1)
Thiếu tá Thiên Nga Nguyễn Thanh Thủy Trước 30.4.1975 và sau 13 năm tù. (Hình Văn Khố: Olivier Glassey Trầnguyen) |
Những
ngày sau 30 tháng Tư, 1975 chắc chắn là những ngày kinh hoàng nhất cho
rất nhiều gia đình tại miền Nam Việt Nam. Nhưng đối với một số người,
những ngày ấy kéo dài tưởng như vô tận, đến mười mấy năm, mà mỗi ngày là
một thế kỷ của nhọc nhằn và mỗi đêm là một trường canh của kinh sợ.
Cái giai đoạn lịch sử ấy – tuy man rợ và đầy tang thương – nhưng vẫn là một di sản được những người trong cuộc ôm ấp và gìn giữ.
Bởi
vì, cái lịch sử ấy chính là một dấu chứng cho niềm tin vào điều thiện
và sự vượt qua của những ai còn sống sót sau kinh nghiệm hỏa lò. Đó có
lẽ là lý do mà khi đến Mỹ, Cựu thiếu tá Thiên Nga Nguyễn Thanh Thủy đã
mang theo 3 vật rất quan trọng đối với mình. Một đôi găng tay may từ vải
vụn, bà đã dùng trong thời gian 13 năm tù cải tạo. Hai chiếc áo tù –
một bằng vải thô, và một bằng len, do chính bà đan lại từ hai chiếc áo
lạnh cũ đã chật của hai con gái, do mẹ bà gửi vào. Và một cơ thể đã bị
phá hủy, thương tật.
Nhưng
bà cũng mang theo một gia tài quan trọng hơn cả những vật chứng này –
một gia tài không ai có thể tịch thu, đấu tố, hay phá hủy: một ý chí để
sống, một nghị lực phục vụ gia đình và xã hội, và một niềm tin mãnh liệt
vào Chúa. Chính gia tài này đã là cứu cánh cho bà trong suốt 13 năm tù,
và quãng đời sau đó.
Trên
hai chiếc áo tù đó, số tù – cũng là 'nhân diện' của bà trong mười ba
năm khổ sai – đã bắt đầu phai nhạt theo năm tháng. Nhưng những đau đớn
về tinh thần lẫn thể xác vẫn còn hằn sâu. Có lẽ những thế hệ một và một
rưỡi còn nhớ và biết cái bi kịch hỏa lò tại Việt Nam, nhưng thế giới và
những thế hệ Việt ngoại biên vẫn cần một văn khố chính thức về bi kịch
này.
Điều
quan trọng là chúng ta không để cho những sự thật về bi kịch này phai
nhạt – như những số tù trên áo những người tù khổ sai năm nào. Chúng ta
cần ghi lại những đau thương – không vì hận thù – nhưng vì để đấu tranh
cho Công lý, Hòa bình, Tự do, Bác ái. Đến bao giờ, người Việt hải ngoại
mới có một tác phẩm như Quần Đảo Ngục Tù của Aleksandr Solzhenitsyn,
người đoạt giải Nobel Văn Chương 1970 với những tác phẩm vạch trần cái
hỏa lò của Cộng Sản Xô Viết? Những quần đảo ngục tù vẫn còn hoành hành
trên cơ thể của nhiều con dân Việt và ngay trên đất Việt qua những hậu
quả khốc liệt của nó. Đến bao giờ chúng ta mới có một Solzhenitzyn của
Việt
Nam?
Vì nếu những đau thương này đã đến từ bất công, thì chúng cũng là một
mối đe dọa cho con người ở tất cả mọi nơi – như nhà tranh đấu dân quyền
Martin Luther King đã nói, "Bất công ở bất cứ nơi nào là bất công ở khắp
mọi nơi." Xã hội con người không tách rời nhau bởi biên giới hay ngôn
ngữ, mà cộng thông trong lý tưởng công bằng, bác ái, và dân chủ.
Chiếc
áo tù ngày nào, tuy nay không còn ấm lạnh trên người Nguyễn Thanh Thủy
nữa, nhưng kinh nghiệm mười ba năm tù khổ sai là một chiếc áo đầy gai,
vẫn châm chích và làm đau đớn tâm hồn và thể xác bà. Hai mươi bốn năm
sau khi ra khỏi trại tù, bà vẫn còn oằn oại trong những bệnh tật do giai
đoạn oan nghiệt này tạo ra, và những kinh hoàng của bốn tháng biệt giam
vẫn bám riết tâm trí bà. Chúng ta thử cùng bà ngồi trước màn ảnh của
quá khứ, chứng kiến lại những điều mà trước nay bà chưa nói được với ai,
vì nó quá kinh hoàng và khó khăn để thuật lại.
Nguyễn
Thanh Thủy nhớ lại, “Vài hôm sau ngày 30 tháng Tư, 1975, tôi bị gọi đến
nơi làm việc của Ủy Ban Quân Quản của chế độ Cách Mạng (tức Văn Phòng
Khối Đặc Biệt, đường Cộng Hòa cũ) để hỏi cung từ 8 giờ sáng đến 4 giờ
chiều. Cán Bộ Cộng Sản cho biết, lẽ ra giam cầm tôi luôn, nhưng vì các
con tôi còn quá nhỏ, nên mỗi ngày tôi đến đây làm việc rồi về. Họ cho
tôi xấp giấy, cây viết, và muốn tôi viết lại quá trình hoạt động. Mỗi
ngày tôi chỉ viết lý lịch của mình, rồi tôi nộp, nhưng họ không bằng
lòng. Tôi có cho họ biết là tôi không nhớ gì cả, và yêu cầu họ cho tôi
thời gian để tập trung trí nhớ. Sau đó, họ giúp tôi bằng cách dẫn tôi đi
vòng quanh khối
Đặc
Biệt, vào những phòng làm việc của Khối để nhìn từng nơi xem thấy cái
gì còn, cái gì mất. Tôi chú ý đến Văn phòng của Trưởng Cơ Quan E4, nơi
còn những bản sơ đồ vẽ hệ thống hoạt động, những bản thuyết trình có ám
danh công tác, bí số nhân viên, nhưng không có tên tuổi thật. Tôi nghĩ
trong đầu một kế hoạch để đối phó với Cộng Sản khi bị hỏi cung.”
Cô dâu Nguyễn Thanh Thủy và chú rể Lê Thành Long
|
Nguyễn
Thanh Thủy không chỉ là một người tù cải tạo. Bà còn là vợ một người tù
cải tạo. Chồng bà, Cựu Đại Tá Võ Bị Lê Thành Long, cũng vào tù sau ngày
30 tháng Tư 1975. Ba người con nhỏ của ông bà được gửi gắm lại cho ông
bà Ngoại tại Mỹ Tho. Tuy nhiên, những cố gắng để kéo dài thời gian hỏi
cung của bà cũng không giúp bà được ở gần gia đình mãi. Đến 15 tháng
Sáu, 1975 thì bà bị tập trung vào tù cải tạo. Theo lời bà, thì “Tôi ở
chung trại với tù cải tạo nam, học tập chính trị ở hội trường, học quốc
ca của Cộng Sản và những bài hát đấu tranh chống Mỹ Ngụy, làm những bài
thu hoạch, phê và tự phê, kiểm điểm, nộp
cho
họ. Tất cả mọi người phục vụ cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa đều có tội
nhiều hoặc ít. Đó là cách luận tội của Cộng Sản. Tôi vào trại tù cải tạo
Long Thành, với một túi xách đeo vai, một chiếc chiếu nhỏ cho một người
nằm. Thiếu đủ mọi thứ. Tôi phải xuống hố rác cạnh dãy nhà chúng tôi ở,
để tìm chai, lọ, mấy tấm tôn để đựng nước, đựng cơm, thức ăn… Nước chỉ
đủ uống, không đủ tắm. Trời tháng sáu mưa dầm dề. Chờ trời mưa, tôi gội
đầu tắm giặt nhờ những dòng nước mưa chảy theo mái nhà.”
Trong
suốt thời gian bị giam một mình, bà đã canh cánh sợ bị bọn võ trang
muốn làm hỗn nên không bao giờ dám chợp mắt, đã nơm nớp khiếp sợ mỗi đêm
khi cai ngục lẻng kẻng xâu chìa khóa đâu đó giữa rợn rùng thăm thẳm
tối. “Vì đêm trước có ai bị đưa đi, thì sáng hôm sau coi như mất tích,”
bà nói. Hơn nữa, phương tiện vệ sinh căn bản nhất cũng không có. Bà hồi
tưởng, “Nói đến nơi tiểu tiện bằng những cầu dã chiến ngoài trời, mưa
dầm là nó lầy lội, và những con vòi trắng lềnh bềnh mà nữ thì làm sao
dám ngồi để tiểu tiện, nên tôi đành nín, nhịn khát, đợi tối mới ra cái
nhà tắm che bằng bốn vách lá, đi xong cho vào hố rác. Nhớ tới cảnh này,
tôi
luôn rùng mình, sao tôi chịu nổi dơ bẩn như thế.”
Bà
nói tiếp, “Đầu tháng 10 năm 1975, tôi bị chuyển về trại giam Thủ Đức
(tức 16NV). Chỉ có một người nữ bị chuyển là tôi. Tôi ở một mình trong
phòng giam và bắt đầu các cán bộ thẩm vấn, điều tra từ trung ương đến.
Tôi bị kêu lên đêm có, ngày có, bị hỏi liên tục, hỏi xong rồi bắt viết,
thu bài. Những tháng ngày này, đầu óc tôi quá căng thẳng. Cả đêm không
buồn ngủ, tựa lưng vào vách tường, kê túi quần áo và gối nằm để làm điểm
tựa viết bài họ điều tra.”
Bà
nhớ lại, “Tôi phải cải tạo khổ sai ở đây nhiều năm, không đủ vệ sinh và
thiếu thốn. Ăn thì độn khoai mì có vỏ đỏ quấy, gọi bột ngàng phệt, hột
bo bo, mì sợi luộc có cả con chuột chết vớt ra bỏ đi, lại tiếp tục chia
mì sợi cho người một phần để ăn, không thì đói. Cả ngày cuốc xới mỏi
mệt, tối đến vào phòng ngủ gần người lao phổi (xuất huyết phổi tới thời
kỳ chót), bệnh giang mai thời kỳ thứ ba, phổ có nước thời kỳ chót. Tôi
phải sống chung với họ cho tới khi họ được tha, và không bao lâu thì họ
chết. Tôi phải may những nệm ngồi bằng vải vụn riêng để tránh lây nhiễm.
Lúc ngủ, các bạn khỏe xếp gần nhau, chừa một chiếu cách người bệnh, xây
đầu
khác hướng với người bệnh và xây lưng về phía người bệnh để tránh lây
nhiễm.”
Vì
Nguyễn Thanh Thủy đã giữ một vai trò khá quan trọng khi phục vụ dưới
chế độ Việt Nam Cộng Hòa, bà đặc biệt bị quản lý nghiêm ngặt và tra khảo
liên tục, làm bà chóng mặt, căng thẳng đến ngã bệnh. Cán bộ không bao
giờ rời mắt khỏi bà, ngay cả về đêm. Bà kể, “Tôi là người tù bị chỉ định
nằm ngay cửa ra vào hoặc ngay cửa sổ phòng tù để họ dễ kiểm soát hành
vi về đêm của tôi. Cửa sổ tù không bao giờ có cửa để đóng lại, nên rất
lạnh. Đêm đêm đói bụng quá, các bạn tù kể món ăn này, món ăn kia cho đỡ
thèm đỡ đói. Nhớ chồng con kể chuyện hạnh phúc ngày nào thì có bà lên
tiếng, kêu đừng kể nữa, vì rờ hai bên toàn chiếu không. Tới ngày thăm
nuôi được
gặp thân nhân gia đình, là lúc lấy dạ dày an ủi trái tim.”
Trong
hoàn cảnh lao tù khổ sai, người nữ tù chịu nhiều khó khăn và khổ sở hơn
người tù nam, nhất là về phần vệ sinh hằng tháng, và sự an toàn bản
thân. Không chỉ những nữ tù cải tạo mới bị dòm ngó và hãm hiếp, mà những
phụ nữ bị bắt vì vượt biên cũng bị lính gác bạo hành về tình dục. Sự
căng thẳng của người tù nữ, vì vậy, cao gấp nhiều lần so với bạn tù nam.
Bà lại kể, “Trại giam có nước máy, nên vệ sinh cá nhân cũng đỡ, nhưng
vấn đề phụ nữ hằng tháng, không có băng giấy, tôi phải dùng quần áo cũ
xé ra để lót, rồi giặt không xà phòng (vì không được thăm nuôi). Ăn
uống, mỗi buổi sáng được một ly nước nóng, trưa một phần khoai độn, buổi
chiều nửa
chén cơm, một chút rau muống luộc với nước muối. Lễ lớn có một miếng
thịt bằng ngón tay. Hơn một năm, một số tù cải tạo chuyển đi Bắc, một số
tù cải tạo ở nơi khác chuyển tới, lúc đó mới có một số chị em phụ nữ ở
trại Long Giao, trại giam Chí Hòa, Phan Đăng Lưu tới. Đa số là tù phản
động. Tôi mới thoát cảnh ở một mình mà sống tập thể với bạn tù cũ, bạn
tù mới. Tôi bắt đầu đi lao động, làm cỏ chung quanh trại giam, và trồng
rau muống.”
Cảnh
lao động vất vả của trại tù, dù sao, cũng cho người tù cơ hội được thấy
ánh sáng mặt trời, mà không bị vây hãm gò bó giữa bốn bức tường bức
bối. Nhưng trồng rau bằng phân người và nước tiểu người là những cực
hình mà người tù phải gánh chịu, và ăn rau do chính mình trồng nhưng
không được rửa sạch làm cho người tù bị tiêu chải kinh niên. Nhu cầu nha
chu hay y tế căn bản cũng không được đáp ứng, nên bạn tù phải mượn kềm
của tù nam hình sự, khi họ về ăn cơm trưa trong một tiếng, để nhổ răng
cho nhau, khi răng đã hư quá nặng và không thể giữ được. Họ phải cầm máu
bằng nước muối, vừa rát, vừa đau.
Bà
kể tiếp, “Hai năm sau, tức tới tháng Bảy, 1977, chúng tôi chuyển lên
trại tù cải tạo Căn Cứ 5 Rừng Lá, tức trại Z30D Hàm Tân, Thuận Hải. Đã
di chuyển xa, nên việc phải gặp chấp pháp ít hơn, vài ba tháng một lần.
Mà chủ yếu là lao động, cả đội mấy chục cô cầm cuốc, cầm xẻng, thùng
tưới nước, chia nhau công tác để làm. Mới đầu chẳng biết cuốc, cả ngày
trời cuốc một khoảng cỏ trước sân cơ quan mà thấy vẫn y nguyên. Lần lần
gánh tranh, trồng rau muống, khoai lang, củ cải. Rau tưới bằng một lon
nước tiểu pha một thùng nước suối, phân người bỏ dưới rãnh, lấp đất,
trồng rau lên.
Tôi
yếu sức nên đứng múc nước tiểu, pha cho người khỏe trẻ tưới. Cả ngày
làm lao động mệt, chiều hết giờ chạy về bờ suối tắm 20 phút, vừa giặt
giũ vừa tắm, không có quản giáo nữ canh gác. Cán bộ nam và võ trang canh
gác khi đội nữ tắm. Bọn cai tù nói, “Các chị cứ coi chúng tôi như các
chị, cứ thế mà tắm.” Thật là trơ trẽn. Chúng tôi cứ nhúng cả người xuống
nước rồi lên giống như vịt rỉa lông. Những ngày mưa, nước suối đục
ngầu, vẫn phải tắm, vì nước tiểu và phân dính cả người. Tới mùa nước
suối cạn, bọn Cộng Sản chuyển đội nữ về lại trại cải tạo Long Thành. Nơi
đây là trại hình sự, máy nước bị hư, không tiền sửa chữa. Mỗi ngày phát
một
gô
nước uống, một tuần lễ mới ra suối cạn tắm một lần, giặt giũ rồi xách
nước về. Về tới trại rửa cát bụi đi đường là thấy hết sô nước. Trại này
trồng táo Thái Lan, dền, rau muống, cũng dùng nước tiểu, phân người làm
phân bón. Chỉ trồng táo mới tưới bằng phân urê.”
Nhưng
sau đó, bà bị chuyển trại, và bị đưa vào biệt giam hơn một năm để hỏi
cung. Đây là gian đoạn gian nan nhất trong thời gian mười ba năm khổ sai
của bà. Tuy nhiên, bà vẫn luôn giữ trong đầu một điểm đến: cố sống sót,
đối diện với nghịch cảnh, để có ngày đoàn tụ với con. Bà ôn lại, “Ăn
thiếu thốn, đói khát, bị vây quanh mấy tên cán bộ chấp pháp, tôi muôn
điên lên vì thần kinh quá căng thẳng. Tôi sẽ gặp đau thương khi đối đầu
với địch nên trước ngày cuối, để bảo mật, tôi đã hủy hồ sơ của Biệt đội
Thiên Nga. Tôi cũng được bọn Cộng Sản đưa đi xem các văn phòng có liên
hệ. Nhưng tôi vẫn lo lắng cho các nhân viên.
Bà mẹ Thanh Thủy và ba con thơ tại Mỹ Tho
|
Tôi
muốn bảo toàn cho các bạn nữ đồng khóa, các nhân viên, và cộng tác
viên. Tôi tâm niệm trong lòng mỗi lần phải gặp mặt cán bộ, tôi đều thầm
nhủ đây là địch, đây là Việt Cộng, làm cho tôi thêm nghị lực, bình tĩnh
hơn, mạnh dạn hơn để trả lời. Tôi ở biệt giam một mình hơn một năm, vì
phải làm việc bằng đầu óc, trại giam gọi là động não quá nhiều, ăn uống
thiếu thốn, ngủ nền xi-măng, tôi bị liệt một chân, phải lần vách. Tôi
mới xin lau chùi quét dọn hành lang và xin phơi nắng nửa giờ mỗi ngày
trừ thứ Bảy và Chủ Nhật. Tôi tập giật chân kinh và tự xoa nắn lấy chân
bị liệt teo cơ do suy dinh dưỡng gây ra. Tôi tự nhắn nhủ, không nhớ con
nhiều
nữa, phải rán chịu đựng mọi khó khăn để có sức khỏe trở về với con.”
Thời
gian biệt giam này đã dài như thế nào? Những chi tiết về gian đoạn này
sẽ khiến nhiều người không thể tưởng tượng ra được, bà Nguyễn Thanh Thủy
đã làm thế nào để sống sót. Bà nói, “Tháng 4 năm 1981, tôi bị đưa từ
trại tù cải tạo Long Thành về trại tù biệt giam X4 (Bộ Công An Cộng Sản
đường Võ Tánh, Sàigòn). Tôi ở xà lim, chung quanh tối om, ngoài một bóng
đèn điện cho cả dãy xà lim, mỗi xà lim có một khoảng trống bằng một cục
gạch trên sát trần nhà để thở. Trời tháng Tư ở Việt Nam, nóng bức, mồ
hôi chảy như tắm, quần áo vo cao cho bớt nóng. Tuần lễ đầu tiên tôi bị
xỉu, thiếu dinh dưỡng, thời tiết quá nóng. Cán bộ trại giam
phát hiện do người ở cạnh xà lim đập tường hỏi thăm sức khỏe, không
thấy tôi trả lời, họ đập tường gọi cán bộ cấp cứu. Sau lần cứu tôi tỉnh
dậy, trại giam đưa một lọ thuốc tim nhỏ giọt để khi mệt nhỏ vào miệng và
gọi cấp cứu.
Về
ăn uống, sáng để gô ra, họ cho một gô nước nóng. Trưa và chiều để ít
cơm trong cái thau và một chén canh ngoài song sắt xà lim, rồi tự mình
mang cơm canh qua song sắt để ăn. Phải kiếm thế nghiêng thật nhanh, mang
tất cả cơm canh vào. Vì không có muỗng, nên phải ăn bốc bằng tay.
Lúc
mới tới, Cán Bộ chấp pháp cho biết tôi sẽ được ăn tiêu chuẩn quốc tế,
dành cho người về làm việc, ngày 3 lần: sáng, trưa, chiều. Nhưng tôi
chưa bao giờ nhận được buổi ăn nào như thế. Các tù nhân đi với Cán Bộ
trại giam giao phần ăn không được mặc áo, phải ở trần và bận quần xà lỏn
(quần đùi), họ không được nói bất cứ lời nào. Muốn hỏi gì, họ chỉ tay
về phía Cán Bộ, người Cán Bộ mới có quyền nói chuyện với tù nhân.
Về
phần vệ sinh cá nhân, mỗi ngày được tắm một lần, 20 phút. Tù không bao
giờ gặp mặt nhau, cứ người này tắm xong, mới mở cửa phòng khác cho tù ra
tắm. Tiểu tiện đi vào thùng sắt đựng đạn của Mỹ, cứ đi tắm mang ra đổ,
rửa sạch dùng lại.
Đưa
tôi về nơi này, bọn Cán Bộ chấp pháp làm áp lực để tôi viết cam kết,
với chồng hồ sơ thu thập được của nhân viên Thiên nga, cấp chỉ huy, bạn
bè để trước mặt, cho thời hạn suy nghĩ là 3 ngày. Trên đường trở về xà
lim, tôi nhờ chấp pháp trình lại với lãnh đạo của họ, 6 năm tù cải tạo
đủ để suy nghĩ, không cần thêm 3 ngày. Tôi trả lời: Không, không bao
giờ.
Thế
là tiêu chuẩn ăn hàng ngày bị giảm đến mức tối thiểu, chỉ còn một chút
cơm với vài hột muối hột. Thời gian này, bệnh nặng không được chữa, có
lần ói từ nửa đêm đến sáng. Khi họ kiểm tra thấy nằm ói toàn mật xanh,
Bs y tá tới, cho thuốc uống liền tại chỗ. Người y tá đưa thuốcd nói thật
nhanh, thật khẽ, “Đừng uống.” Tôi vội nắm chặt thuốc trong lòng bàn
tay, đưa tay giống như bỏ thuốc vào miệng và vội vàng uống nước. Sau
này, tôi gặp người y tá đó khi khám sức khỏe đi Mỹ tại Bv Cảnh Sát.
Người ấy mới kể, trước là y tá Bv Cảnh Sát Quốc Gia VNCH, có thân nhân
liệt sĩ, nên được giữ làm lại, biết tôi và tránh cho tôi bị
thuốc.
Họ
giữ tôi tại cơ quan X4 bốn tháng nhưng không khai thác được gì. Bọn
chấp pháp đem cán bộ nữ ra dụ dỗ vì thương con tôi, mới khuyên tôi cam
kết để tha về. Tôi khẳng định tôi về khi nào có chính sách của lãnh đạo
nước, chứ về riêng lẻ không bao giờ có. Thấy tôi kiên quyết không khai,
bọn chấp pháp biểu tôi đứng xa họ ba thước, nghe đọc lệnh án. Lệnh án có
nội dung như sau: Do quyết định ngày… tháng… năm, Tên Nguyễn Thanh Thủy
có thái độ ngoan cố không chấp hành cải tạo lao động nên tuyên án tập
trung cải tạo tiếp 3 năm và quyết định có hiệu lực vô thời hạn.
Hai
chân tôi bị nhốt ở xà lim, nên bị liệt không đi nổi. Trở lại xà lim,
lấy quần áo chiếu mền theo họ chở về trại tù cải tạo Long Thành. Trước
khi lên xe, họ đưa cái giỏ nhỏ nói là quà gia đình gửi. Sau này gặp
chồng tôi, anh kể mấy ngày trước khi tôi trở lại trại cải tạo Long
Thành, họ đưa một miếng giấy có chữ viết của tôi, vỏn vẹn, “Thăm anh và
các con. Em vẫn khỏe mạnh.” Xong họ dặn chồng tôi mua cho tôi ít quà
khô. Họ biểu đem đến cổng. Anh không biết chỗ, hỏi thăm gác cổng, họ bắt
anh nhốt cho tới tối mới thả anh ra.
Sáng
hôm sau là tôi chuyển trại. Họ phải xách tất cả một xách quần áo, sô
đựng vài thứ linh tinh, một giỏ thức ăn. Vì tôi đi không nổi, mặt mày
xanh xao, không ánh nắng mặt trời bốn tháng, màu da vàng của người VN
rất đúng không sai tí nào. Nói đến hình phạt kỹ luật cho nữ, cái nhà kỹ
luật là nhà có 2 lớp, giống như cái hộp có hai lớp, một lớp là phòng
giam nóc bằng, cách khoảng chừng 1 thước, lớp ngoài cũng xi măng cốt
sắt.
Mỗi
phòng giam kỷ luật có một cái bệ. Cuối bệ có cây sắt thông ra ngoài để
khóa bằng ống khóa sắt. Trên cây sắt có những cái cùm. Cái bệ xi măng có
một cái lỗ để thùng đạn của Mỹ. Thùng trống không, làm chỗ tiểu tiện.
Đặc biệt là kể từ ngày vào phòng giam kỹ luật cho đến ngày ra không được
tắm. Khôn được tắm từ 1 tuần cho tới 3 tháng, 6 tháng, hay cả năm, chỉ
những ngày kinh nguyệt phụ nữ mới được 40 phút thay quần áo.
Tùy
theo hình thức phạt, đa số hai chân đều phải cùm lại, hỏng trên cái bệ,
nên rất đau đớn vì tê chân và sét ăn vào cườm chân. Muỗi đốt suốt ngày
đêm, bóng tối cả ngày đêm… Những hình thức này tôi đều trải qua, hằn sâu
trong da thịt tôi.”
Chính
thời gian biệt giam này đã gây ra nhiều tổn thương trên thân thể bà
nhất, từ việc bị bại liệt một bên người, phong thấp, các chứng bệnh
đường ruột và tiêu hóa, cho đến sự căng thẳng đầu óc đến cao độ. Từ việc
bị giam trong phòng tối cả ngày lẫn đêm, cho đến việc bị điều tra hỏi
cung 24/24, cho đến việc bà bị trừng phạt không cho ăn uống, chỉ có chút
nước và ít muối hột, hay bị phạt không được tắm, những ngày có kinh
nguyệt bà cũng chỉ được 40 phút thay quần áo rồi bị cùm lại – tất cả đã
khiến bà rụng gần hết răng và cơ thể bà hoàn toàn kiệt sức, không đứng
được.
Tại Mỹ với vật chứng nhà tù mang theo. (hình phóng sự: Benjamin Vũ)
Tôi
thắc mắc, sau những đằng đẵng đói lạnh và lao động quá sức, không biết
trong những lúc quá cùng cực và bị bệnh thập tử nhất sinh, Nguyễn Thanh
Thủy có bao giờ cảm thấy tuyệt vọng không? Mười ba năm khổ sai đã cho bà
nhiều kinh nghiệm đắt đỏ và một cái nhìn thấu đáo về chế độ chính trị
đang nắm quyền trên quê hương bà. Và khi bà rời nhà tù nhỏ của trại Hàm
Tân Z30, bà tiếp tục bị dồn bức cho đến giây phút gia đình bà đứt ruột
rời bỏ người thân và quê hương để đi Mỹ qua diện H.O.
Bà
kiên trì, giữ vững tôn nghiêm của người lính, giữ tinh thần lạc quan.
Cho nên “Cả 13 năm tù, tôi không muốn kẻ địch thấy giọt nước mắt của
tôi. Nên khó tìm thấy nét buồn, cho tới ngày em tôi lên trại, báo tin Ba
tôi mất, tôi xỉu ngay tại phòng thăm nuôi và tôi rơi nước mắt.”
Nhưng
dù không biết tương lai mình ra sao, Nguyễn Thanh Thủy vẫn luôn nghĩ
đến người khác, những người bạn tù của bà. Chính vì nghĩ đến người khác,
nên ngay từ đầu, bà đã không khai những bí mật Thiên Nga khi bị hỏi
cung, mà mới bị trừng phạt nặng nề và chịu nhiều tổn hại về sức khỏe.
Đến những ngày cuối cùng, bà vẫn giúp các bạn tù, “Mấy năm trước ngày ra
trại, tôi làm đội trưởng kỹ thuật may, chỉ cho các em hình sự án cao
biết may gia công để đỡ cuốc đất trồng rau cực khổ trong thời gian thụ
án, sau có tay nghề may.”
Là
người nữ tù cuối cùng rời trại cải tạo vì bị cho là ngoan cố, Nguyễn
Thanh Thủy rời tù nhỏ, về tù lớn của xã hội Việt Nam hậu 1975, với hai
hàm răng đã rụng, nên các con không dám tới gần bà. Con gái bà bảo, “Kỳ
quá, Mẹ không có răng!”
Tôi
tự hỏi, đối với bà, đâu là nỗi đau lớn nhất trong 13 năm này: những đau
khổ về thân xác trong trại cải tạo, hay nỗi đau tình cảm phải chia lìa
với gia đình và con dại? Thời gian có xoa dịu được những nỗi đau này
không? Hay mất mát sẽ vĩnh viễn là mất mát?
Nguồn: Trang Đài Glassey – Trần Nguyễn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét