binh bộ đội Bắc Việt hồi chánh. Các toán này hoạt động rất đắc lực, đuợc trang bị nhu bộ đội chánh quy miền Bắc.
Nhờ
đó họ len lỏi vào vùng địch khá dễ dàng và đa nhiều phen lập đuợc nhiều thành tích đáng kể. Một số toán viên sau dó đa gia nhập Quân đội VNCH.
- Các toán SINGLETON hoạt
động riêng biệt từng cá nhân. Họ là những Việt kiều từng sống nhiều năm tại Cam-bốt, đuợc móc nối trở lại hoạt dộng nằm vùng tại Mimote, Krek, Sihanoukville, Kratié, Ba Thu, v.v... Đây là những noi địch đặt căn cứ quân sự và hoạt động rất mạnh.
Các nhân viên này có nhiệm vụ theo dõi, báo cáo hoạt
động địch và huớng dẫn phi co oanh tạc lúc cần thiết.
Ngoài các toán hoạt
động nhu trên, còn có chuong trình công tác lừa địch và ly gián địch, đuợc gọi là chuong trình Borden, mà toán viên là những tù binh bộ đội Bắc Việt cứng đầu.
Họ
đuợc học nhảy dù vài hôm truớc khi đuợc trang bị nhu một toán viên rất trung thành của miền Nam : một bản đồ, lệnh hành quân, tho giới thiệu, v.v... Các thứ này đuợc dấu kín trong áo nhảy và chỉ đuợc trao cho toán viên tù binh cứng đầu mặc vào truớc khi đuợc thả dù xuống vùng địch chiếm đóng.
Các chuong trình mới này
đa đem lại những kết quả hết sức khích lệ, nên phía Hoa Kỳ đa yêu cầu phía VN chấm dứt liên lạc với 5 toán còn lại ở miền Bắc, bằng cách ra lệnh cho các toán ấy tìm cách xâm nhập qua Lào, trinh diện với bộ đội Vang Pao hoặc rút về miền Nam... Tuy nhiên, nhiều tháng sau khi lệnh đuợc ban hành, không một toán nào xuất hiện.
Huớng về những nguời anh em kiêu hùng
Các Biệt Kích Dù bị CS bắt
đa phải chịu đủ thứ cực hình. Tuy vậy, họ vẫn giữ vững tinh thần quốc gia và đồng đội. Thái độ cuong quyết của họ đa phải làm các cán bộ CS khâm phục và gọi họ là những nguời “không cải tạo đuợc”.
Mãi
đến một thời gian lâu sau khi VNCH bị chiếm đóng, CS mới tuần tự tạm trả tự do cho các tù nhân Biệt Kích. Nguời đuợc trả sớm nhất đa phải ở tù suốt 15 năm và nguời lâu nhất trên 20 năm.
Khi họ trở về, chúng ta
đa biết thêm đuợc nhiều chuyện đa xảy ra khi họ công tác tại Bắc Việt. Tuy nhiên, vẫn còn một số toán bặt tin, trong đó có toán VOI do anh Trần Hiếu Hòa làm truởng toán cùng với 4 toán viên. Toán Ares mà tôi đa đề cập ở trên và một vài toán khác nữa, cung đang nằm trong danh sách những toán mất tích này.
Phải ch
ăng họ đa bị thủ tiêu hay đa hy sinh trên đuờng thi hành nhiệm vụ. “Hy sinh trong bóng tối, tất cả vì Tổ quốc”, đó là phuong châm hành động mà mọi Biệt Kích đa chấp nhận khi gia nhập vào binh chủng này.
Tôi còn nhớ n
ăm 1970, các si quan trong Bộ chỉ huy Nha Kỹ Thuật đa đuợc xem một cuốn phim mà một đon vị VNCH vừa tịch thu đuợc của bô đội Bắc Việt khi tấn công vào một căn cứ địch ở Mimot, Cam-bốt. Cuốn phim ghi lại phiên tòa xét xử một toán Biệt Kích mang tên toán Jackson, hoạt dộng tại vùng Nghệ Tinh. Bản cáo trạng rất dài, luận tội rất nặng “nào là tay sai đế quốc Mỹ, tay sai Ngô Đinh Diệm, nào là xúi dục nhân dân lật đổ chính quyền và phá hoại tài sản nhân dân, v.v...
Toán Jackson
đa bị bắt toàn bộ với tất cả vu khí và chất nổ khi toán phá chiếc cầu thứ 2 tại Cửa Lò.
Hầu hết toán viên
đa lãnh án tử hình, chỉ 1-2 nguời lãnh án chung thân. Điều làm anh em chúng tôi xúc động và hãnh diện, là đuợc chứng kiến thái độ hiên ngang và bình tinh của các toán viên khi bản án tử hình đuợc tuyên đọc.
Theo lời một nhân chứng quê ở Thọ Ninh, bà con với một toán viên cho biết, 6 nguời lãnh bản án tử hình
đa bị bắn ngay sau đó, và lời nói cuối cùng của họ là : Việt Nam Cộng Hòa muôn năm! Tổng Thống Ngô Đinh Diệm muôn năm!
Anh em chúng tôi là những nguời
đa đi qua nhiều trại cải tạo ở miền Bắc và đa đuợc nghe nói rất nhiều về những việc làm đáng phục của anh em Biệt Kích.
Trong số
đó có các vị linh mục, đại đức tuyên úy, các bạn bè của tôi đa sống chung trại với các anh ấy. Ngoài ra, các tù hình sự miền Băc mà đa số chúng tôi thuờng gọi họ bằng danh từ “bọn hình sự”, vì phần đông họ thuộc thành phần bất hão, trộm cuớp, đâm chém, giết nguời...khi đuợc hỏi về anh em Biệt Kích thì họ tỏ vẻ rất khâm phục.
Họ nói với tôi :”Các anh Bê Ka là những nguời rất hào hùng, cán bộ trại cung phải nể, các anh ấy rất kỹ luật và
đoàn kết với nhau, họ thuong nhau và giúp đỡ nhau.
Khi một nguời bị biệt giam
đuợc thả hay bị ốm, là các anh khác tìm cách giúp đỡ. Dù ai cung đói, nhung họ nhịn bớt phần ăn để bồi duỡng cho anh em bị bệnh hay bị ốm.
Đa
có những anh Bê Ka cuớp súng bắn cán bộ rồi chạy thoát, có noi các anh toàn bộ đứng lên làm reo tuyệt thực không đi lao động, nhung cán bộ trại cung đanh phải làm ngo...”
Riêng cá nhân tôi, trong 13 n
ăm cải tạo, đa không may mắn gặp lại các anh em Biệt Kích, nhung tôi không bao giờ quên những con nguời hào hùng cùng chung lý tuởng đa cùng chung sống với nhau trong tình huynh đệ chân thành. Tôi là nguời đa từng sống chung với họ ở trại huấn luyện Long Thành và lúc họ lên đuờng đi công tác., tôi đa tiễn chân hoặc nhiều khi đa cùng vói họ bay vào vùng mục tiêu xâm nhập, đua tay vẩy chào họ khi họ rời máy bay... Những kỷ niệm đó khó quên đuợc.
Những kỷ niệm khó quên
Tôi nhớ lại n
ăm xua, có lần truớc ngày lên đuờng công tác, tôi lái xe đua một nhân viên của tôi đến thăm lần cuối nguời bạn gái, hay nói đúng hon, một nguời yêu, có nhà ở hẽm xứ Bùi Phát, trên đuờng Truong Minh Giảng, nay đổi tên là Lê Văn Sỹ. Đến noi, nguời thanh niên ấy vội vã buớc xuống xe nhu muốn tận dụng những giây phút ngắn ngủi và quý báu còn lại...
Khoảng 10 phút sau, anh trở ra với nguời bạn gái
đi theo tiễn chân, trên tay anh còn mang một gói quà nhỏ mà tôi đoán chắc đó là quà kỷ niệm của nguời yêụ Họ nhìn nhau, mắt đẫm lệ, và tôi chỉ biết im lặng cảm thông nỗi buồn chan chứa đang xâm chiếm 2 tâm hồn...
Xe chạy
đuợc một quãng đuờng, nguời thanh niên ấy quay nhìn tôi, vừa nói vừa mở món quà :”Đây, anh xem, quà cô ấy tặng em”. Tôi liếc nhìn, thấy một nắm tóc thề đuợc gói trong một chiếc áo lót. Cả hai chúng tôi đều im lặng trên đuờng về trại.
Lần khác, một nhân viên của tôi cung sắp lên
đuờng, anh đến gặp tôi và trao cho tôi một chồng tho khá dày đa đề bì sẵn và nói :”Anh Dung, anh biết em là con một, em đi nhung em đa không dám nói thật với mẹ em. Vì vậy, em nhờ anh mỗi tháng đến thăm mẹ em và trao cho em. em một bức tho này, nói là em đang đi học ở ngoại quốc gửi về để mẹ em yên tâm”.
Tôi xúc
động nhìn nguời thanh niên ấy với tất cả lòng yêu thuong và mến phục. Tôi đa nhận tho anh giao và hàng tháng, tôi đa đến thăm mẹ em và trao cho bà quả phụ ấy bức thu của con bà... Nhung đau đớn thay, lá tho cuối cùng của anh đa đuợc trao mà “khóa học” của anh vẫn chua mãn.
Hai nhân viên Biệt Kích mà tôi vừa kể trên
đây, cả 2 đều trở về từ cõi chết, sau gần 20 năm sống trong lao tù CS, một anh hiện đang sống ở Cali, đó là anh Lâm, em ruột của anh Nguyễn Ngọc Trâm, còn nguời kia, truớc ngày tôi rời Saigon, anh ấy đang vất vã hành nghề thợ mộc ngoài Vung Tàu. Hy vọng một ngày không xa, anh Độ cung nhu bao nhiêu anh hùng Biệt Kích khác còn ở VN sẽ đuợc đoàn tụ với chúng ta tại quê huong thứ hai này.
Trung Tá Nguyễn Văn Vinh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét