Thứ Năm, 19 tháng 4, 2012

Lịch sử vinh danh



"Chết mà vì nước, chết vì dân,
Chết đấng nam nhi trả nợ trần.
Chết buổi Đông Chu, hồn thất quốc,
Chết như Tây Hán lúc tam phân.
Chết như Hưng Đạo, hồn thành thánh,
Chết tựa Trưng Vương, phách hóa thần.
Chết cụ Tây Hồ danh chẳng chết,
Chết mà vì nước, chết vì dân."

(trích thơ của Cụ Phan Bội Châu)


Tháng Tư Đen. 
Kính dâng những linh hồn Tử Sĩ VN.

Anh vẫn đó, oai hùng như dáng núi
Ánh căm hờn trong lũng mắt đau thương
Hăm mốt năm qua, trời sầu đất tủi
Nơi đáy mồ anh khóc chuyện quê hương !

Anh có nhớ trong niềm đau mất nước
Nhìn Hiền Lương máu ngập đến Cà Mau
Vẫn anh dũng, anh kiên cường tiến bước
Viên đạn thù tàn nhẫn réo thương đau ?!

Tuổi thanh xuân anh bừng bừng khí thế
Trái tim hồng đỏ thắm máu Tiên Long
Cổ thành xưa anh đã từng ngạo nghễ
Gương hào hùng oanh liệt bốn nghìn năm !

Ôm hoài bảo và tình yêu sông núi
Anh hiên ngang đối diện với quân thù
Dù ngã xuống, bia vàng không tên tuổi
Nhưng trong lòng dân tộc đã thiên thu !

Anh không chết, muôn đời anh không chết
Và muôn đời Tổ Quốc mãi ghi công
Hỡi các anh ! những người trai tuất kiệt
Lấy máu đào anh rửa hận non sông !

Tôi nợ anh một lễ nghi quốc táng
Lời tuyên dương, truy điệu bậc anh hùng
Hăm mốt năm qua làm thân tỵ nạn
Tôi cúi đầu nghe nước mắt rưng rưng ...

Tôi nợ anh khúc quân hành rộn rã
Ánh đuốc thiêng và tiếng hát khải hoàn
Món nợ đó tôi rất mong được trả
Trả cho anh và Tổ Quốc VIỆT NAM !

Ngô Minh Hằng



Hai tay nâng mảnh khăn tang 
Trăm năm thôi vĩnh biệt Chàng từ đây!
Vì đâu đến nước non này
Lệnh kia sao lại trói tay anh hùng?
Trước hờn bức tử non sông
Thiên thu đâu lẽ thẹn cùng cỏ cây!?
Mịt mù bốn phía trời mây
Tiếng gầm đại bác, tiếng cày xe tăng
Phút giây oan nghiệt bất bằng
Giận cơn hồng thủy cuốn phăng sơn hà
Âm thầm, Chàng bỏ lại ta...
Giữa trăm ngàn nỗi xót xa nghẹn ngào!
Kỳ đài, cờ rủ trên cao
Ngỡ ngàng nghe lệnh chiến hào bỏ không
Đau thương, nhìn lại xác chồng
Chàng đi theo nước, em không trách Chàng!
Xé manh áo, quấn khăn tang
Lên đầu con trẻ, hai hàng lệ rơi
Xa nhau!... Vĩnh biệt nhau rồi...
Mà không nói được một lời từ ly!
Mắt thần chẳng khép làn mi
Một dòng máu đỏ, tứ chi lạnh dần
Ôm chồng, thân ngã vào thân
Tứ bề pháo giặc xa gần ầm vang
Hai tay nâng lá cờ vàng
Phủ lên cho ấm lòng Chàng, lòng ta!
Tên Chàng dù chẳng sử hoa
Nhưng hồn Chàng đã nhập hòa núi sông
VÔ DANH VẠN THUỞ ANH HÙNG!!!

Ngô Minh Hằng

Hùng Ca Tưởng Niệm 
Thiếu Tướng NGUYỄN KHOA NAM
Tư Lệnh Vùng IV Quân Khu IV


Phạm Bội Diệp & Trần việt Yên
Tưởng Niệm các Anh Hồn Tử Sĩ 30 - 4 - 75

Súng vang kết liễu mạng Anh Hùng 
Dân lệ giang sơn động cửu trùng !
Trước địch không hèn , gan tướng dũng 
Trong dân nể phục , tiết tôi trung !
Tinh thần Hoàng Diệu treo ngời rạng 
Khí phách Khoa Nam nối sáng trưng 
Vị quốc vong thân , người bất tử 
Uy linh huyền sử dấu soi cùng , !

Phạm Bội Điệp 


Bài họa của Trần Việt Yên: 

Tấm gương trung liệt thật hào hùng , 
Nước mắt lê dân nhỏ điệp trùng , 
Một thuở tung hoành oai hổ tướng 
Muôn đời Vằng vặc tấm gương trung 
Chết cùng Tổ quốc theo Hoàng Diệu 
Sống với Non sông tựa Nhị Trưng 
Chẳng thẹn lòng ai vô uý tử
Khoa Nam Lịch Sử khắc bia cùng !


Bài hưởng ứng của Trần Việt Yên : 

I
-‘’ Đừng đem thành bại luận ANH HÙNG !! ‘
Tiếng súng liệt oanh động Cửu Trùng !
Chinh chiến tung hoành , gan tướng dũng 
Thất cơ nguyện giữ , tiết tôi trung !
Theo chân Hoàng Diệu gương ngời rạng, 
Nối bước Tri Phương vượt sáng trưng !
Thân hiến Quốc Gia Hồn bất tử 
Vàng son Lịch Sử dấu soi chung * 

II
Soi chung Lịch Sử dấu vàng son 
Danh Tướng Khoa Nam mãi trường tồn ,
Khiếp viá Cộng nô Hoa Dù nở , 
Bay hồn quân địch chốn biên cương . 
Tây Đô trấn nhậm , dân tin tưởng , 
Lục Tỉnh tảo trừ giữ nước non 
Đến bước cuối cùng không úy tử
Thiên thu ngời sáng tấm lòng son !

I I I
Lòng son ngời sáng đến thiên thu 
Thương tiếc ba quân nguyện kính thờ
Quốc phá thung dung thân tựu nghiã 
Gia vong chẳng chịu lấm bùn nhơ
Theo chân Hoàng Diệu gương trung liệt 
Nối bước Tri Phương , chí chẳng mờ 
Dù thác tinh anh còn sống mãi
KHOA NAM hùng khí đến thiên thu, 

IV
Thiên thu hùng khí Nguyễn Khoa Nam 
Sống mãi trong hồn người Việt Nam 
Thắp sáng toàn dân vì chính nghiã
Dục lòng quân sĩ cứu nhà Nam 
Ngân vang tiếng súng đền ơn nước 
Bay bổng hồn về với Tộc Nam 
Quốc biến không màng chi mạng sống 
Muôn đời Anh kiệt Nguyễn Khoa Nam

Đức độ tài năng đã rõ ràng
Báo đền nợ nước, NGUYỄN KHOA NAM
Nuí sông bức tử vào tay giặc
Thà chết vinh danh, chẳng nhục hàng!

Ngô Minh Hằng

"Tuẫn tiết theo thành khí phách thay! 
Tướng Nam xứng đáng bậc râu mày 
Ngửa nghiêng vận nước khôn chèo chống 
Khắc nghiệt cơ trời khó chuyển xoay 
Tư lệnh Quân Khu đành chọn thác 
Chỉ huy vùng bốn chẳng cao bay 
Vì dân vì nước tròn danh tiết 
Lưu mãi ngàn thu nghĩa cử này."

NHỊ VỊ TƯỚNG LÃNH 
Nguyễn Khoa Nam - Lê Văn Hưng

"Vị quốc vong thân chết vẫn hùng 
Hưng, Nam hai Tướng cặp bài trùng 
Gia bần, nhà rõ lòng con hiếu 
Quốc loạn, dân hay da. Tướng trung 
Thà chọn thác vinh, gương sáng để 
Chẳng ham sống nhục tiếng nhơ trưng 
Anh hùng tử, khí hùng nào tử 
Khí phách hiên ngang trận cuối cùng." 

Thiếu Tướng LÊ VĂN HƯNG

Tư Lệnh Phó Sư Đoàn IV,Quân Khu IV

Anh hùng An Lộc đã danh vang
Chấp nhận làm sao được lệnh hàng
Vì nước, tướng hùng, lòng tiết khí
Chọn đường oanh liệt, chết vinh quang

Ngô Minh Hằng


Thiếu Tướng Lê Nguyên Vỹ 
Tư Lệnh Quân đoàn 5 Bộ Binh

Bình Long anh dũng góp tài năng
Làm tướng như Ông, mấy kẻ bằng
Quốc sĩ đầu hàng sao được giặc
Sân cờ Tư Lệnh, ánh sao băng!!!

Ngô Minh Hằng 

"Anh hùng hành động thật hùng anh 
Tướng Vỹ coi thường chuyện tử sanh 
Quốc kế khôn ngăn phường tráo trở 
Dân tình khó cản bọn lưu manh 
Tiền phương Quân sĩ còn ngăn giặc 
Hậu tuyến trung ương đã nạp thành 
Tư lệnh Sư Đoàn đâu chịu nhục 
Sân cờ tuẫn tiết giữ thanh danh." 



“Chiều ấy Lai Khê u uất lắm
Đất trời cây cỏ ngập màu tang
Khi người nằm xuống, Người nằm xuống
Ta đã mất rồi! Mất Việt Nam.
Sáng Ba Mươi giặc tràn Phú Lợi
Quân ta về trấn thủ Bình Dương
Ta vẫn nghe tiếng Người trong máy
Lòng trung Tổ Quốc vẫn vang vang

… Đồi Bam-mốt Sư Đoàn bị bức tử
Đêm ba-mươi vang vọng những hồn oan
Bao nhiêu năm! cờ tang chưa xả
Sống lưu đày lòng đau nhục mang mang
Trời Tháng Tư vẫn nghẹn ngào trong nắng
Hởi hồn Người! Còn vang tiếng Việt Nam.

(Tưởng nhớ Tướng Lê NguyênVỹ) - Đăng Nguyên.




Thiếu Tướng PHẠM VĂN PHÚ 
Tư Lệnh Quân Khu II Vùng II Chiến Thuật

"Đất nước tôi trong trạng huống này 
Làm sao có thể bỏ đi đây? 
Tôi thà ở lại và cam chết 
Không chạy, không hàng, nhục lắm thay ! 

Lời còn văng vẳng đâu đây 
Của vị danh Tướng lòng đầy hiên ngang 
Danh thơm ghi tạc sử vàng 
Tri Phương, Hoàng Diệu theo đàng người đi 

Thác vinh sử sách mãi ghi 
Đâu thèm sống nhục, bấc chì mỉa mai 
Thân danh là một tướng tài 
Lẽ đâu khuất phục với loài sói lang 
Tướng thà chết quyết không hàng 
Tấm gương bất khuất, vẻ vang đời đời." 




Chuẩn Tướng TRẦN VĂN HAI 
Tư Lệnh SĐ/7 BB

"Nghe Tướng Khoa Nam tuẫn tiết rồi 
Tướng Hai cố nén lệ sầu rơi 
Tình hình ngó thấy khôn chèo chống 
Cuộc diện nhìn xem, khó vãn hồi 

Vận nước thế thời, cam phải thế 
Lòng người thôi thế, cũng đành thôi 
Ông đem cái chết đền ơn nước 
Bất khuất, hiên ngang khác mọi người 

Bất khuất, hiên ngang khác mọi người 
Ông coi cái chết tựu đi chơi 
Sống nêu gương sáng trong Quân đội 
Thác để danh thơm lại với đời 

Úy tử đẫu hàng không thể chọn 
Tham sinh trốn chạy khó mà noi 
Tri Phương, Hoàng Diệu, đi theo bước 
Nêu tấm gương hùng, hậu thế soi."


Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh
Yêu dân, yêu lính trước yêu mình
Quê hương bức tử vào tay giặc
Thà chết cho tròn cái chết vinh !

Ngô Minh Hằng

Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn

Ngũ Hổ U Minh
Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện

"Trung dũng cang cường chẳng kém ai 
Tên anh "Ngọc Cẩn" quả không sai 
Ba bông mai bạc mang không uổng 
Một tấm gương vàng để khó phai 
Khí phách can trường đà số một 
Tinh thần quả cảm dễ gì hai 
Đạn thù kết liễu đời oanh liệt 
Quân sử lưu danh vẹn đức tài."



Quyết chiến cùng dân giữ tỉnh nhà
Trả thù, giặc Cộng bắt ông ra
Cần Thơ bịt mắt đem hành quyết
"Cứ giết nhưng đừng bịt mắt ta
"Để ta nhìn nước, dân lần cuối "
Anh hùng muôn thuở sử hùng ca !


HƠI THỞ VIỆT NAM

Ðể tưởng niệm 
Trung Tá Cảnh Sát Long

Tự sát dưới chân tượng đài Thủy Quân Lục Chiến tại Sài Gòn 
sáng ngày 30-4-1975

Trên đám cỏ này là nơi anh đã nằm 
Trên nắm đất này là nơi máu anh đã nhỏ 
Ðất vẫn một màu nâu 
Cỏ vẫn một màu xanh muôn thuở 
Mặt trời mỗi sớm vẫn rọi vào làm lóng lánh 
những giọt sương 
Như đôi mắt sáng của anh 
Lần cuối cùng ngửa mặt nhìn tổ quốc yêu thương 
Dưới chân tượng đài Thủy Quân Lục Chiến. 

Trung Tá Long ! 
Họ của anh là gì vẫn chưa ai biết 
Có phải là Ngô, Ðinh, Lý, Trần hay Lê, Nguyễn...Văn Long ? 
Không, tên của anh đã bắt đầu 
Từ ở núi, ở rừng, ở biển, ở sông 
Ở những câu chuyện thần tiên mẹ thường hay kể 
Từ thuở Cha Lạc Long dắt năm mươi con xuống bể 
Mẹ Âu Cơ dắt một nửa lên ngàn 
Từ thuở bầy chim Lạc chắp cánh bay về 
vùng nắng ấm phương Nam 
Xây tổ bên sông Hồng, sông Cửu 
Tên của anh đã bắt đầu khi con rồng Việt Nam 
phun lửa đốt rừng dựng nên bờ cõi 
Truyền vào lồng ngực anh hơi thở vào đời 
Hơi thở Việt Nam hòa trong anh suốt thuở làm người 
Sáng ba mươi anh trở về với mẹ 
Hồn anh bay giữa trời quê hương 
Một màu tang quạnh quẽ 
Tổ quốc nghiêng mình tiễn biệt một người con. 

Lòng anh đau khi nghe tiếng chiếc xe tăng 
Ðang nghiền nát Sài Gòn 
Hy vọng chết dưới mỗi lằn xích sắt 
Viên đạn Nga bắn vào tim nước Việt 
Lưỡi lê Tàu đâm thủng ngực dân Nam 
Ôi ! có bao giờ trong suốt bốn nghìn năm 
Mà đất trời quê hương ta buồn như hôm ấy 
Những mẹ, những cha, những cụ già, em bé 
Ngơ ngác nhìn nhau, sợ hải, kinh hoàng. 

Một chế độ vừa bắt đầu 
Bằng hận thù, khủng bố, lầm than 
Bằng tiếng xích T54 đay nghiến hồn dân tộc 
Xé nát lòng anh bao hờn căm và tủi nhục 
Anh đã chọn cho mình một cách chết quang vinh. 

Anh ngã xuống giữa Sài Gòn không để lại đủ họ tên 
Nhưng lịch sử nghìn năm sau vẫn nhớ. 
Trung Tá Long ! 
Mây vẫn bay trên đầu anh mỗi chiều, mỗi sớm 
Mặt trời mọc mỗi ngày làm lóng lánh giọt sương mai 
Như nước mắt mẹ già nhỏ xuống xác con trai 
Như ánh mắt chị nhìn chồng trong giờ vĩnh biệt 
Ðất vẫn một màu nâu đậm đà như tình người dân Việt 
Nơi anh nằm hoa cỏ vẫn xanh tươi. 

Máu anh rơi để làm đẹp cuộc đời 
Tô thắm đường các em sẽ đến 
Các em là thuyền nhờ có anh là bến 
Trong cuộc hải hành này anh là ngọn hải đăng soi 
Ðường tự do dù còn lắm chông gai 
Nhưng đã có anh mang niềm tin đi trước 
Cám ơn anh, người con yêu đất nước 
Ðã truyền lại cho muôn đời hơi thở Việt Nam. 

Trần Trung Ðạo



NGƯỜI LÍNH VNCH

"ĐÂY LÀ TIẾNG NÓI NƯỚC VIỆT NAM 
PHÁT THANH TỪ THỦ ĐÔ SÀIGÒN..." 
Cho đến nay, tiếng nói đó vẫn còn 
Vang vọng mãi trong trái tim "Người Lính".

Là hình ảnh của một thời ổn định 
Là tiền đồn của Thế giới tự do 
Của miền Nam nước Việt rất ấm no 
Là thành luỹ mang hồn thiêng sông núi.

"Người Lính" trẻ đã một thời dong ruỗi 
Đem Tình người, Tình lính trấn biên cương 
Vẫn một lòng chung thuỷ với quê hương 
Dù oan nghiệt rẽ đời qua trăm hướng.

"Người Lính" chúng tôi tuy không Sinh Vi Tướng 
Cũng hiên ngang chấp nhận Tử Vi Thần 
Trọn một lòng chỉ vì Nước, vì Dân 
Dâng hiến cả đời mình cho Tổ Quốc.

Từ QUảng Trị rét căm mùa gió bấc 
Đến Cà Mau mưa, lũ ngập đồng sâu 
Vết giầy saut lội bất cứ nơi đâu 
Để mang lại Tin Yêu và Lẽ Sống.

"Người Lính" chúng tôi mang trái tim hào phóng 
Của tuổi đời đẹp nhất: lúc đôi mươi 
Làm nguồn vui nơi tuyến đầu lửa bỏng 
Trong gian truân vẫn nồng ấm nụ cười.

Dù đôi lúc có hoang mang, phẫn nộ 
Hay chán chường vì dấu ấn chiến tranh 
Nhưng nỗi buồn cũng tan biến rất nhanh 
Khi đối diện với kẽ thù ngoài mặt trận.

Rồi cũng đến lúc chào thua số phận 
Khi tàn vong đành nước mất, nhà tan 
Vì thế cùng, lực tận phải sang bang 
Thân nhược tiểu, xót thầm, ôi ngang trái

"Người Lính" chúng tôi không hề chiến bại 
Chỉ chào thua định mệnh đã an bài 
Bởi cô thế đành nương thân hải ngoại 
Chờ bình minh quang phục của ngày mai. 

Huy Văn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét