Lê Quế Lâm
Do yêu cầu
của cơ quan “The Center for A Science of Hope” ở New York, năm 2001 ông
Nguyễn Xuân Phong -cựu Trưởng phái đoàn VNCH tại hội nghị hai bên miền
Nam Việt Nam ở La Celle Saint Cloud (Pháp) từ tháng 3/1973 đến 4/1975,
đồng thời là Quốc Vụ khanh đặc trách hòa đàm, đã xuất bản quyển Hope and Vanquished Reality (Hy vọng và Thực tế tan hoang).
Đây không phải là bài điểm sách, giới thiệu tác phẩm nói trên của một
nhân chứng lịch sử. Tôi chỉ mượn tựa của sách để nói lên nổi bất hạnh
của dân tộc, đã gánh chịu cuộc chiến đẩm máu hàng chục năm, cuối cùng
niềm hy vọng vừa lóe lên khi hiệp định hòa bình ra đời ngày 27/1/1973,
nhưng chỉ hơn hai năm sau, những thành quả xương
máu của trên ba trăm ngàn tử sĩ đã sụp đổ tan tành.
Ông Nguyễn
Xuân Phong là một thành viên của chính phủ VNCH từ thời nội các chiến
tranh của Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ (1965) đến nội các Nguyễn Bá Cẩn
(1975). Cuối tháng 10/1966, ông tháp tùng Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ -chủ
tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương và Trung tướng Nguyễn văn Thiệu -Chủ
tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, tham dự hội nghị thượng đỉnh Manilla (Phi
Luật Tân), có sự tham dự của lãnh tụ các nước đồng minh có quân tham
chiến ở VN như tổng thống Phi Luật Tân Ferdinand Marcos, tổng thống Đại
Hàn Park Chung Hee, tổng thống HK Lyndon Johnson, thủ tướng Úc Đại Lợi Harold Holt, thủ tướng Thái Lan Thanom Kittikachorn, thủ tướng Tân Tây Lan Keith Holyoake.
Với tư
cách Ủy viên (Bộ trưởng) Phủ Chủ tịch UBHPTƯ, ông Phong là trưởng phái
đoàn VN cấp bộ trưởng, tham gia việc soạn thảo bản thông cáo chung của
hội nghị. Khi đề cập đến việc thương thuyết với cộng sản, đã xảy ra cuộc
tranh luận giữa phái đoàn Đại Hàn và HK. Phía Nam Hàn nhất định đòi họ
và các đồng minh khác của chính phủ Sàigòn phải có mặt trong bất cứ cuộc
hòa đàm nào, trong khi phía Mỹ lập luận, chuyện đó phải là một vấn đề
giữa người VN với nhau. Ông Phong bối rối khi thấy hai người bạn ngoại
quốc tranh luận hăng say với nhau vì quyền lợi của VN, nên ông xin tạm
ngưng một lúc để xả hơi. Sau đó, trưởng đoàn Đại Hàn đến gặp ông, giải
bày lý do
đã phải tranh luận với phái đoàn Mỹ. Ông ta cho biết đã nhận chỉ thị
nghiêm ngặt của tổng thống Nam Hàn liên quan đến việc tranh luận, vì họ
đã trải qua một trường hợp tương tự với HK vào thập niên 1950. Ông cảnh
giác là nếu như hoà đàm có xảy ra, Sàigòn sẽ thấy Mỹ thương thuyết thẳng
với bên kia, rồi Sàigòn chẳng nói năng gì được trong khi thương thuyết,
rồi cuối cùng chỉ phải chấp nhận và tuân hành. (If peace talks ever
came, he warned, Saigon would find itself with the Americans negotiating
directly with the other side, and Saigon would not have much to say in
the matter except to accept and comply) (1)
Quả thực,
những lời cảnh báo của vị lãnh đạo Đại Hàn đã xảy ra trong cuộc hòa đàm ở
Paris từ tháng 5/1968 đến đầu tháng Giêng 1973. Ai cũng biết, HK nổi
tiếng có thói quen cứ làm theo ý của mình. Nhưng thành thật nhận xét,
hành động đó không phản bội đồng minh và lại phù hợp với chiến lược của
họ. Tại Triều Tiên, chiến tranh 1950-1953 kết thúc không mang lại một
thắng lợi nào cho CS, dù cả triệu binh sĩ TC đã thương vong. HK can
thiệp cứu Nam Hàn vì phần đất này thuộc ảnh hưởng của Mỹ do quyết định
của đồng minh sau Thế chiến II, vì thế HK can thiệp vào Triều Tiên dưới
danh nghĩa LHQ, có 14 nước tham chiến. Chiến tranh chấm dứt năm 1953,
Triều Tiên trở lại nguyên trạng
chia cắt cũ. Trái lại, VN và khu vực ĐNÁ đã đứng ngoài ảnh hưởng của
Nga lẫn Mỹ sau TC II, nhưng ông Hồ Chí Minh đưa ra chiêu bài giải phóng
dân tộc, chống thực dân đế quốc để đưa VN vào quỉ đạo CS quốc tế. Chiến
tranh Đông Dương đã xảy ra từ sau 1949, nhưng đến 1965 HK mới trực tiếp
can dự, lúc đó MN đã có một lực lượng đối nghịch với chính phủ VNCH là
MTGPMN. Ai cũng biết tổ chức này do Hà Nội dựng lên để thôn tính MN,
nhưng lực lượng này lại là những người MN đã từng kháng chiến chống Pháp
trước đây, nay họ chống Mỹ với chủ trương xây dựng MN trung lập.
HK công
nhận MTGPMN là một thực tế chính trị, nhằm phân hóa tổ chức này với Hà
Nội, coi họ là một bên của miền Nam VN, sẽ góp phần xây dựng một MN phồn
thịnh, không bị ảnh hưởng của một cường quốc nào, sau khi chiến tranh
chấm dứt. HK không phản bội, HĐ Paris ra đời, cơ chế VNCH vẫn còn nguyên
vẹn để chủ động xây dựng MN thời hậu chiến. Vì thế, từ đầu năm 1972, TT
Nixon đã đi tìm sự thỏa thuận với TC và LX để kết thúc chiến tranh: HK
rút khỏi miền Nam VN, nhân dân ở đây sẽ quyết định tương lai của MNVN mà
không có sự can thiệp của bên ngoài. Chính quyền MN do nhân dân MN bầu
lên qua cuộc tổng tuyển cử tự do dân chủ, sẽ hiệp thương với chính quyền
miền Bắc, để
thống nhất VN theo tinh thần của hai thoả hiệp Genève 1954 và Paris
1973, đều có sự thỏa thuận của ba cường quốc HK, LX và TC. Một nước VN
thống nhất trong hòa bình sẽ là mẫu mực giúp hai miền nam và bắc Triều
Tiên thống nhất. HK sẽ không còn trú đóng ở đây nữa.
Dự thảo HĐ Paris 1973 đã hoàn tất, ngày 17/1/1973 TT Nixon gởi thư thông báo TT Thiệu: “Tự do và độc lập của nước VNCH vẫn luôn luôn là mục tiêu trọng đại trong chính sách ngoại giao HK.
Tôi đã theo đuổi mục tiêu này trong suốt cuộc đời chính trị của tôi và
trong bốn năm trời nay, tôi đã lãnh nhiều hậu quả trầm trọng trong nước
cũng như ngoài nước, vì theo đuổi mục tiêu này. Chính vì để bảo vệ những
mục tiêu chung của chúng ta mà tôi phải nhất quyết chọn đường lối hành
động này. Tôi cả quyết rằng việc từ chối bản hiệp định này sẽ đưa đến việc cắt đứt mọi viện trợ cho VNCH.
Do đó tôi sẽ cho tiến hành việc phê chuẩn vào ngày 23/01 và sẽ
ký kết vào ngày 27/01/1973....Tôi đang chuẩn bị gởi phó Tổng thống
Agnew qua Sàigòn để thảo luận với Ngài về mối quan hệ giữa hai nước
chúng ta trong thời hậu chiến. Ông Agnew sẽ rời Washington vào ngày 28,
một ngày sau khi thỏa hiệp đã ký. Trong chuyến công du này, Phó TT Agnew
sẽ công khai cam kết những gì tôi đã trình bày với Ngài. Tôi xin nhắc
lại những cam kết đó như sau:
-Trước hết, HK công nhận chính phủ của Ngài là chính phủ duy nhất hợp pháp ở MNVN;
-Thứ hai, HK không công nhận quyền có mặt của quân ngoại quốc trên lãnh thổ MN;
-Thứ ba, HK sẽ phản ứng mãnh liệt nếu bản hiệp định bị vi phạm”.
Nixon kết thúc lá thư: “Tôi
cho rằng Ngài có hai sự lựa chọn chính yếu: một là, tiếp tục cản trở
việc ký kết, đó là hành động có vẻ lẫm liệt nhưng thiển cận; hai là,
dùng bản hiệp định như một phương tiện để xây dựng một căn bản mới cho
nền bang giao HK-VNCH. Tôi không cần phải nói Ngài cũng biết rõ đây là
con đường duy nhất để bảo vệ mục tiêu của chúng ta”. (2)
Trong tuần
lễ đầu, sau khi HĐ Paris 1973 được ký kết, để thực hiện điều 21 giúp BV
hàn gắn vết thương chiến tranh, TT Nixon đã gởi đến TT Phạm Văn Đồng
hai bức thư đề nghị thành lập Ủy ban Hỗn hợp kinh tế và đóng góp vào
chương trình tái thiết nước VNDCCH số tiền 3,25 tỉ đôla trong thời gian 5
năm. Ngoài ngân khoản trên, chính quyền Nixon còn dự trù viện trợ thêm
cho Hà Nội từ 1 đến 1,5 tỉ đôla thực phẩm và những nhu cầu khác. Cuối
tháng 2/1973 Kissinger đến Hà Nội gặp Lê Đức Thọ để thảo luận việc thi
hành HĐ Paris. Ông yêu cầu BV rút quân khỏi Lào và Cam Bốt, đồng thời
thảo luận việc viện trợ kinh tế giúp VNDCCH hàn gắn vết thương chiến
tranh và thành lập Ủy ban
hỗn hợp kinh tế mà Nixon đã thông báo cho TT Phạm Văn Đồng. Trong hồi
ký Kissinger tiết lộ chuyến đi BV của ông để nhắc nhở giới lãnh đạo Hà
Nội phải chọn một trong hai con đường: Một là thi hành nghiêm chỉnh hiệp
định để nhận viện trợ của Mỹ. Hai là không thi hành hiệp định, khước từ
sự viện trợ của Mỹ. (3)
Từ
19/3/1973, hai phái đoàn VNCH và Cộng hòa Lâm thời Miền Nam VN (MTGPMN)
đã gặp nhau tại hội nghị La Celle Saint Cloud ở Pháp để sớm ký kết một
thỏa hiệp về những vấn đề nội bộ của MN. Chính phủ VNCH vẫn khăng khăng
đòi CSBV phải rút hết quân về Bắc và nhất định không liên hiệp với chính
phủ Lâm thời Cộng hòa MNVN. TT Thiệu chấp nhận cho MTGPMN tham gia vào
đời sống chính trị MN bằng đề nghị tổ chức một cuộc tổng tuyển cử trong
vòng hai hoặc ba tháng sau khi quân BV rút khỏi MN. MTGP bác bỏ đề nghị
đó, họ không chịu thảo luận những vấn đề nào không được ghi trong văn
bản hiệp định. Họ đòi VNCH thả tất cả những người CS còn bị giam giữ và
hai bên chọn người tham
gia Hội đồng Quốc gia Hòa hợp và Hòa giải dân tộc, chớ không bầu cử.
Sau đó Hội đồng đứng ra tổ chức bầu cử Quốc hội Lập hiến và Quốc hội này
sẽ soạn thảo hiến pháp cho MNVN. Đề nghị của MTGP bị VNCH bác bỏ vì TT
Thiệu không chấp nhận thành phần thứ ba. (4)
Hội nghị La Celle Saint Cloud bế tắc, từ 17/5 đến 13/6/1973, theo đề nghị của HK, Kissinger và Lê Đức Thọ trở lại Paris “để tìm cách cải thiện việc thi hành hiệp định Paris”.
Trong thời gian này, Nixon đã gởi đến TT Thiệu 9 lá thư khuyến cáo VNCH
không nên vi phạm những thỏa ước đã ký và phàn nàn thái độ cứng rắn của
phái đoàn VNCH ở hội nghị La Celle Siant Cloud. Trong lá thư cuối cùng
gởi TT Thiệu, lời lẽ của Nixon vô cùng gay gắt: “Nếu ngài tiếp tục từ
chối thì coi như Ngài khước từ toàn bộ chính sách của tôi vẫn hằng ủng
hộ Ngài, quí chính phủ và quí quốc. Nếu Ngài lựa chọn đường lối tiêu cực
này, thì chính Ngài đã vạch ra chính sách tương lai của HK đối
với VN. Tôi sẽ bắt buộc chiều ý Quốc hội và công luận HK chỉ yểm trợ
vừa đủ nhu cầu có tính nhân đạo cho nhân dân miền Nam VN. Chẳng cần phải
nói dài dòng, nổ lực của chúng tôi trên toàn cỏi Đông Dương sẽ chấm dứt”. (5)
Hai tuần
sau, Quốc hội Mỹ bắt đầu thực hiện lời cảnh báo của Nixon. Ngày
29/6/1973 Quốc hội thông qua dự luật chuẩn chi viện trợ cho nước ngoài,
kèm theo một tu chính án quan trọng của hai nghị sĩ Clifford P. Case và
Frank Church. Đạo luật qui định “Không có một kinh phí nào có thể
được chi cho việc yểm trợ trực tiếp hoặc gián tiếp các hoạt động của Mỹ
trên lãnh thổ, trên không hoặc ngoài biển Cam Bốt, Lào, Bắc và Nam VN.
Sau ngày 15/8/1973 không có kinh phí nào được cấp trước đây theo bất cứ
đạo luật nào khác có thể được chi cho mục đích như vậy”. Đối với
Quốc hội Mỹ, khi HĐ Paris ra đời, cuộc chiến VN kể như đi vào giai đoạn
kết thúc, nên giảm dần quân viện
cho VNCH. Mức quân viện cho tài khóa mới bắt đầu từ 1/7/1973 dự trù chỉ
còn 1160 triệu so với 2270 triệu của tài khóa trước, nhưng khi chung
quyết chỉ còn 900 triệu mỹ kim. Sự kiện này đã được Ngũ Giác Đài báo cho
Phòng Tùy viên Quân lực HK ở Sàigòn (DAO) từ nhiều tháng trước.
Lúc bấy
giờ, đảng Dân chủ nắm đa số ở Quốc hội, họ chủ trương cắt viện trợ cho
VN. TT Thiệu cử ông Nguyễn Xuân Phong sang Hoa Thạnh Đốn vận động đảng
Dân chủ, vì trong thời gian tham dự hòa đàm Paris, ông có quan hệ tốt
với hai trưởng đoàn HK là Đại sứ Harriman và Đại sứ Cyrus Vance. Ông
Vance sau này là Ngoại trưởng Mỹ dưới thời TT Carter. Đây là sứ mạng khó
khăn, vì đảng Dân chủ đã có ác cảm với TT Thiệu. Hồi cuối tháng
10/1969, ông Thiệu đã từ chối không gởi phái đoàn Sàigòn sang Paris tham
dự hòa đàm theo yêu cầu của TT Johnson. Vì thế kế hoạch hòa bình của
đảng DC thất bại, ứng cử viên Humphrey thất cử. Dù vậy, trước khi đến Mỹ
cầu viện, ông Phong xin TT
Thiệu cho phép ông, nếu Mỹ có hỏi “VNCH muốn người Mỹ làm gì?”, thì
ông được trả lời “yêu cầu Mỹ giúp VNCH hai tỉ mỹ kim trong hai năm, sau
đó chúng tôi tự lo liệu lấy”. TT Thiệu đồng ý.
Ông NXP
luôn hy vọng, khi Mỹ rút khỏi MNVN, nơi đây không còn là “tiền đồn của
Thế giới tự do” (Outpost of the free world), Miền Nam có nhiều khả năng
trở thành “tiền đồn của Mậu dịch tự do” (Outpost of Free Trade) ở
Viễn Đông. Trước khi tham chiến HK đã có kế hoạch Staley/VuQuocThuc
(1961), hai vị này đều là tiến sĩ kinh tế. Sau khi Mỹ can dự vào cuộc
chiến, đã có kế hoạch hậu chiến Lilienthal/VuQuocThuc, đặt trọng tâm vào
việc phát triển đồng bằng sông Cữu Long. TT Johnson từng đề nghị với
ông TTK/LHQ U Thant đề xướng với các nước ĐNÁ liên kết với nhau trong đó
có BV, góp phần trong nổ lực chung để hợp tác và phát triển khu vực
trong hòa bình. HK sẽ đầu tư 1 tỉ đôla
cùng các nước kỹ nghệ phát triển kể cả LX tham gia vào nổ lực chung đó.
Tại hội nghị thượng đỉnh Manilla (10/1966), các nước có quân tham chiến
ở VN đưa ra sáng kiến hòa bình, quân ngoại nhập đồng rút khỏi MNVN để
nhân dân ở đây tự quyết định vận mạng của họ. Đồng thời đề xướng kế
hoạch phát triển khu vực Á châu/Thái bình Dương với việc thành lập Ngân
hàng Phát triển Á châu (ADB).
HĐ Paris
ra đời, ngoài việc viện trợ giúp BV gần 5 tỉ đôla để hàn gắn vết thương
chiến tranh, TT Nixon còn cam kết với TT Thiệu ở Saint Clemente, sẽ yểm
trợ đầy đủ các kế hoạch hậu chiến của VNCH. Từ những sự kiện trên, ông
NXP tin tưởng MN chỉ cần 5 tỉ đôla và 5 năm, sẽ trở thành “tiền đồn Mậu
dịch tự do” ở khu vực Á châu Thái Bình Dương. MN sẽ mở rộng cửa mời đón
bạn bè năm châu kể cả LX, TC và người “anh em” ở miền Bắc cùng đầu tư.
Giới tuyến quân sự tạm thời năm 1954 với hai khu đệm ở hai bên vĩ tuyến
17 chia hai đất nước, từ nay được mở rộng thành một cảng tự do (free
port) cho cả hai miền Nam Bắc và các nước như Pháp và Âu châu, Nhật,
Trung Quốc
và mọi quốc gia đến đó tự do kinh doanh, xuất nhập cảng hàng hóa. Nếu
TC có Hồng Kông thì nơi đây sẽ là một Hồng Kông của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Bắc Kinh còn bày tỏ ý muốn, khi giới tuyến 17 trở thành
“free port”, họ sẽ chọn khu vực phía Nam để đầu tư. (6)
Niềm hy
vọng và mơ tưởng của ông NXP đã mờ dần trước thực tế phủ phàng trong
những tháng đầu sau khi HĐ Paris 1973 ra đời. Tuy nhiên ông vẫn lạc
quan, MN trở thành tiền đồn của mậu dịch tự do vẫn còn có thể thực hiện
được. Ông sẽ vận động HK giúp thực hiện kế hoạch trên, trong khả năng
vừa phải mà Quốc hội có thể chấp nhận: hai tỉ đôla và hai năm. Sau đó MN
có thể tự lực và sống còn trong bối cảnh mới, không còn là tiền đồn của
thế giới tự do. Ông Phong đã từng chia xẻ ý niệm này với đại sứ
Harriman và nhiều chuyên viên kinh tế thuộc cơ quan viện trợ HK
(U.S/AID) như Wheerley, MacDonald, Parker...Do đó, ông nhận sứ mạng của
TT Thiệu đến Mỹ cầu viện hồi tháng
10/1973. Ông đã nói chuyện với ông George Woods cựu chủ tịch Ngân hàng
Thế giới, Charles Allen -Ngân hàng đầu tư, Cyrus Vance tổ hợp nghiên cứu
luật đầu tư và nhiều doanh gia nổi tiếng của Mỹ. Ông đến sứ quán VNCH
nhờ Đại sứ Trần Kim Phượng sắp xếp để ông gặp Đại sứ Harriman. Ông
Phượng trả lời: Anh không thể có cuộc hẹn với ông ta! Từ mấy năm nay, có
lẽ từ 1969, Thượng nghị sĩ Fulbright và Đại sứ Harriman luôn từ chối
tiếp xúc với Đại sứ VNCH ở Hoa Thạnh Đốn. Ông Phong nhờ cô thư ký Toà
Đại sứ điện thoại cho ông Harriman thông báo ông NXP muốn đến thăm. Mọi
người không ngờ, ngay 4 giờ chiều hôm đó, ông Phong đã gặp Harriman và
sáng sớm hôm sau gặp vị chủ tịch ủy ban của Quốc hội. Sau một giờ trình
bày về tình hình ở Sàigòn,
ông ta hỏi VNCH cần Mỹ giúp bao nhiêu và bao lâu nữa? Ông Phong đáp: hai tỉ đôla, hai năm, và sau đó chúng tôi tự lo liệu.
Ông ta phì cười đưa ông Phong tờ báo New York Times có bản tin cho biết
chiều hôm qua, Bộ trưởng ngoại giao của VNCH khi đến dự Đại hội đồng
LHQ với tư cách quan sát viên, đã tuyên bố với báo chí là “HK phải ở lại VN ít nhất thêm 10 năm nữa”.
Lúc đó, ông Nguyễn Phú Đức là quyền Bộ trưởng Ngoại giao. Ông Phong
sượng sùng, trở về tòa Đại sứ, gọi điện báo cho TT Thiệu sự việc. (7)
Dù gặp
nhiều mâu thuẫn với TT Thiệu, bước sang năm 1974, chính quyền Nixon vẫn
còn cố gắng giải quyết vấn đề VN bằng con đường hòa bình. Ngày 20/2/1974
Kissinger lại sang Paris gặp Lê Đức Thọ. Trong cuộc mật đàm lần này có
sự hiện diện của Martin -Đại sứ Mỹ ở Sàigòn. Kissinger yêu cầu Hà Nội
hợp tác với Mỹ để thúc đẩy hai bên miền Nam VN ngồi lại với nhau. Ông đề
nghị bước đầu Việt Cộng hãy ngưng bắn ở vùng 3 và 4. VNCH sẽ công nhận
ranh giới VC ở vùng 1 và 2. Ý ông muốn nói hai vùng này VC kiểm soát
được nhiều đất thì sẽ nhường cho VC chỉ trừ Huế và Đà Nẳng. Sau đó, HK
sẽ áp lực chính quyền Sàigòn thành lập Hội đồng Quốc gia Hòa hợp và Hòa
giải dân tộc.
Trở lại Sàigòn, Đại sứ Martin thúc hối TT Thiệu thành lập Hội đồng
QG/HGHHDT và thừa nhận việc phân chia lãnh thổ mà Kissinger đã đề nghị
với Lê Đức Thọ. Ngoài ra, được sự đồng ý của Tòa Bạch Ốc, Martin nhờ đại
sứ Ba Lan trong Ủy ban Quốc tế kiểm soát và giám sát ngưng bắn, chuyển
đến Hà Nội một điệp văn, kêu gọi giới lãnh đạo BV hưởng ứng đề nghị của
Kissinger để chấm dứt cuộc chiến ở MNVN. (8) Martin cũng đánh điện về
Hoa Thạnh Đốn, trình bày nhu cầu và sự hợp lý của việc cắt đất nhường
cho VC khi tiền viện trợ đã bị cắt. (9)
Ngày
10/3/1975, Cộng quân tấn công Ban Mê Thuộc. Theo ý đồ của Bộ Chính trị
Đảng CSVN, từ Ban Mê Thuộc, cộng quân sẽ tiến thẳng xuống vùng duyên hải
Phú Yên, chia hai miền Nam, giành phân nửa lãnh thổ phía bắc. Để chống
lại âm mưu chia cắt của BV, ngày 14/3/1975 TT Thiệu triệu Thiếu tướng
Phạm Văn Phú đến Cam Ranh, ra lịnh bỏ ngỏ cả vùng Cao nguyên. Ông cho
rằng QLVNCH không còn đủ khả năng bảo vệ toàn thể lãnh thổ, phải rút bỏ
những vùng kém trù phú, gom lực lượng về cố thủ vùng duyên hải. Trước
đó, TT Thiệu gọi Trung tướng Ngô Quang Trưởng –Tư lịnh Quân đoàn 1 về
Dinh Độc Lập, ông lấy viết vạch một đường từ Ban Mê Thuộc xuống Tuy Hòa
và nói đó là ranh giới mới
của miền Nam. TT Thiệu còn căn dặn tướng Trưởng “Phải giữ kín không tiết lộ cho các tư lịnh sư đoàn, các tỉnh trưởng cũng như Hải quân và Không quân biết việc bỏ miền Trung”
(Sách “Can trường trong chiến bại” của Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại). TT
Thiệu còn ra lịnh chỉ đem lực lượng Nhảy Dù và Thủy quân Lục chiến về cố
thủ Sàigòn.
Kế hoạch
rút bỏ miền Trung và Cao nguyên đã được Mỹ và Bắc Việt vạch ra từ đầu
năm trước, sau đó đích thân Đ/sứ Martin trình bày chi tiết với TT Thiệu.
Ted Serong một cố vấn người Úc cũng đề nghị ông Thiệu nên rút khỏi phân
nửa lãnh thổ phía Bắc, vì nơi đây QLVNCH phải bố trí 7 trong số 13 sư
đoàn chủ lực chỉ để bảo vệ 1/6 dân số MN. Serong nguyên là cựu thiếu
tướng Quân đội hoàng gia Úc và sau đó làm việc với CIA. (10) Đó cũng là ý
kiến của tướng John Murray, Tùy viên Quân lực/Sứ quán HK (DAO). Trong
buổi họp cuối cùng với các tướng lãnh VNCH trước khi mãn nhiệm kỳ trở về
nước (8/1974), Murray đã khuyên họ nên thu gọn tuyến phòng thủ, tập
trung quân số và đạn
được để bảo vệ những vùng đông dân trù phú.
Đã quyết định rút bỏ vùng 1 và 2 vì không còn đủ khả năng bảo vệ, người lãnh đạo đất nước cần phải cân phân, liệu phải bỏ bằng
cách nào có lợi cho dân cho nước. Đây lại là một quyết định có tính xây
dựng, TT Thiệu lại giữ bí mật, không cho người Mỹ biết. Đáng lẽ ông nên
báo cho HK biết, để TT Ford nói thẳng với Brezhnev và Chu Ân Lai, họ sẽ
yêu cầu Hà Nội án binh bất động. Đối với đồng bào, TT Thiệu có thể nêu
lý do chiến tranh đã bùng nổ lớn khi CS đánh chiếm Ban Mê Thuộc, trong
khi chính quyền quốc gia mong muốn giải quyết vấn đề MNVN bằng con đường
hòa bình theo tinh thần HĐ Paris. Vì thế chính phủ VNCH quyết định giao
vùng 1 và 2 cho MTGP tạm thời quản
lý, trong khi chờ đợi hai bên MN tiến hành việc ổn định tình hình để
tiến tới cuộc tổng tuyển cử tự do có quốc tế giám sát.
Với quyết
định trên, chính quyền quốc gia vừa tranh thủ MTGP vừa phân hóa họ với
Hà Nội. Nhờ VNCH mà họ có một được nửa MN, họ phải củng cố và ra sức
tranh thủ đồng bào, nhờ đó hai bên ở MN mới có thể tồn tại, phát triển
để sống còn, sau đó hợp nhất trước khi thống nhất đất nước. Hành động
của TT Thiệu đã mở đường cho CSBV thôn tính MN áp đặt chế độ độc tài lên
nhân dân, cả VNCH và MTGPMN đều bị đào thải. Trong hồi ký “Gọng kềm
lịch sử”, cựu Đại sứ Bùi Diễm chua chát nhận xét “Có lẽ những năm nắm
giữ uy quyền đã khiến ông trở nên mê muội. Ông đã không hiểu những biến
cố xảy ra ở HK và giờ đây chính tôi tận mắt mục kích ông cũng không
hiểu nổi chính cả những vấn đề đang xảy ra ngay ở VN. Dù đang lúc thập
tử nhứt sinh mà ông Thiệu vẫn chẳng phóng tầm nhìn lên trên những vấn đề
uy quyền cá nhân”. Hành động di tản chiến thuật của ông chỉ nhằm
“thấu cấy” người Mỹ, trong khi ông là tay đánh bạc tồi. Gần 10 năm trước
TT Đại Hàn Park Chung Hee đã báo cho ông biết “cái tẩy” của HK, mà còn
đặt vận mạng đất nước vào canh bạc, thì chỉ có nước chết mà thôi, vã lại
HK đã ngưng chơi với ông từ khi thấy ông không còn hợp “jeu” với họ
nữa.
Khi
tấn công Ban Mê Thuộc, ông Lê Duẩn chỉ kỳ vọng sẽ áp lực ông Thiệu rút
lui khỏi vùng 1 và 2. Việc “giải phóng” Miền Nam phải chờ đến giữa năm
1976, khi HK bận lo bầu cử tổng thống. Nào ngờ chỉ một tuần sau đó, tình
hình MN trở nên hỗn loạn. (Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét