Trần Đỗ Cẩm
MỞ ĐẦU
Vào đầu năm 1974, trong lúc tình hình chiến sự tại Việt Nam trở nên vô cùng sôi động với các trận đánh lớn diễn ra trên khắp bốn vùng chiến thuật thì ngoài khơi Biển Ðông đã xảy ra một Trận Hải Chiến có tầm vóc lịch sử giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa và hải quân Trung Cộng. Ðây là lần đầu tiên kể từ khi Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn dưới thời Nhà Trần đánh thắng quân Mông Cổ, Nam quân lại đụng độ với Bắc quân trên mặt biển. Và cũng như những lần trước, tuy lực lượng của kẻ thù phương Bắc mạnh hơn gấp nhiều lần, các Chiến Sĩ Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa noi gương Thánh Tổ đã anh dũng chiến đấu, gây cho địch những tổn thất nặng nề.
Vào thời điểm đó, Tổng Thống Nixon trước đây đã dùng chính sách ‘’ngoại giao bóng bàn’’ ve vãn được Trung Cộng nên nhiều dư luận cho rằng Hoa Kỳ đã gián tiếp bàn giao Quần Ðảo Hoàng Sa cho Trung Cộng cũng như bán đứng miền Nam Việt Nam chỉ một năm sau đó.
Nghi vấn này sẽ được bàn tới ở phần sau. Ðiều quan trọng cần nói ở đây là ngay trong thời gian Trận Hải Chiến xảy ra cách đây gần một phần tư thế kỷ, chính các Sĩ Quan Hải Quân Hoa Kỳ cũng không dám nghĩ rằng Hải Quân Việt Nam sẽ tham chiến vì lực lượng đôi bên quá chênh lệch. Những ‘’cố vấn’’ kiêm chuyên gia về Hải Quân này dự trù rằng các chiến hạm Việt Nam sẽ lặng lẽ rút lui bỏ mặc Quần Ðảo Hoàng Sa thân yêu rơi vào tay giặc.
Những ước đoán trên được căn cứ vào thái độ của Hải Quân Hoa Kỳ lúc đó đang làm bá chủ Biển Ðông nhưng cho biết họ đứng ngoài vòng tranh chấp. Ngoài ra, họ cũng không đồng ý việc sử dụng các khinh tốc đỉnh (PT boat) tại Ðà Nẵng, tuy với Thủy Thủ Ðoàn Việt Nam điều khiển nhưng lại do Hoa Kỳ kiểm soát. Ngay tới khi Trận Hải Chiến đã kết thúc, Lực Lượng Hải Quân Hoa Kỳ vẫn còn từ chối tiếp cứu những Thủy Thủ Việt Nam lâm nạn, một điều trái ngược với qui luật của người đi biển. Cho tới nay, chúng tôi đã nhiều lần viết thư yêu cầu Phòng Quân Sự của Hải Quân Hoa Kỳ cung cấp những dữ kiện đã được giải mật về Trận Hải Chiến Hoàng Sa, nhưng lúc nào họ cũng trả lời ‘’không có bất cứ một tài liệu nào liên quan trong hồ sơ lưu trữ’’. Ðây là một điều rất khó tin vì lúc đó, Hải Ðoàn 77 (Task Force 77) của Hải Quân Hoa Kỳ gồm nhiều mẫu hạm và các chiến hạm yểm trợ tổng cộng gần 20 tàu chiến đang hoạt động tại vị trí ‘’Yankee’’ (Yankee Station) cách Hoàng Sa về phía Ðông Bắc không xa. Thật sự Hoa Kỳ có hoàn toàn ‘’không biết’’ hay đứng ngoài vụ tranh chấp hay không? Vì lý do gì? Mời Độc Giả tuần tự theo dõi các diễn biễn của Trận Hải Chiến tại Hoàng Sa để tìm câu trả lời.
Nhưng ngoài sự dự đoán của Hoa Kỳ cũng như của Trung Cộng, Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa dù đơn độc và cô thế cũng đã dùng hết sức tham chiến. Các Chiến Sĩ Áo Trắng đã can đảm nổ súng vào quân xâm lăng và chiến đấu đến tận cùng khả năng của mình. Sau Trận Hải Chiến, dư luận báo chí quốc tế đã bày tỏ nhiều thiện cảm qua những bài bình luận rất thuận lợi cho Việt Nam trong khi lên án bọn xâm lược Trung Cộng.
Trước hết, tưởng cũng cần nêu lên một vài điểm liên quan đến việc sưu tầm tài liệu để viết bài này. Nói chung, đây là việc rất khó khăn vì đa số đã bị thất lạc hoặc vùi chôn trong quá khứ.
Thứ nhất, Trận Hải Chiến xảy ra cách đây đã lâu nên những chi tiết ngay cả đối với những người đã trực tiếp tham dự không ít thì nhiều cũng bị mai một với thời gian. Vả lại, mỗi nhân chứng tùy theo vị trí và hoàn cảnh sẽ có tầm nhìn và nhận xét khác nhau, do đó việc tường thuật trung thực như một máy quay phim thiết tưởng không thể nào thực hiện được.
Thứ hai, tuy đã có một số bài viết về Hoàng Sa nhưng những tài liệu này phần lớn dựa vào ký ức nên kém chính xác và chưa đủ để nói lên tầm vóc quan trọng của biến cố lịch sử này.
Thứ ba, vì miền Nam đã bị cộng sản xâm chiến nên những tài liệu chính thức như các phúc trình hậu hành quân của các Chiến Hạm tham chiến cũng như của Bộ Tư Lệnh Hải Quân rất khó sao lục lại. Theo Hải Quân Trung Tá Vũ Hữu San, báo Le Courier du Vietnam cho biết ngày nay còn có một Bản Tổng Kết Hải Chiến Hoàng Sa của Bộ Tư Lệnh Hải Quân trình Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lưu giữ tại Hà Nội. Chúng tôi nghe nói Hải Quân Ðại Tá Hà Văn Ngạc đang sửa soạn viết về Trận Hải Chiến tại Hoàng Sa, dự trù hoàn tất vào năm 1999 là ngày kỷ niệm 25 năm trận đánh. Ðây là một nguồn tin rất đáng khích lệ, vì chắc chắn Ðại Tá là người biết nhiều nhất và đủ thẩm quyền nhất để tường thuật về trận đánh do chính ông chỉ huy.
Vì những lý do trên, tuy khả năng và hoàn cảnh hỗn hợp, chúng tôi cũng cố gắng viết lại Trận Hải Chiến tại Hoàng Sa, càng gần với sự thật càng tốt, căn cứ vào những tài liệu thâu thập được cũng như những lời kể lại của các nhân chứng. Tác Giả may mắn và hãnh diện được là bạn cùng Khóa 11 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang với hai trong số bốn Vị Hạm Trưởng tham chiến, đó là Hải Quân Trung Tá Vũ Hữu San, Hạm Trưởng Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4 và Hải Quân Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh, Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ-5. Hai Hạm Trưởng còn lại là Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thự (Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ-16) thuộc Khóa 10 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang và Cố Hải Quân Trung Tá Ngụy Văn Thà thuộc Khoá 12 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang là các Khóa sát trên và dưới trong lúc cùng học tại Nha Trang nên cũng có dịp quen biết ít nhiều. Ngoài ra, chúng tôi cũng có dịp tiếp chuyện nhiều lần với Hải Quân Ðại Tá Hà Văn Ngạc là Sĩ Quan Chỉ Huy Chiến Thuật trong Trận Hải Chiến tại Hoàng Sa. Chúng tôi cũng cám ơn anh bạn trẻ Trương Văn Quang hiện cư ngụ tại Úc Châu đã trợ giúp sưu tầm nhiều hình ảnh và chi tiết hiếm có. Nhưng dù sao, bài viết này chắc chắn sẽ còn rất nhiều thiếu sót và kém chính xác, Tác Giả mong mỏi sẽ được những người biết chuyện thẳng thắn phê bình xây và bổ túc để phần tài liệu về Trận Hải Chiến Hoàng Sa được thêm đầy đủ.
Ðể dễ dàng theo Trận Hải Chiến lịch sử tại Hoàng Sa, trước khi tường thuật chi tiết về trận chiến, chúng tôi sẽ nói qua về Quần Ðảo này và sau cùng sẽ nêu lên vài nhận xét và bình luận.
1. Biển Đông: Xác định một danh từ
Trên các bản đồ cũng như hải đồ quốc tế, vùng biển cực Tây của Thái Bình Dương nằm về phía Nam lục địa Trung Hoa thường được gọi là South China Sea. Theo thông lệ, các Nhà Hàng Hải thời xưa thường lấy tên khu vực đất liền lân cận để đặt tên vùng biển tiếp giáp. Vì vậy, trên bản đồ, chúng ta thấy những tên biển quen thuộc như: Biển Ấn Ðộ hay Ấn Ðộ Dương (Indian Ocean), Biển Nhật Bản (Sea of Japan), Vịnh Bắc Việt (Gulf of Tonkin), Vịnh Thái Lan (Gulf of Thailand) hay Vịnh Mễ Tây Cơ (Gulf of Mexico) v.v...
Do đó, South China Sea chỉ đơn thuần được dùng để chỉ vùng biển nằm về phía Nam lục địa Trung Hoa. Tuy có chữ ‘’China’’ trong đó những danh từ này không bao hàm ý nghĩa ‘’của’’ hay ‘’thuộc về’’ Trung Hoa, cũng như Vịnh Mễ Tây Cơ không phải là tài sản riêng của Mexico. Sở dĩ cần xác định như trên để tránh những hiểu lầm, vì rất có thể khi thấy chữ ‘’China’’, một số người có thể ngộ nhận là ‘’của Trung Hoa’’. Riêng đối với người Việt Nam, tuy South China Sea ở phía Nam Trung Hoa, nhưng lại nằm về phía Ðông của Việt Nam, nên thiết tưởng ‘’Biển Ðông’’ là tên chính xác để mệnh danh vùng biển thân yêu này. Từ ngàn xưa, Tổ Tiên ta đã có danh từ Biển Ðông. Bằng chứng là những câu ca dao quen thuộc như:
Dã tràng xe xát Biển Ðông, Nhọc mình mà chũng nên công cán gì
Hoặc
Thuận vợ thuận chồng, tát Biển Ðông cũng cạn.
Trong bài ‘’Văn Tế Cá Sâu’’ bằng tiếng Nôm của Ðại Học Sĩ Nguyễn Thuyên cũng có câu như sau:
Ngạc ngư kia hỏi mày có hay,
Biển Ðông rộng rãi là nơi mày,
Phú Lương đây thuộc nơi Thánh vực,
Lạc lối đâu mà lại tới đây?
Nhận xét như trên,chúng tôi mạnh dạn đề nghị các sách báo của người Việt nên dùng danh xưng Biển Ðông để thay thế cho từ ngữ Nam Hải hay South China Sea. Ðây không những là một việc làm ‘’danh chính ngôn thuận’’, mà còn nhắc nhở chúng ta luôn luôn nhớ đến vùng biển thân thiết đã gắn liền với vận mạng Dân Tộc qua những thăng trầm của lịch sử.
2. Vị Trí
Trên bản đồ hàng hải, Quần Ðảo Hoàng Sa là một chuỗi gồm trên 100 Ðảo nhỏ nằm ngoài khơi Việt Nam, giữa kinh tuyến 111 độ-113 độ Ðông và vĩ tuyến 15 độ 45 -17 độ 05 Bắc. Nói khác đi, Quần Ðảo này cách bờ biển Ðà Nẵng chừng 170 hải lý (khoảng 300 cây số) về hướng Ðông và có khoảng cách từ 400 hải lý đến 500 hải lý (720 cây số đến 900 cây số) đối với các Hải Cảng Sài Gòn, Hải Phòng, Hương Cảng và Manila. Theo tục truyền, Toán thám sát dưới Triều Vua Gia Long báo cáo Quần Ðảo này có nhiều bãi cát vàng, vì vậy nên được đặt tên là Hoàng Sa.
3. Địa Thế
Trên các hải đồ quốc tế, Quần Ðảo Hoàng Sa được gọi là Paracel Islands hay Paracels. Có người cho rằng tên Paracel bắt nguồn từ chữ Bồ Ðào Nha ‘’Paracel’’ có nghĩa là ‘’đá ngầm’’. Giả thuyết này nghe cũng khá hợp lý vì mấy thế kỷ trước đây, dân Bồ Ðào Nha (Portugal) và Tây Ban Nha (Spain) có rất nhiều đi hải thuyền nổi tiếng chu du thám hiểm vòng quanh thế giới. Ði tới đâu, họ dùng tên của nước mình để đặt cho những vùng biển hay đất lạ chưa được ghi chép trên bản đồ. Hơn nữa, các Ðảo trong vùng Hoàng Sa thường rất thấp, chỗ cao chừng vài ba thước trên mặt biển nên trông như những bãi đá ngầm khi thủy triều lên. Giả thuyết thứ hai cho rằng ‘’Paracel’’ là tên một thương thuyền thuộc Công Ty Ðông Ấn của người Anh bị mắc cạn và chìm tại vùng Hoàng Sa vào khoảng Thế Kỷ thứ 16. Chúng tôi thiết nghĩ giả thuyết thứ hai này có vẻ hữu lý hơn, vì trong Quần Ðảo Hoàng Sa có nhóm Ðảo Amphitrite là tên của một tàu Pháp gặp nạn tại Hoàng Sa khi vượt biển buôn bán với Trung Hoa vào Thế Kỷ thứ 17.
Theo các bản đồ cổ của Việt Nam, Quần Ðảo Hoàng Sa mang tên bãi Cát Vàng hay Cồn Vàng vì cát tại đây thường có màu vàng, nhất là tại Ðảo Quang Hòa. Người Trung Hoa gọi vùng này là Hsisha hay Xisha Quandao tức là Tây Sa Quần Ðảo. Quần Ðảo Hoàng Sa gồm có rất nhiều Ðảo lớn, Ðảo nhỏ, cồn cát, bãi cát, đá ngầm v.v... nên rất khó xác định có tổng cộng bao nhiêu ‘’đơn vị’’. Ðảo cao nhất là Rocky Island nhô cao khỏi mặt nước chừng 20 thước. Sách cổ Việt Nam cho biết có cả thảy chừng 130 Ðảo,Cồn v.v... Tuy nhiên, trên các hải đồ quốc tế chúng ta thấy chỗ ghi nhận vài ba chục Ðảo lớn. Tưởng cũng cần nói thêm, ngoài các Ðảo, Cồn và đá nổi cao khỏi mặt nước, vùng Hoàng Sa còn có hai bãi ngầm (Bank hay Shoal) rất lớn luôn luôn chìm dưới mực nước biển, đó là Macclesfield và Scarborough Shoal nằm về hướng Ðông. Những bãi ngầm hay vùng nước cạn giữa biển này rất nguy hiểm cho các tàu bè qua lại vì khi thời tiết tốt, mặt biển trông rất phẳng lặng bình yên không có dấu hiệu đe dọa nào, chỉ khi trời nổi sóng gió mới thấy những lượng sóng bạc đầu trên các vùng bãi hay đá ngầm.
Nếu chỉ kể riêng những Ðảo (đá, đất, bãi cát, cồn...cao hơn mặt biển), Quần Ðảo Hoàng Sa được các Nhà Hàng Hải chia thành hai nhóm chính: Ðó là nhóm Trăng Khuyết và nhóm An Vĩnh.
a. Nhóm Trăng Khuyết (crescent group)
Những Ðảo thuộc nhóm này kết hợp lại thành một hình cánh cung hay lưới liềm nên được đặt tên là Trăng Khuyết hay Nguyệt Thiềm, tên quốc tế là Crescent hay Croissant. Ðây là Nhóm Ðảo quan trọng nhất nằm về phía Tây của Quần Ðảo Hoàng Sa, tức là gần với đất liền Việt Nam nhất. Nhóm này gồm 7 hòn Ðảo chính và một số bãi ngầm.
1. Ðảo Hoàng Sa (Pattle Island): Ðây là hòn Ðảo chính của Quần Ðảo, nhưng lại không phải là Ðảo lớn nhất. Ðảo này hình bầu dục, chiều dài khoảng 950 thước, chiều rộng khoảng 650 thước. Các Cơ Sở Quân Sự, Ðài Khí Tượng, Hải Ðăng, Cầu Tàu...đều đặt trên hòn Ðảo này. Những Cơ Sở này đa số được thiết lập từ thời Pháp thuộc, đều thuộc quyền sở hữu của Việt Nam Cộng Hòa. Ngoài ra còn có các kiến trúc khác như Miếu Bà, Nhà Thờ, Bia chủ quyền Việt Nam và đường xe gòng dẫn ra Cầu Tàu để chuyển vận phân bón. Vì là Ðảo chính có nhiều Cơ Sở Hành chánh nên thường dùng làm tên chung cho cả Quần Ðảo.
Ðảo Hoàng Sa đủ lớn để thiết lập một phi đạo ngắn tầm. Vào đầu năm 1974, Việt Nam Cộng Hòa dự trù xây cất một phi trường tại đây nhưng khi Toán Công Binh dò thám được tầu Hải Quân chở ra tới nơi thì Ðảo bị Trung Cộng cưỡng chiếm. Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, có một Trung Ðội Ðịa Phương Quân thuộc Chi Khu Hòa Vang thuộc Tiều Khu Quảng Nam đồn trú.
2. Ðảo Cam Tuyền (hay Hữu Nhật-Robert Island): Ðảo mang tên một Xuất Ðội dưới Triều Nhà Nguyễn tên thật là Nguyễn Hữu Nhật. Diện tích Ðảo này chừng 0.32 cây số vuông, nằm cách Ðảo Hoàng Sa chừng 3 hải lý về hướng Nam. Ðảo có một vòng san hô bao chung quanh, có chỗ ăn liền tới bờ Ðảo.
3. Ðảo Duy Mộng (Drummond Island): Hình bầu dục, cao chừng 4 thước trên mặt biển, diện tích chừng 0.41 cây số vuông. Nước tương đối sâu, tầu lớn có thể vào sát bờ chỉ cách vài ba trăm thước. Trong Trận Hải Chiến tại Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974, đa số các chiến hạm Trung Cộng tập trung quanh Ðảo này.
4. Ðảo Quang Ảnh (hay Vĩnh Lộc-Money Island): Quang Ảnh là tên một Vị Ðội Trưởng dưới Triều Nguyễn tên thật là Phạm Quang Ảnh. Vào thời Vua Gia Long, Vị Ðội Trưởng này thường đem hải thuyền ra Hoàng Sa để thu lượm hải vật. Ðảo cao chừng 6 thước, diện tích gần nửa cây số vuông. Chung quanh Ðảo có nhiều đá ngầm và san hô rất nguy hiểm cho tàu bè.
5. Ðảo Quang Hòa (Duncan Island): Là hòn Ðảo lớn nhất trong nhóm trăng khuyết với diện tích chừng nửa cây số vuông. Quanh Ðảo là bãi cát mầu vàng, có lẽ vì vậy mà cả Quần Ðảo mang tên Hoàng Sa, bãi Cát Vàng hay Cồn Vàng. Vì có nhiều Ðảo nhỏ nối liền với nhau bằng những giải cát nên có một số hải đồ chia Ðảo này thành hai Ðảo Quang Hòa Ðông và Quang Hòa Tây. Chung quanh Ðảo có vòng san hô bao bọc. Trong Trận Hải Chiến giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa và Trung Cộng, chiến hạm đôi bên đã đụng độ nhau tại mặt Tây, chỉ cách Ðảo mấy hải lý.
6. Ðảo Bạch Qủy (Passu Island): Ðảo cấu tạo bằng san hô, rất thấp, chỉ nhô lên khỏi mặt nước khi thủy triều xuống. Ðảo rất trơ trọi khiến người khó có thể sinh sống.
7. Ðảo Tri Tôn (Triton Island): Gần với đất liền Việt Nam nhất. Ðảo trơ trọi toàn đá và san hô chết.
8. Các Bãi Ngầm: Ngoài các Ðảo chính nêu trên trong vùng biển thuộc nhóm Trăng Khuyết còn có một số Bãi Ngầm đáng kể và rất nguy hiểm cho tàu bè qua lại sau đây:
* Bãi Antelope Reef: Gồm toàn san hô ngầm, nằm về phía Nam Ðảo Hữu Nhật và phía Ðông Ðảo Quang Ảnh.
BIỂN ÐÔNG NỔI SÓNG-HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HÒA 21
* Bãi Vuladdore: Nằm về hướng Ðông Nam của nhóm Trăng Khuyết, cách chừng 20 hải lý.
* Bãi Discovery Reef: Là bãi ngầm lớn nhất. Ðây là một vòng rộng toàn san hô, chiều dài chừng 15 hải lý và rộng chừng 5 hải lý.
b. Nhóm An Vĩnh (amphitrite group)
Nằm về hướng Ðông Bắc Quần Ðảo Hoàng Sa. An Vĩnh nguyên là tên của một Xã thuộc Tỉnh Quảng Ngãi thời trước. Sách Ðại Nam Thực Lục Tiên Biên chép về Xã này như sau: ‘’Ngoài biển Xã An Vĩnh, Huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi có hơn 100 cồn cát kéo dài tới không biết mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn Lý Hoàng Sa Châu...Hồi Quốc Sơ đầu Triều Nguyễn có đợt đi Hoàng Sa gồm 70 người lấy dân Xã An Vĩnh sung vào, hàng năm cứ đến tháng ba cưỡi thuyền ra Ðảo, ba đêm thì tới nơi...’’
Nhóm An Vĩnh còn có tên là Amphitrite hay Tuyên Ðức, gồm nhiều Ðảo tương đối lớn và cao. Sau đây là một số Ðảo chính: Ðảo Phú Lâm. Ðảo Cây, còn gọi là Ðảo Cù Mộc. Ðảo Lincoln. Ðảo Trung. Ðảo Bắc. Ðảo Nam. Ðảo Tây. Ðảo Hòn Ðá.
Hải Ðảo quan trọng nhất trong Nhóm An Vĩnh là Ðảo Phú Lâm, còn gọi là Woody Island nằn cạnh Ðảo Hòn Ðá nhưng diện tích lớn hơn nhiều. Trước Ðệ Nhị Thế Chiến, người Pháp tại Ðông Dương đã khai thác những Ðảo thuộc Nhóm An Vĩnh. Họ cũng thiết lập tại đây một Ðài Khí Tượng giống như trên Ðảo Hoàng Sa. Sau Thế Chiến Thứ Hai, Pháp phái Chiến Hạm Savorgnan de Brazza đến chiếm lại các Ðảo tại vùng Hoàng Sa từ tay người Nhật vào tháng 6 năm 1946. Nhưng sau đó vì chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, Pháp phải rút quân về đất liền. Lợi dụng cơ hội Hoàng Sa bị bỏ trống, Trung Hoa lấy cớ giải giới quân Nhật đã lén đổ quân lên Ðảo Phú Lâm rồi chiếm đóng luôn Ðảo này. Ngoài ra, họ cũng tiến xa hơn về phía Nam, chiếm luôn Ðảo Thái Bình (Itu Aba) thuộc Quần Ðảo Trường Sa của Việt Nam.
Vào ngày 13 tháng 1 năm 1947, người Pháp tại Ðông Dương chính thức phản kháng hành động chiếm đóng các Hải Ðảo bất hợp pháp của Trung Hoa và phái chiến hạm Le Tonkinois ra Hoàng Sa. Thấy Ðảo Phú Lâm đã bị chiếm đóng và phòng thủ kỹ lưỡng, chiến hạm này quay về Ðảo Hoàng Sa (Pattle Island) để đổ 10 quân nhân Pháp và 17 quân nhân Việt Nam lên chiếm đóng Ðảo này. Khi Trung Hoa Dân Quốc phải bỏ Hoa Lục chạy sang Ðài Loan, họ cũng rút quân ở Ðảo Phú Lâm và Thái Bình về. Mãi tới 7 năm sau khi làm chủ được lục địa, Trung Cộng mới cho quân chiếm đóng Ðảo Phú Lâm vào đêm 20 rạng ngày 21 tháng 2 năm 1956.
Trong Nhóm An Vĩnh, ngoài Phú Lâm còn có một Hòn Ðảo quan trọng khác, đó là Ðảo Lincoln, nằm về phía Ðông của Nhóm. Ðây là Ðảo lớn nhất trong Quần Ðảo Hoàng Sa với diện tích chừng 1.6 cây số vuông hay tương đương 400 acres, bề cao chừng 3-4 thước. Hiện nay, dự đoán có chừng 4.000 quân Trung Cộng trên các Ðảo tại vùng Hoàng Sa.
4. Chủ quyền Việt Nam tại Quần Đảo Hoàng Xa
Vào Thế Kỷ thứ 18, bộ sách ‘’Phủ Biên Tạp Lục’’ của ông Lê Quý Ðôn đã có nói tới Hoàng Sa và Trường Sa. Cuốn sách này cũng kể việc người Việt Nam đã khai thác hai Quần Ðảo này ngay từ thời Lê mạt. Các tài liệu khác nói về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa là bộ ‘’Hoàng Việt Ðịa Dư Chí’’ được ấn hành vào năm Minh Mạng Thứ 16 tức là năm 1834. Cuốn ‘’Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí’’ của Phan Huy Chú (1782-1840).
Hơn nữa, bộ ‘’Ðại Nam Nhất Thống Chí’’ trong cuốn nói về Tỉnh Quảng Ngãi có kể việc Chúa Nguyễn cho thành lập Ðội Hoàng Sa gồm 70 người cứ mỗi năm vào tháng 3 thì ra Ðảo thu lượm hải vật rồi trở về vào tháng 8. Vào năm Minh Mạng thứ 16, Nhà Vua cũng sai quan quân dùng thuyền chở gạch đá ra dựng một Ngôi Chùa và Bia chủ quyền tại Ðảo Hoàng Sa có khắc hàng chữ nôm ‘’Minh Mạng năm Thứ 16’’. Ngoài các Sử Gia bản xứ, một số các Tác Giả người Pháp cũng nói tới chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa. Vào năm 1836 Ðức Giám Mục Taberd đã viết trong cuốn sách ‘’Ðịa dư, lịch sử và mô tả mỗi dân tộc cùng với tôn giáo và phong tục của hội.’’ (Univer, histoire et description de tous les peuples, de leurs religion et coutumes) như sau:
‘’Tôi không kể dài dòng về những Ðảo thuộc Nam Kỳ, nhưng chỉ nhận xét rằng từ 34 năm nay, người Nam Kỳ đã chiếm cứ Nhóm Quần Ðảo Paracels mà người An Nam gọi là Cát Vàng hay Hoàng Sa, thực là những Hòn Ðảo nhỏ bí hiểm, gồm những mõm đá xen lẫn với các bãi cát mà những người đi biển đều kinh hãi. Tôi không rõ họ có thiết lập Cơ Sở gì ở đó không, nhưng chắc chắn rằng Hoàng Ðế Gia Long nhất định muốn mở rộng Lãnh Thổ của Hoàng Triều bằng cách chiếm Quần Ðảo này và vào năm 1816, Ngài đã long trọng trương lá cờ tại đây’’.
Trong tác phẩm ‘’Hồi Ký Về Ðông Dương’’, ông Jean Baptiste Chaigneau cũng ghi rằng Vua Gia Long đã chính thức thu nhận Quần Ðảo Hoàng Sa vào năm 1816. Khi người Pháp đặt nền bảo hộ trên toàn cõi Ðông Dương, họ cũng tiếp tục lãnh nhiệm vụ bảo vệ Hoàng Sa. Vào các năm 1895 và 1896, có hai chiếc thương thuyền tên Bellona và Iruezi Maru chở đồng cho người Anh bị đắm tại nhóm Ðảo Tuyên Ðức và bị người Trung Hoa đến đánh cướp. Ðại diện người Anh tại Bắc Kinh đòi Nhà Thanh phải bồi thường vì có một số đồng được đem về bán tại Ðảo Hải Nam. Nhưng chính quyền Nhà Thanh không chịu bồi thường, viện cớ Quần Ðảo Hoàng Sa không thuộc chủ quyền của Trung Hoa.
Các Quốc Gia trong vùng Ðông Nam Á cũng mặc nhiên công nhận chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa. Vào đếu Thế Kỷ 20, một Công Ty Nhật tên Motsli Bussan Kaisha đã đệ đơn xin chính quyền Pháp tại Ðông Dương cấp quyền đặc nhượng khai thác phosphate tại đây. Năm 1925, tàu Lanessan chở Phái Ðoàn Nghiên Cứu của Hải Học Viện Nha Trang ra thám sát Quần Ðảo Hoàng Sa. Phái Ðoàn này xác nhận Hoàng Sa là một phần của Lãnh Thổ Việt Nam vì dính liền với thềm lục địa Việt Nam.
Tại Hội Nghị San Francisco vào ngày 7 tháng 9 năm 1951, Thủ Tướng Trần Văn Hữu, Trưởng Phái Ðoàn Việt Nam cũng đã lên tiếng xác nhận chủ quyền Việt Nam tại Hải Ðảo thuộc Biển Ðông. Ông tuyên bố trước Hội Nghị: ‘’Chúng ta cần phải lợi dụng mọi cơ hội để dập tắt mầm mống chiến tranh, vì vậy chúng tôi xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên các Quần Ðảo Hoàng Sa và Trường Sa từ trước đến nay vẫn luôn luôn là những thành phần của Lãnh Thổ Việt Nam’’. Trong tổng số 51 Quốc Gia tham dự, không một Quốc Gia nào (kể cả Trung Hoa) lên tiếng phản đối nên lời tuyên bố này đã được ghi vào biên bản của Hội Nghị.
Dưới thời Pháp thuộc, Việt Nam đã thiết lập những Cơ Sở Hành Chánh tại Hoàng Sa qua Nghị Ðịnh số 156-SC ngày 15.6.1932 của Toàn Quyền Ðông Dương. Trong Ðạo Dụ số 10 ký ngày 30.3.1938, Hoàng Ðế Bảo Ðại sát nhập Quần Ðảo Hoàng Sa vào Tỉnh Thừa Thiên. Ngày 5.5.1938, Toàn Quyền Ðông Dương thiết lập hai Ðơn Vị Hành Chánh tại Quần Ðảo Hoàng Sa. Ðó là Ðơn Vị Trăng Khuyết và phụ cận (délégation du Croissant et dépendences) và Ðơn Vị Tuyên Ðức và phụ cận (délégation de l'Amphitrite et dépendences). Ngày 13.7.1961 dưới thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, Tổng Thống Ngô Ðình Diệm ban hành Sắc Lệnh số 175-NV đặt Quần Ðảo Hoàng Sa thuộc Tỉnh Quảng Nam thay vì Tỉnh Thừa Thiên và đặt tên là Xã Ðịnh Hải thuộc Quận Hòa Vang. Dưới thời Ðệ Nhị Cộng Hòa, Nghị Ðịnh số 709-BNV-HC ngày 21.10.1969 của Thủ Tướng Chính Phủ đã sát nhập Xã Ðịnh Hải vào Xã Hòa Long cũng thuộc Quận Hòa Vang, Tỉnh Quảng Nam.
5. Bằng cớ bán nước của việt cộng
Trong lúc miền Nam Việt Nam ra sức bảo vệ các Quần Ðảo tại Biển Ðông chống lại các hành động xâm lăng của ngoại quốc thì việt cộng tại miền Bắc lại nịnh bợ, thản nhiên công nhận chủ quyền của Trung Cộng tại các Quần Ðảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau đây là các bằng cớ:
- Vào năm 1956, Ngoại trưởng việt cộng là Ung văn Khiêm tuyên bố: ‘’Hà Nội nhìn chủ quyền của Trung Cộng đối với Quần Ðảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Cộng gọi là Tây Sa và Nam Sa’’.
- Trong số báo phát hành ngày 22.9.1958, tờ nhân dân, cơ quan ngôn luận chính thức của việt cộng đã đăng một bản tin với tựa đề ‘’Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa công nhận quyết định về hải phận của Trung Quốc’’. Nguyên văn bản tin này như sau:
Sáng ngày 21.9.1958, đồng chí Nguyễn Khang, Ðại Sứ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Trung Quốc, đã gặp đồng chí Cơ Bằng Phi, Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và đã chuyển bức công hàm sau đây của chính phủ ta:
Thưa đồng chí Tổng Lý,
Tổng Lý Quốc Vụ Viện nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, chúng tôi trân trọng báo tin để đồng chí Tổng Lý rõ:
Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958, của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mối quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa trên mặt biển.
Chúng tôi xin kính gởi đồng chí Tổng Lý lời chào rất trân trọng.
Hà Nội ngày 14 tháng 9 năm 1958
Phạm Văn Ðồng
Thủ Tướng chính phủ
Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
- Sau khi chiếm được miền Nam Việt Nam, tờ báo sài gòn giải phóng vào tháng 5 năm 1976 đã đăng một bài xã luận liên quan tới Quần Ðảo Hoàng Sa, trong đó có những câu nịnh bợ Trung Cộng rất ngớ ngẩn như sau:
‘’Trung Quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí mà còn là người thầy tin cẩn, đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có được ngày hôm nay, thì chủ quyền Hoàng Sa thuộc Trung Quốc hay thuộc ta cũng vậy thôi (Việt Nam, Trung Quốc, sông liền sông, núi liền núi). Khi nào chúng ta muốn nhận lại Quần Ðảo này, Trung Quốc sẽ sẵn sàng giao lại’’.
Về sau, vào năm 1979, hai đồng chí thầy trò ‘’sông liền sông, núi liền núi’’ này đã dạy nhau một bài học đẫm máu tại vùng biên giới Hoa-Việt. Tới năm 1988, người thầy tín cẩn Trung Cộng đã chẳng những không giao lại Quần Ðảo Hoàng Sa cho tên đày tớ việt cộng mà còn xua quân chiếm luôn Quần Ðảo Trường Sa. Ngày 14.3.1988, tàu chiến Trung Cộng bắn chìm 3 chiến hạm của Hải quân việt cộng (một chiếc thuộc loại Shangai do Trung Cộng viện trợ trước đây, một Tuần duyên hạm PGM cũ của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, một Hải vận hạm do Nga Sô viện trợ) khiến trên 100 lính việt cộng thương vong. Trung Cộng đã dùng những bức công hàm của việt cộng công nhận chủ quyền của Trung Cộng tại Biển Ðông để làm bằng cớ. Bị bí lối, việt cộng trâng tráo giải thích trên tờ báo nhân dân số ra ngày 26.4. 1988:
‘’Ðúng là có những lời tuyên bố đó. Cần phải đặt những lời tuyên bố này đúng trong bối cảnh lịch sử của nó...Trong cuộc chiến đấu một mất một còn, chống một kẻ thù xâm lược có sức mạnh quân sự lớn hơn mình rất nhiều, Việt Nam tranh thủ được Trung Quốc gắn chặt với cuộc chiến đấu của Việt Nam càng nhiều bao nhiêu và ngăn chặn Mỹ sử dụng hai Quần Ðảo cũng như Vùng Biển Ðông chống lại Việt Nam, thì càng tốt bấy nhiêu. Phải đúng trên tinh thần đó và trong bối cảnh đó để hiểu các tuyên bố nói trên’’.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét