Chỉ tin vào “bia chữ” lưu truyền
Còn những lời bia miệng hão huyền
Sao chính xác bằng những gì sử chép ?
Còn chuyện: “Một Rồng một Tiên, một đào một kép
Của danh nhân nào đó chép thành tuồng
Ý nghĩa gì, sao anh lại nhắc luôn ?
Chỗ quen biết tôi muốn nghe lời thực” ?!”
- Thật khó nói, nhưng thôi xin gắng sức:
(Lời không lời (1), đâu dễ dẫn bằng lời ?!)
Tôi có điều muốn thử hỏi anh chơi
Nếu không đúng xin mong anh tha thứ:
(Lời không lời (1), đâu dễ dẫn bằng lời ?!)
Tôi có điều muốn thử hỏi anh chơi
Nếu không đúng xin mong anh tha thứ:
Rằng: Nhân loại, xa xưa trong qúa khứ
Chưa phát minh ra chữ để mà xài
Thì lấy gì chép sử để hậu lai,
Chưa có chữ thì lấy gì có sử ?
Và rằng: lời chỉ nói về những sự,
Lời nói về với cái đó, khác xa nhau
Khi chép ra mang thiên kiến trong đầu
Có thiên kiến thì còn đâu chính sự…
Và rằng, còn thưa, khi chép sử
Ngoài tính mơ hồ của chữ, của lời
Ngoài tính vô minh, thiên kiến, di dời…
Kẻ thắng chép hẳn nghiên về kẻ thắng
Và rằng sử, anh làm sao quên đặng
Chuyện vua Tần “đốt sách giết học trò”
Mã viện qua mình, miếng giấy cũng chẳng cho
Và bia mộ, một mảnh không được để ?
Chuyện thế nầy, rất nhiều, nhiều vô kể
Trong chính sử khắp nơi, kẻ thắng ép người thua
Họ viết sử ra là tự vẽ để đeo bùa:
Tôi muốn nói: phải đắn đo khi đọc sử…
Lại nói về ngôn ngữ
(Nói thêm về những chữ, những lời)
Chỉ tạm dùng chỉ sự vật tạm thời
Tồn tại tạm ở một nơi, một lúc
Sự vật biến thiên hoài, liên tục
Thế nên chi đâu có được “Thường danh” (2)
Có nghĩa là chuyện chẳng đặng phải đành
Nên dùng chữ, phải hiểu là “tạm dụng”
Thế nên dùng: “Lời không lời” là đúng
Nhất là khi để nói chuyện “trên trời” (3)
Còn chuyện Rồng Tiên đâu phải chuyện kể chơi
“Của ai đó ngẫu hứng rồi sáng tác”
Đây là chuyện của Việt Tiên nhân Đạo đạt
Dùng Rồng Tiên như huyền tự nói về
Cái thuở ban sơ khi vật chất chưa hề
Mang lấy tính, lấy hình, lấy trạng (4)…
Rồng (Trời, Càn) cùng Tiên (Đất, Khôn) kết bạn (5)
Rồi Dịch phân (6) để sanh nở triền miên
Lời “vô ngôn” mang ý nghĩa của “huyền”
Huyền vốn nghĩa chứa bến trong sau chữ
Dùng huyền tự để dẫn vào huyền sử (7)
Đó là lời sau chữ cưỡng gọi tên
Để hiểu ý người xưa, điều ấy nhớ đừng quên
Phần huyền sử chỉ ra phần tiền sử…
Chưa phát minh ra chữ để mà xài
Thì lấy gì chép sử để hậu lai,
Chưa có chữ thì lấy gì có sử ?
Và rằng: lời chỉ nói về những sự,
Lời nói về với cái đó, khác xa nhau
Khi chép ra mang thiên kiến trong đầu
Có thiên kiến thì còn đâu chính sự…
Và rằng, còn thưa, khi chép sử
Ngoài tính mơ hồ của chữ, của lời
Ngoài tính vô minh, thiên kiến, di dời…
Kẻ thắng chép hẳn nghiên về kẻ thắng
Và rằng sử, anh làm sao quên đặng
Chuyện vua Tần “đốt sách giết học trò”
Mã viện qua mình, miếng giấy cũng chẳng cho
Và bia mộ, một mảnh không được để ?
Chuyện thế nầy, rất nhiều, nhiều vô kể
Trong chính sử khắp nơi, kẻ thắng ép người thua
Họ viết sử ra là tự vẽ để đeo bùa:
Tôi muốn nói: phải đắn đo khi đọc sử…
Lại nói về ngôn ngữ
(Nói thêm về những chữ, những lời)
Chỉ tạm dùng chỉ sự vật tạm thời
Tồn tại tạm ở một nơi, một lúc
Sự vật biến thiên hoài, liên tục
Thế nên chi đâu có được “Thường danh” (2)
Có nghĩa là chuyện chẳng đặng phải đành
Nên dùng chữ, phải hiểu là “tạm dụng”
Thế nên dùng: “Lời không lời” là đúng
Nhất là khi để nói chuyện “trên trời” (3)
Còn chuyện Rồng Tiên đâu phải chuyện kể chơi
“Của ai đó ngẫu hứng rồi sáng tác”
Đây là chuyện của Việt Tiên nhân Đạo đạt
Dùng Rồng Tiên như huyền tự nói về
Cái thuở ban sơ khi vật chất chưa hề
Mang lấy tính, lấy hình, lấy trạng (4)…
Rồng (Trời, Càn) cùng Tiên (Đất, Khôn) kết bạn (5)
Rồi Dịch phân (6) để sanh nở triền miên
Lời “vô ngôn” mang ý nghĩa của “huyền”
Huyền vốn nghĩa chứa bến trong sau chữ
Dùng huyền tự để dẫn vào huyền sử (7)
Đó là lời sau chữ cưỡng gọi tên
Để hiểu ý người xưa, điều ấy nhớ đừng quên
Phần huyền sử chỉ ra phần tiền sử…
Lời không lời mấy vần thơ vô tự
Kẻ vụng nầy dùng chữ chẳng ra lời
Xin mời anh, mời chị ở mọi nơi
Xin về với Văn Hóa Vô Ngôn Dòng Việt
Kính cẩn, nơi đây, có lời xin tạm biệt.
Nguyễn Việt Nho
Kẻ vụng nầy dùng chữ chẳng ra lời
Xin mời anh, mời chị ở mọi nơi
Xin về với Văn Hóa Vô Ngôn Dòng Việt
Kính cẩn, nơi đây, có lời xin tạm biệt.
Nguyễn Việt Nho
_____________
(1): Lời không lời: “ngôn bất ngôn” (Lão Tử)
(2): Thường danh: “Danh khả danh phi thường danh” (Danh mà nói là danh thì không phải là danh thường hằng. Lão Tử)
(3): Chuyện trên trời: chuyện siêu hình, không thể dung ngôn từ để diễn đạt. Chúa Jesus truyền đạt những chuyện nầy phải dùng mạc khải, như ý trong câu: “Ta nói nước thiên đàng cho các tông đồ bằng mạc khải và người ngoại đạo bằng dụ ngôn”
(4): Hình vô hình, trạng vô trạng (Lão Tử)
(5): Từ Càn (___) Khôn (_ _) từ trong Dịch học tựa như hạt căn bản của vật chất trong đó có chứa hai phần tố vật chất (matter) và phản vật (anti-matter) trong một.
(6) Dịch phân: Phân hóa theo tiến trình Dịch Lý: “Thái cực sanh dưỡng nghi, lưỡng nghị sanh tứ tượng, tứ tượng sanh bát quái”… Đó là sư trực phân kiểu như trong toán học là lũy thừa con 2 (là hai phần tố âm dương trong Thái cực): 2 lũy thừa 1 là 2 (Thái cực); 2 lũy thừa 2 là 4 (Tứ tượng), 2 lũy thừa 3 là 8 (Bát Quái)… 2 lũy thừa 6 là 64 ( 64 qủe Dịch)
(7): Huyền sử: Dòng sử chỉ ra tiến trình biến hóa của vật chất và muôn loài, cấu tạo huyền sử không sử dụng ngôn từ của “thế gian pháp” (dùng ngôn từ là chuyện chẳng đặng đừng phải dùng, nên xem nó như là “ngôn bất ngôn”). Huyền sử được truyền đạt thông qua huyền thoại (xin đừng nhầm với huyễn thoại), huyền đồ, huyền số, tín ngưỡng truyền dòng và một số phong tục tập quán cùng niềm tin truyền tộc…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét