Nhà văn Sơn Tùng |
ÐÔI LỜI GIỚI THIỆU
Ðầu xuân năm 1998, ông Vũ Kỳ,
người hầu cận của Hồ chí Minh, tung ra bài viết " Bác Hồ
với tết Mậu Thân năm ấy " trên một số tờ báo như báo
Văn Nghệ, Tiền Phong, Nghệ An, trong đó Vũ Kỳ hé mở có
chuyện bất thường trong chuyến bay ban đêm ngày 23 tháng
12 năm 1967.
Bài báo có đoạn viết," Bây
giờ tối thứ bảy , ngày 23 tháng 12 ,máy bay đưa Bác đến
vùng trời Hà nội . Lượn hai vòng vẫn chưa hạ cánh được
vì đèn chỉ huy trên sân bay chệch 15 độ. Ðồng chí lái
giàu kinh nghiệm quyết tâm hạ cánh không theo đèn. Rất may
là an toàn. Các đồng chí Lê Duẩn, Phạm văn Ðồng, Lê đức
Thọ ra đón Bác tại sân bay, đưa Bác về nhà và báo cáo
công việc với Bác "
Thật ra đọc đoạn văn trên cũng
không ai hình dung ra được một âm mưu giết Hồ chí Minh bằng
tai nạn phi cơ đã xảy ra nhưng không thành công.
Sau này có bài nói chuyện của nhà
văn Sơn Tùng ngày 27 tháng 4 năm 2001 tại trường Cán bộ quản
lý giáo dục đào tạo, trong đó ông Sơn Tùng kể lại chi
tiết bí ẩn của chuyến bay trên và người ta có thể đưa
đến kết luận là có âm mưu của bọn đàn em muốn dùng
tai nạn phi cơ để giết Hồ chí Minh
Một chuyến bay chở Chủ tịch nước
như Hồ chí Minh mà người phi công lái phi cơ không liên lạc
được vô tuyến với sân bay bên dưới.. Ðèn hiệu sân bay
lại đổi nên không dựa theo đèn mà đáp được nên coi như
bị mù mắt, đành phải đáp phi cơ theo trí nhớ ! Nói những
điều này ra để thấy âm mưu bọn đàn em dùng tai nạn phi
cơ để mưu sát Hồ chí Minh coi như đã quá rõ ràng. Số Hồ
chí Minh chưa chết trong chuyến bay này vì người phi công quá
tài giỏi, đáp phi cơ an toàn dù lái phi cơ bằng trí nhớ
!
Vũ Kỳ cũng như Sơn Tùng đều muốn
tố cáo ra âm mưu giết Hồ chí Minh bằng tai nạn phi cơ ,
nhưng vì còn sống trong chế độ Cộng sản , hai ông không
thể nói toạc móng heo ra mà chỉ cung cấp chi tiết trục trặc
khó hiểu của chuyến bay và dành sự kết luận cho người
đọc. Ðó là một cách viết khôn ngoan nhằm chuyển tải bí
mật động trời trên báo chí công khai của chế độ Cộng
sản Việt Nam.
Sơn Tùng được đánh giá là " nhà
Hồ chí Minh học " chuyên nghiên cứu về Hồ chí Minh và đã
có nhiều mặt sách viết về Hồ chí Minh. Nói là nghiên cứu
chứ thật ra Sơn Tùng là một người đi tìm những mẫu chuyện
thuộc loại huyền thoại để " thần thánh hoá " Hồ chí Minh.
Chuyện Sơn Tùng phỏng vấn cựu
Ðại tá Cao Nham nói đến chuyện Lê Duẩn xin Hồ đánh trận
Mậu Thân, nếu không thành công thì xin từ chức xem ra không
đáng tin lắm. Vì đến thời kỳ Mậu Thân thì Lê Duẩn coi
như tước hết quyền lực của Hồ chí Minh rồi, bởi vậy
mới có chuyện Lê Duẩn và Lê đức Thọ tống cổ Võ nguyên
Giáp sang Hunggary từ năm 1967 ( với lối giải thích ngoại
giao là cho Giáp đi chữa bệnh !) và đưa Hồ qua Bắc Kinh ngồi
chầu rìa trong tết Mậu Thân. Duẩn coi như nắm hết quyền
lực rồi cho nên chuyện xin xỏ Hồ để đánh trận Mậu Thân
là chuyện khó có thể xảy ra.
Không giết được Hồ bằng tai
nạn phi cơ năm 1967, bọn Lê Duẩn , Lê đức Thọ quyết định
dùng thuốc độc giết Hồ năm
1969 bằng một kịch bản khéo léo
nhằm che mắt thế gian. Ðó là sự tiết lộ của các bác
sĩ Hà Nội trong một bài viết nhan đề " Một nghiên cứu
khoa học về Hồ chí Minh" gửi đi từ Hà Nội ra hải ngoại
vài tháng trước đây, ( Xin mời vào www.nsvietnam..com
bấm vào tên Trần viết Ðại Hưng, rồi bấm vào bài số
120) Nhửng bạo chúa bị đàn em giết vào lúc cuối đời )
để đọc bài nghiên cứu giá trị này). Các bác sĩ căn cứ
trên những kiến thức y khoa dể đi đến kết luận là Hồ
chí Minh bị đầu độc chết chứ không chết vì bệnh hoạn
tuổi già.
Phải nói hai nhân vật bị tình
nghi tạo dựng kịch bản tai nạn phi cơ cũng như y khoa trị
bệnh để giết Hồ chí Minh là Lê Duẩn và Lê đức Thọ
vì đã có nhiều chuyện kể lại ghi nhận hai nhân vật này
tỏ ra coi thường và khinh bỉ Hồ. Trong khi ba nhân vật Trường
Chinh, Phạm văn Ðồng và Võ nguyên Giáp không bị coi là nghi
can trong chuyện giết Hồ.
Ðơì đúng là một vở kịch và
những người trên sân khấu là những diễn viên . Hãy nhìn
Lê Duẩn khóc lóc thảm thiết như cha chết trong đám tang của
Hồ chí Minh thì có ai ngờ rằng chính Lê Duẩn là chính phạm
trong chuyện giết Hồ chí Minh và Lê đức Thọ là tòng phạm.
Ngày chết của Hồ chí Minh ( 2/9/1969)
trùng với ngày quốc khánh có thể không phải là sự ngẫu
nhiên. Khi biết bọn đàn em gian ác quyết tâm giết mình bằng
thuốc độc nên Hồ chí Minh, bằng một cách nào đó, quyết
tâm chết đúng ngày 2 tháng 9 để gây sự bẽ bàng khó xử
cho bọn giết ông. Ðây là cú chơi khăm cuối đời nhắm vào
những kẻ ám hại ông. Ông đã tiên liệu đúng vì bọn đàn
em công bố sai ngày ông qua đời là 3 tháng 9 thay vì 2 tháng
9 bởi chúng lúng túng về việc tổ chức tang lễ cho chủ
tịch nước như ông ( quốc tang) vào ngày quốc khánh! Sau này
vì có sự lên tiếng của nhiều nhân chứng, chế độ Cộng
sản mới " cho " Hồ chí Minh chết đúng ngày 2 tháng 9 là ngày
chết đích thực của ông.
Sơn Tùng nói đến 10 nỗi đau của
Hồ chí Minh do Hoàng Tùng công bố trong cuốn sách của ông
nhưng chỉ công bố được có 8 nỗi đau , dấu đi 2 nỗi đau
của Hồ. Cũng xin nói thêm là cuốn sách của Hoàng Tùng viết
về Hồ chí Minh này mới xuất bản là bị tịch thu ngay. Thật
ra muốn biết nỗi đau sâu kín của Hồ thì phải đọc chúc
thư thống thiết của Hồ viết ngày 14 tháng 8 năm 1969 và
sau đó được báo Con Ong ở Pháp và Thức Tỉnh ở Mỹ công
bố vào thập niên 1980. ( Xin vào www.nsvietnam.com
, bấm vào tên Trần viết Ðại Hưng rồi bấm vào bài số
114) Một cách lý giải về chuyện Hồ chí Minh bị mất quyền
lực lúc cuối đời). Nên nhớ đây là di chúc viết tay chứ
một bản văn đánh máy cũng khó thuyết phục thiên hạ rằng
đó là di chúc của Hồ chí Minh. Những ai còn nghi ngờ xin
lấy chữ viết của di chúc này đem tới một văn phòng kiểm
tự chuyên nghiệp để so sánh với nét chữ của di chúc Hồ
chí Minh để lại cho chế độ Hà nội để tìm ra sự thật.
Ngay cả trong di chúc Hồ chí Minh
để lại cho chế độ Cộng sản Việt Nam, ở trang đầu của
di chúc có chữ ký của Lê Duẩn chứng nhận giống như lời
phê của thầy giáo dành cho học trò. Chỉ một điểm này
thôi cũng đủ cho thấy Lê Duẩn hoàn toàn khống chế Hồ
chí Minh vào giai đoạn cuối cuộc đời của Hồ.
Lịch sử nghề gián điệp cũng
như văn học đã cho thấy chưa có trường hợp nào giả chữ
viết thành công. Chuyện giả chữ viết chỉ qua mặt đuợc
người thường chứ không qua mặt được nhân viên kiểm tự
chuyên nghiệp. Chữ viết cũng như dấu tay, không bao giờ có
thể lẫn lộn người này với người khác được. Ðiều
đó cho thấy di chúc Hồ chí Minh viết ngày 14/8/ 1969 là di
chúc thật. Có đọc bản di chúc này thì mới thấy nỗi đau
sâu kín, tức tưởi cuả Hồ. Ai cũng nghĩ rằng ông có quyền
lực ghê gớm lắm nhưng ông bị bọn đàn em tước hết quyền
hành và cho Bác sĩ Tôn thất Tùng chích thuốc độc từ từ
cho chết dần chết mòn một cách thê thảm. Ông cũng nói rõ
Lê Duẩn và Trần quốc Hoàn đến gặp ông và yêu cầu ông
viết di chúc theo ý của chúng. Sở dĩ ông bị hạ bệ như
vậy vì ông phạm tội toan bắt tay với Tổng thống Ngô đình
Diệm ở miền Nam năm 1963. Ngô đình Diệm cũng bị giết vì
âm mưu bắt tay này với Hồ chí Minh.
Sơn Tùng ca tụng thái độ cầu
hiền của Hồ chí Minh khi Hồ chí Minh ôm hôn thắm thiết
cụ Huỳnh thúc Kháng từ Trung ra Hà nội hợp tác trong chính
phủ Liên Hiệp mà Hồ là chủ tịch và nói, " Cụ ra đây
là an dân lạc quốc" . Ðó là thái độ niềm nở lúc ban đầu
gặp gỡ thế thôi chứ sau này Hồ chí Minh để cụ Huỳnh
thúc Kháng chầu rià, ngồi chơi xơi nước và không giao công
việc gì cụ thể cả. Cái ưu điểm cầu hiền mà Sơn Tùng
nêu ra để ca tụng Hồ chí Minh chỉ là cái giả dối trong
trường chính trị của Hồ mà thôi chứ Hồ chí Minh không
có tốt lòng, tốt bụng chi cả.
Năm 1952 bạo chúa Mao trạch Ðông
của Trung Cộng và đồ tể Stalin của Liên xô gọi người
học trò nhỏ Hồ chí Minh sang, chỉ thị bắt buộc là phải
tiến hành cuộc cải cách ruộng đất. Hồ chí Minh thi hành
lệnh của hai quan thầy kính yếu và cuộc cải cách ruộng
đất long trời lở đất được tiến hành, giết hại cả
trăm ngàn người dân Việt vô tội từ tháng 12/1953 đến tháng
7/1956. Vào giai đoạn cuối của cuộc cải cách thì có sự
cố nhân dân nổi loạn ở Quỳnh Lưu , Nghệ Tĩnh để chống
lại. Sau dó mới có trò hề khóc lóc xin lỗi của Hồ chí
Minh, Ðại tướng Võ nguyên Giáp ra sân vận động Hàng Ðẫy
đọc bài xin lỗi nhân dân, Hồ chí Minh đưa Giáp ra đọc
lời xin lỗi với dụng ý là lấy cái hào quang chiến thắng
Ðiện Biên Phủ để vuốt ve sự phẫn nộ đang dâng trào
của toàn dân vì sự giết chóc kinh hoàng . Nước Việt Nam
từ thời lập quốc chưa có thời kỳ nào tàn bạo, độc
ác như thời kỳ này. Với cương vị chủ tịch nước, chắc
chắn bàn tay Hồ chí Minh có nhuốm máu nạn nhân cải cách
ruộng đất. Sau này người ta còn tìm được trong thư khố
Nga lá thư bằng tiếng Nga Hồ chí Minh gửi cho Stalin báo cáo
về tình hình cải cách ruộng đất. Trường Chinh là tổng
bí thư trong thời kỳ cải cách ruộng đất và cũng có bàn
tay nhuốm máu nạn nhân cải cách. Trường Chinh bị hạ bệ
sau cải cách ruộng đất nhưng sau đó được bổ làm chủ
tịch quốc hội một thời gian dài. Sau khi Tổng bí thư Lê
Duẩn qua đời, Trường Chinh lên làm Tổng bí thư dự khuyết
một thời gian và sau đó bị Lê đức Thọ cho người đến
nhà giết chết vì ghen tức và tranh giành quyền lực. ( theo
sự ghi nhận của nhà văn Vũ thư Hiên trong hồi ký " Ðêm
giữa ban ngày" ). Trường Chinh cũng đã chết một cái chết
đau đớn, thảm khốc y như những nạn nhân cải cách ruộng
đất do ông lãnh nhiệm vụ thi hành. Âu đó là định luật
nhân quả, vay trả của trời đất !
Chuyện Hồ chí Minh khóc lóc xin
lỗi có thể vì hối hận đã giết nhiều người vô tội
mà cũng có thể là một biện pháp vuốt ve của một nhà chính
trị gian hùng bá đạo để làm lắng dịu sự phẫn nộ đang
trào dâng của đồng bào có thể đưa đến sự bất ổn chính
trị không hay cho chế độ cầm quyền.
Chuyện Sơn Tùng trình bày trong bài
viếr mô tả Hồ chí Minh miễn cuỡng không muốn làm cải
cách là chuyện bênh vực cho Hồ chí Minh một cách không bằng
chứng. Nếu có lòng thương dân sâu xa thì không bao giờ Hồ
chí Minh nghe lời hai tên đồ tể ngoại bang Mao và Stalin để
tiến hành cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu có một không
hai trong lịch sử giết hại hàng trăm ngàn đồng bào ruột
thịt của mình. Con người Hồ chí Minh thực sự không thánh
thiện , nhân ái như Sơn Tùng cảm nhận. Sơn Tùng rõ ràng
không thành công trong chuyện bênh vực tội ác của Hồ chí
Minh trong vụ cải cách ruộng đất. Sơn Tùng thuộc loại viết
lách " phong thánh " cho Hồ chí Minh. Chuyện gì tốt đẹp của
Hồ chí Minh thì ca tụng tối đa, chuyện gì độc ác, xấu
xa không hay thì tìm đủ lý do bào chữa bao biện cho khuyết
điểm cuả " ông thánh " Hồ chí Minh, Sơn Tùng không có được
phong cách viết sử của những sử gia ở những nuớc tự
do" , họ phê phán ưu khuyết điểm của nhân vật lịch sử
một cách công minh và công bằng, không thiên vị.
Chuyện hai bài thơ Hồ chí Minh làm
lúc 5 tuổi mà Sơn Tùng lấy được từ anh của Hồ chí Minh
cũng là một cách " thần thánh hoá" con người siêu đẳng
Hồ chí Minh mà thôi.
Giết người rồi vuốt ve, xin lỗi
vốn là ngón nghề sở trường của người Cộng sản mà Hồ
chí Minh là bậc tổ sư về ngón nghề tàn nhẫn, độc ác
này.
Sơn Tùng nói đến cái đau của
Hồ chí Minh khi cố vấn Tàu đem bắn bà địa chủ Nguyễn
thị Năm, vốn là một ân nhân của kháng chiến. Với cương
vị là chủ tịch Ðảng và chủ tịch nước nhưng hầu như
Hồ chí Minh không có quyền gì cả. Ông không đồng ý bắn
bà Nguyễn thị Năm nhưng ông không có biện pháp nào ngăn
chận cả cho đến khi bà Nguyễn thị Năm bị hành hình. Thế
thì bao nhiêu xuơng máu dân đổ ra để giành độc lập nhưng
chẳng thấy độc lập ở đâu dù đã đánh thắng Pháp ở
Ðiện Biên Phủ. . Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà Hồ chí Minh đành ngồi nhìn cố vấn Tàu đem người ân
nhân kháng chiến , con dân nước Việt Nguyễn thị Năm ra bắn
mà không can thiệp được gì sao ? Hồ chí Minh thực sự không
có quyền hay không muốn can thiệp ? Hồ chí Minh đúng là không
phải loại người thần thánh siêu việt, quyền lực tuyệt
đối như nhà văn Sơn Tùng vẫn thêu dệt , tưởng tượng
. Ngay cả chuyện Hồ chí Minh khóc lóc ân hận sau cải cách
ruộng đất cũng chỉ là một huyền thoại vì không ai chứng
minh Hồ khóc ở đâu và khóc lúc nào. Có lẽ guồng máy tuyên
truyền phổ biến huyền thoại khóc này để xoa dịu sự thù
hận đau khổ của các nạn nhân cải cách ruộng đất.
Trí trá, gian ngoan đã trở thành
bản chất của con người gian hùng Hồ chí Minh. Những nỗi
đau của Hồ chí Minh mà Hoàng Tùng và Sơn Tùng kể ra không
biết có thật hay không nữa hay đó chỉ là những thủ đoạn
chính trị của tay ma đầu chính trị quỷ quyệt Hồ chí Minh.
Thật không thể nào biết rõ đâu là nỗi đau thật , đâu
là nỗi đau giả của con người muôn mặt Hồ chí Minh. Ông
là một kịch sĩ đại tài nên khó ai biết rõ con người thật
của ông. Cần có thêm thời gian và nhân chứng và hy vọng
chế độ Cộng sản sẽ sớm sụp đổ ở Việt Nam để có
nhiều sự thật về Hồ chí Minh được phơi bày ra trước
ánh sáng của thế gian.
Nhà văn Sơn Tùng hình như còn sống
ở Việt Nam. Hy vọng Sơn Tùng sẽ còn sống và nhìn thấy
thêm những sự thật phũ phàng khác về Hồ chí Minh chứ Hồ
chí Minh không thánh thiện , siêu việt như ông đã viết và
nói nhiều trong những năm vừa qua.
Los Angeles tháng 4 năm 2010
TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG
TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG
* * *
BUỔI NÓI CHUYỆN CỦA NHÀ VĂN
SƠN TÙNG NGÀY 27/4/ 2001 TẠI TRƯỜNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC ÐÀO
TẠO
... ( đoạn này nghe không rõ )...
Ban chấp hành Trung ương tán thành đều bị bác bỏ. Ðó là
tháng 10- 1930, một hội nghị cán bộ lấy dự thảo luận
cương chính trị của đồng chí Trần Phú làm đường lối
( Hội nghị này chưa thông qua được luận cương). Bác Hồ
bị đẩy lùi vào bên trong. Năm 1935, Ðại hội Ðảng lần
thứ nhất họp tại Ma- Cao, một lần nữa Hà huy Tập là Tổng
bí thư, xoá tư tưởng, xoá đường lối của Nguyễn ái Quốc.
Mãi đến năm 1941, Bác Hồ về nước cho đến năm 1951 , Ðại
hội 2 lại bị cái " thiểu số phục tùng đa số " , lấy
" tư tưởng Mao " vào điều lệ nên đến năm 1951, cụ Hồ
lại bị " khoá " . Bởi vì Hồ chủ tịch chỉ còn là Chủ
tịch ban chấp hành chứ không còn là Chủ tịch Ðảng. Bác
quyết định điều gì cũng còn phải được Ban chấp hành
thông qua.
Quan điểm tư tưởng Hồ chí Minh
được mở ra từ năm 1941 khi cụ về Pắc Bó, thành lập mặt
trận Việt Minh, làm được cách mạng tháng Tám, tuyên bố
giải tán Ðảng ngày 11- 10 – 1945, giải tán Ðảng Cộng sản
Ðông Dương, sau này thành lập Ðảng Lao Ðộng thì Lào trả
về Lào, Miên trả về Miên, không còn liên bang gì ở chỗ
này. Mỗi dân tộc có quá trình hình thành riêng của nó, còn
viện trợ quốc tế với nhau thì bình đẳng, chứ để nước
lớn trùm lên Lào, Miên là sinh chuyện. Ngay từ lúc đó cụ
Hồ đã nhìn thấy vấn đề như thế, bây giờ nhìn vào tình
hình nào là sắc tộc, nào là tôn giáo. Cụ Hồ không có đặt
vấn đề liên bang. Miên là Miên, Lào là Lào , ta là ta. Ðến
năm 1951, cụ Hồ chỉ còn là Chủ tịch ban chấp hành. Ví
dụ trong việc Bác ký Hiệp Ðịnh sơ bộ 6- 3- 1946 không cần
triệu tập ban chấp hành, Bác quyết định ký. Lúc đó Bác
chỉ sửa đổi hai chữ . Một bên , Bác là " Việt Nam độc
lập " , một bên Sainteny ( là đại diện Cộng Hòa Pháp ) là
" Việt Nam tự trị " . Cuối cùng nửa đêm mùng 5 tháng 3 Bác
đánh thứ bí thư là ông Vũ đình Huỳnh dậy, bảo là đã
tìm được lối thoát, đi báo ông Hoàng minh Giám chuẩn bị
để ký. Bác chọn được một chữ mà hai bên đều chấp
nhận được, đó là " nước Việt Nam tự do " . Pháp rất
sợ chữ " độc lập " vì cả Châu Phi họ sẽ đòi độc lập,
cho nên nó chỉ muốn " Việt Nam tự trị " thôi. Bác bảo tự
trị là không được , độc lập thì Pháp không chịu nên
chọn " nước Việt Nam tự do " ( có chính phủ riêng, có quân
đội riêng, có ngoại giao riêng, có tài chính riêng) nhưng
tên nước là " Việt Nam tư do ". Thế là Sainteny ký ngay ngày
6 tháng 3 năm 1946. Trước tình hình ấy mà chờ triệu tập
Ban chấp hành để quyết định thì chết, bao giờ mới triệu
tập kịp, mỗi người một nơi.
Cho đến năm 1951 đưa " tư tuởng
Mao " vào điều lệ, ghi là " Học thuyết Mác – Lênin, chiến
lược Stalin, tư tưởng Mao trạch Ðông, tác phong Hồ chí Minh"
thì Bác Hồ nói,:
" Thôi, các ông ấy là đủ rồi,
Mác, Lênin, Stalin, Mao trạch Ðông là đủ rồi, còn cái tác
phong " Hồ chí Minh" thì miễn cho."
Chả lẽ lúc đó Bác lại nói, "
Tôi không có tư tưởng à" . Lúc đó cũng chưa có nói đạo
đức, mà chỉ nói Bác là " tác phong cần kiệm liêm chính",
giản dị thế thôi, chứ Bác không có lý luận.
Ðiều lệ ghi , " Thiểu số phục
tùng đa số " . Bác Hồ ra họp ban chấp hành thì suốt đời
bao giờ cũng là " thiểu số " , mà thiểu số phải phục tùng
đa số. Ðó là ‘" cái khoá " . Vậy là Bác Hồ chỉ được
làm những cái mà Ban chấp hành chủ trương, chứ Bác không
có chủ trương nữa. Về cải cách ruộng đất thì Bác Hồ
không chấp nhận cái cải cách ruộng đất kiểu này, mà Bác
đã cho ra Sắc lệnh giảm tô, giảm tức 25% từ năm 1949. Tất
cả các đồng chí lúc đó lòng dạ ai cũng yêu quý Bác Hồ,
nhưng lại tôn trọng ông Mao là " nhà lý luận Trung Quốc "
, là cái mẫu của châu Á đem bê vào Ðảng như thế, và phải
làm " thổ cải " . Bác Hồ không tán thành cải cách ruộng
đất, Bác chỉ " trưng thu, trưng mua, hiến điền " chứ không
chủ trương đấu tố. Lúc đó mấy đồng chí trong bộ chính
trị, đặc biệt là đồng chí Trường Chinh( tấm lòng đồng
chí trong sáng, là người có nhân cách lớn, phải nói thế
) nhưng quan điểm của đồng chí Trường Chinh là " Không phát
động nhân dân thì nông dân chịu ơn địa chủ suốt đời,
phải cho nông dân đấu tố để nông dân vùng lên" , Khi ra
biểu quyết thì Bác Hồ chỉ có 3 phiếu, nhưng cũng là ‘
thiểu số " . Cụ Vũ đình Huỳnh kiên quyết bảo vệ quan
điểm của Bác là hiến điền, trưng thu, trưng mua ruộng đất
chia cho nông dân.
Xin nói về một bài của một đồng
chí ký tên là " HT " ( Hoàng Tùng ) viết về những nỗi đau
của Hồ Chủ Tịch " , hiện nay lưu hanh ở Hà nội cách đây
mấy tháng. Ðầu bài ông đề là " 10 nỗi đau của Hồ Chủ
Tịch " nhưng trong bài đó ông Hoàng Tùng dấu đi 2 cái đau,
chỉ viết 8 cái thôi. Ông Hoàng Tùng là trong Ban bí thư trung
ương Ðảng, là nhà lý luận , là trưởng ban tuyên huấn,
là Tổng biên tập báo Nhân Dân lâu nhất, chủ tịch hội
nhà báo. Có một thời ông cũng lầm rằng anh Ba Duẩn mới
là nhà lý luận, còn Bác Hồ chỉ là yêu nước thôi. Cho đến
bây giờ ông mới tỉnh ra. Trước đây ông viết cuốn " Từ
tư duy văn hoá truyền thống đến tư tưởng Hồ chí Minh".
In xong thì bị tịch thu, bị đốt hết dù không có tuyên bố
giải thích gì cả. Anh Hoàng Tùng có đem đến cho tôi một
cuốn. Anh nói, " Sách của tôi bị đốt, sách của anh tái
bản lần thứ 8 là may đó. Khi tôi ra cuốn này thì bị thu
mất rồi, còn giữ được một cuốn đem cho ông ." Ông là
người hiểu biết như thế, lý luận như thế và một thời
ông cũng là ghê gớm lắm, vậy mà có lúc ông nói,:
" Thôi, cắt cái mũ " phớt " đi
được rồi( tức ông Giáp đứng trước hàng quân đội cái
mũ phớt).
Có thời ông chỉ thị các báo không
được đăng ảnh Ðại tướng Võ nguyên Giáp, vì " trên "
chỉ thị như thế , cho nên ông nói " cắt cái mũ phớt đi
". Có lúc ông cũng lầm, nhưng lúc tỉnh ngộ ra, thấy được
sự thật thì ông kể ra 10 nỗi đau của cụ Hồ, nhưng chỉ
viết có 8 cái, còn 2 cái không thấy đưa ra. Dân ta thì không
biết, nay ông kể ra thì ông cũng ngoài 80 tuổi rồi. Ông nào
cũng viết để lại, không in được thì cũng để lại cho
các nhà nghiên cứu lịch sử sau này làm tư liệu nghiên cứu
về những sự thật được nói ra từ trong tim người ta.
Trong bài viết của ông Vũ Kỳ mà
ta đọc báo ta không để ý ông viết kín đáo để đăng báo
Văn Nghệ, báo Tiền phong, Báo Nghệ An số tết 1998. Hồi đó
ông chủ trương đăng trên ba tờ báo đó. Nội dung bài báo
là : Năm 1967, Bộ chính trị mới Bác Hồ đang chữa bệnh
ở Trung Quốc về để thông qua cuộc tổng tiến công 1968.
Khi họp lần thứ nhất Bác đã không đồng ý chủ trương
tổng tiến công nổi dậy. Bác chỉ đồng ý tập kích chiến
lược rồi rút ra ngay. Ðại tướng Võ nguyên Giáp cũng chủ
trương như vậy, nhưng vì thiểu số nên đành đi chữa bệnh
ở Hungary. Nhưng sắp đến tết Mậu Thân rồi nên phải thông
qua chủ trương đó để đi vào cái tết nên phải mới Bác
về.
Ông Vũ Kỳ viết bài báo như sau:
Trên máy bay chỉ có Bác, ông Vũ
Kỳ và người lái chuyên cơ của Bác từ Trung Quốc về .
Lúc đó đã báo cho bộ đội phòng không từ giờ này... đến
giờ này .. trên bầu trời ta từ hướng này..phương vị này
... tuyệt đối là không nổ súng. Thời đó là đang chiến
tranh, vào giờ đó xuất hiện máy bay của ta. Khi máy bay về
tới vùng trời Hà nội, sân bay Nội Bài khi đó là sân bay
quân sự nên máy bay xuống sân bay Gia Lâm. Người lái báo
cáo với anh Vũ Kỳ ngồi bên cạnh, Bác ngồi sau hút thuốc.
- Thưa anh, tín hiệu đường băng lệch 15 độ, bây giờ làm sao đây ạ?
- Quan sát lại đi –Ông Vũ Kỳ nói
- Em là người lái mà, lái máy bay cho Bác thì em nhìn sai sao được - Người lái nói.
- An toàn rồi , anh ơi , mừng quá - Nói to lắm nhưng Bác làm như không nghe thấy.
Ra khỏi máy bay ( ông Vũ Kỳ tả) thì
thấy đồng chí Lê Duẩn, Lê đức Thọ ra đón, một lúc sau
có Thủ tướng Phạm văn Ðồng. Chỉ có thế thôi, không còn
ai đón Bác cả.
Về tới nhà thì tết rồi, việc
đầu tiên Bác gọi điện thoại sang Bộ quốc phòng hỏi:
- Tục lệ người Việt Nam ta ngày tết hay nhớ nhà, thế thì các đồng chí ở nhà đã gửi quà chúc tết cho đồng chí Võ nguyên Giáp đang chữa bệnh ở Hungary chưa ?
Anh em mình thường trao đổi tin này
xem đã đưa ra được chưa ? Tôi cho rằng đưa được, đến
năm 98 rồi, nên đưa ra tin này vì sắp hết thế kỷ 20 rồi,
ai hiểu thế nào thì hiểu, còn chuyện đưa ra thì đừng bình
gì cả. Ðừng đưa đăng một tờ báo mà phải đưa tin trên
ba tờ báo, vì một tờ sẽ bị " đánh chết " ngay. Ðúng thế
! Khi cả ba tờ báo đăng bài đó, thì các ông trong Bộ chính
trị mời ông Vũ Kỳ lên hỏi.
Anh Kỳ nói, " Tôi chỉ kể chuyện
đi của Bác trong hồi ký của tôi viết về Bác.
Thế rồi " họ " cũng thôi. Cái
khung cảnh đất nước ta mấy năm nay là thế đấy.
Bác Hồ là người cô đơn, đây
là cô đơn trên quan điểm. Tôi hiện nay đang viết cuốn "
Bác Hồ là người cô đơn nhưng không cô độc" Năm 2001 tôi
viết cuốn này, chủ yếu là nói quan điểm của Bác bị "
cô đơn " từ Quốc tế cho đến khi Bác qua đời, quan điểm
của Bác luôn ở phe thiểu số. Diễn ra trong tình hình hiện
nay là vấn đề dân tộc , vấn đề tôn giáo. Quan điểm của
Hồ chí Minh từ đầu chí cuối là vấn đề dân tộc, chứ
không phải là đấu tranh giai cấp , chuyên chính vô sản. Cái
" thiểu số " ấy đi suốt cuộc đời Bác . Ðến được ngày
hôm nay quan điểm đó của Bác càng ngày càng rõ ra là rất
mừng. Ðiều đó nói rằng mọi khoa học nó ra đời không
bao giờ dễ dàng dù là khoa học tự nhiên hay khoa học xã
hội..( Ðoạn này nghe không rõ). Nói ra như thế để thấy
Bác Hồ ngày càng sáng ra, sáng cả con người cùng quá trình
Bác cô đơn. Nhưng lúc nào " người ta " thấy " lợi " thì
" người ta " nói là của Bác Hồ chứ " người ta " không làm
theo Bác Hồ.
Khi Tổng thống Putin đến thăm khu
di tích nhà ở của Bác Hồ, mấy ông phụ trách đưa lên một
chồng sách Mác- Lênin đặt trên giường của Bác, nói trước
khi qua đời Bác đọc những sách này. Người ta tưởng làm
như thế là trọng Bác Hồ và để ông bạn Nga này quý Bác
Hồ. Không phải đâu, dòng di sản Bác Hồ chất Mác- Lênin
có mức độ thôi. Người thường nói những câu của dân
gian, của dân tộc, cho nên có người bảo Bác Hồ không có
lý luận. Bác toàn nói ca dao, tục ngữ, trích Kiều, trích
Chinh phụ ngâm, trích những câu của Mạnh tử, Khổng tử,
Lão tử mà còn giá trị với thời đại. Trích câu của Phật,
của Giêsu chứ không nói Mác. Khi ông Putin đến thăm nơi Bác
ở sinh thời thì người ta đem một chồng sách để đầu
giường Bác như thế , nhưng ông Putin ghi sổ lưu niệm lại
không nói gì về chuyện này mà nói:
_ Hồ chí Minh là người thầy của
dân tộc Việt Nam ( mà không nói là chủ tịch nước). Người
đã để lại trong trí nhớ nhân loại nên rất vinh dự cho
tôi hôm nay được làm quen với cuộc sống của người.
Tại sao ông Putin lại nói " làm
quen " với cuộc sống của người ? Vì trên vị trí tổng
thống này nhìn tấm gương của Hồ chí Minh lên đỉnh cao
như vậy mà sống không xa cách dân, sống giản dị. Mà chính
ông nói là khôi phục lại một nước Nga, một nước Nga yêu
nước, truyền thống văn hoá. Ta nên nhớ rằng Liên xô ngày
xưa những người ấy không phải không có tấm lòng, nhưng
đem xoá sạch đi thì đó là người không có đầu óc. Ðáng
lẽ ra làm cách khác, ta đưa cách khác, sách đích thực Bác
đọc trước khi lâm chung, đây lại làm một chồng sách "
toàn Lênin" . Cụ nằm trên giường bệnh ốm thì làm sao đọc
được các sách đó. Nếu để một cuốn Kiều thì không ai
cãi được, hoặc để một tập thơ của Puskin, sách của
L. Tônxtoi, của Victor Hugo, Séch- pia, vì Bác thuộc thơ Puskin,
và thuộc thơ tiếng Nga. Bác có lúc nói bây giờ còn thuộc
Victor Hugo, tôi là học trò nhỏ của Lep Tôn.. Bác Hồ của
chúng ta ngày nay bị nhiễu nhiều thứ như thế , muốn nhận
ra Bác thì phải nghiên cứu lại các sự thực của lịch sử.
Trước đây tôi đã nói cái nôi sinh thành của Bác, hôm nay
tôi nói một số giai đoạn, một số sự kiện có ảnh hưởng
lớn đến Bác mà không nói có hệ thống vì thời gian cũng
không có nhiều.
Ta đọc sách, đọc lịch sử, ta
biết Bác Hồ sinh ở làng Chùa, quê ở làng Sen, sau vào Huế
học. Tôi nghiên cưú tôi thấy thế này: nếu Bác Hồ không
đi vào Huế từ thuở thiếu thời thì con người ấy cũng
bị hạn chế , hạn chế về mặt văn hoá cội nguồn và thanh
lịch ở đất kinh đô.
Huế là trung tâm văn hoá của cả
nước ta vào thế kỷ 19, Bác Hồ vào Huế cuối thế kỷ 19,
lúc đó Huế là trung tâm của cả nước. Ở Nam bộ cụ Phan
thanh Giản đi thi phải ra Huế, còn khúc ruột miền Trung từ
Bình Thuận trở ra đến Quảng Nam, thi Hương là phải ra Huế.
Ðầu thế kỷ 20 mới có trường thi Hương ở Bình Ðịnh.
Ở Bắc thì Lạng Sơn trở vào cũng phải vào Huế để thi
Hội. Diện mạo các nhà trí thức, các nhân sĩ ( xin nói thực
có một thời kỳ cực đoan, đã nói " quan " là phong kiến,
quan là xấu. Ở Chí linh tôi nói thế mà suýt bị bắt).
Nói các quan " xấu " như thế sao
lại truyền thống nối dõi văn hoá Việt Nam mấy nghìn năm
được! ? Cố nông thì làm sao giữ được văn hoá vật chất
của dân tộc? Chúng ta vô cùng quý trọng cố nông, người
thợ nhưng nói đến diện mạo văn hoá là phải nói đến
trí thức. Các gia đình khoa bảng, gia đình nhà quan truyền
từ đời này qua đời khác . Các ông quan tham nhũng thì cá
biệt thôi. Tất cả tham nhũng thì còn gì là văn hoá Việt
Nam, bản lĩnh, bản sắc Việt Nam. Không có Nguyễn Trãi thì
ta làm gì có văn hoá thế kỷ 17, thế kỷ 18 sang thế kỷ
19 cũng vậy. Ở nhà cái ông giàu nhất nước , mà xưa nay
chưa có nhà nào mà cha con đồng triều là tể tướng như
nhà Nguyễn Du ( thân sinh Nguyễn Du là Xuân quận công Nguyễn
Nghiễm , làm tể tướng thời Lê mạt. Anh Nguyễn Du là Toản
quận công Nguyễn Khản, làm tới Tham tụng, Thái bảo trong
triều ). . Bác Hồ của chúng ta chính là con người nối tiếp
những cái văn hoá cội nguồn này chứ.
Thế kỷ 19, Bác Hồ sinh ra năm 1891,
tôi nói đây là nói nghiên cưú từ gốc. Bây giờ nói Bác
sinh 1890, nhưng tôi nghiên cứu tử vi của Bác thì Bác sinh
năm 1891. Bác đi làm cách mạng, Bác khai năm sinh là 1890, nhiều
người chúng ta khi đi học, đi hoạt động cũng khai bớt hoặc
thêm tuổi như thế. Bác sinh năm 1891, năm 1895 Bác vào Huế,
tuổi ta là 5 tuổi, tuổi bắt đầu có trí nhớ, tuổi mà
người ta dễ nhớ nhất là tuổi này, tuổi lên 5 đến lên
mười. Bác 5 tuổi đi theo cha mẹ vào Huế. ông Nguyễn sinh
Khiêm có đưa cho tôi cuốn " Tất Ðạt tự ngôn " là vào tháng
6 năm 1950. Sau đó ít tháng thì cụ qua đời. Trong " Tất Ðạt
tự ngôn " thì cụ có ghi ba bài thơ về thời niên thiếu của
em trai mình, tức Bác Hồ.
Bài thơ này cũng hấp dẫn tôi.
Thời đó tôi là một anh thanh niên học sinh mới đi hoạt
động Ðoàn thanh niên cứu quốc ( chưa phải là Ðoàn thanh
niên Hồ chí Minh ). Cụ đưa cho tôi đọc bài thơ hay quá đi,
thấy tôi ngỡ ngàng không tin thì cụ nói thế này:
_ Cháu ạ, bây giờ nhớ gì ghi nấy.
Bọn Tây nó " thuốc" bác bằng rượu khi bác đi tù. Bác vào
nhà tù năm 1914, sau bác chống lại thì nó đày vào cực Nam
Trung Bộ. Bác vốn không phải là người nghiện rượu, nhưng
sau này thì không có rượu là bác không chịu được và trí
nhớ của bác mất dần đi. Bạn học của bác đi thi vào năm
1904 đỗ cử nhân, đó là ông Ðào như Tuyên, con trai cụ Ðào
Tấn. Anh em bác học vào loại giỏi nhưng không đi thi. Bây
giờ bác không còn được như xưa, nhớ cái gì thì bác ghi
vào đây, chứ không có hệ thống. Cháu là người có tấm
lòng muốn tìm hiểu gia cảnh nhà bác thì bác đưa cho cháu
cuốn ghi chép này, thấy có ích thì cháu dùng, khai thác, không
dùng nữa thì đốt, đừng giao...cho ai, vì trong này bác ghi
nhiều cái không tiện nói ra. Trong đó bác có ghi họ Hồ là
thế nào..về họ Nguyễn là thế nào..vì ngày chú Thành mở
nước độc lập thì là Hồ chí Minh, chứ không lấy họ Nguyễn
là vì sao ? Trong cuốn này cũng nêu ra bài thơ đó là: Trên
đèo Ngang hai bài thơ 1895, còn bài nữa là " Ba ông phỗng "
năm 1903.
Cụ Khiêm kể lại, " Hôm đó cả
nhà bác chuẩn bị đi vào Huế, bác ngủ với bà ngoại, em
Thành ngủ với mẹ, còn chị Thanh thì ngủ với dì An. Ðêm
đêm bác thấy bà khóc, ngày bà vui, đêm nào cũng nghe thấy
bà khóc. Sáng hôm sau thấy bà đi xin mo cau cả làng ( xưa dân
ta lấy mo cau làm gàu múc nước). Bác với chú Thành lấy mo
cau cắt thành cái thuyền đem thả ao trước nhà, bà không
cho, bà bảo đây là dép của các cháu, cha mẹ cháu để đi
vào kinh đô, thời đó chưa có nhiều giày dép như bây giờ.
Bác thấy bà ngoại đo chân cha mẹ, đo chân cho 2 anh em bác.
( Bây giờ mới thấy các cụ ta
ngày ta ngày xưa đi tìm cái chữ ở kinh đô Huế, đi trên
những phương tiện như vậy, không dép săm bô như ta bây giờ,
ngày ấy có đôi dép da bò đã quý rồi )
Bác hỏi : " Mẹ, tại sao đêm bà
khóc ?"
Về sau mới biết tâm sự bà thế
này, lúc đầu cha mẹ bác tưởng bà khóc vì bán ruộng cho
con vào kinh đô học, bán mất 5 sào. Bà ngoại đêm nằm buồn
mà khóc, không phải tiếc vì bán 5 sào ruộng cho con rễ vào
kinh đô học , vì chữ nó sẽ đẻ ra ruộng, chứ ruộng không
đẻ ra chữ . Còn cái ruộng bán đi đánh bạc thì mới mất,
nên không có gì mà khóc cả . Khóc là vì bà không có con trai.
Ông tú thì mất rồi, con rễ coi như con trai, con gái là chỗ
dựa, bây giờ cả nhà kéo đi vào Huế, bà ở nhà cô đơn
một mình, hai cháu trai và cháu gái cũng đi. Vì thế nên cha
mẹ bác chỉ cho hai anh em đi vào Huế, còn chị Thanh phải
ở lại quê với bà, để sớm hôm có bà có cháu.
Như vậy cha mẹ bác quyết định
vào Huế không phải là để làm ăn sinh sống để trở thành
người Huế đâu, mà muốn cho anh em bác vào Huế để học.
Cha bác vào đó để làm bạn với các nhà khoa bảng ở kinh
đô. Các ông qua thời đó đều là tiến sĩ, là hoàng giáp
, là đình nguyên, ít ra là cử nhân. Ðúng là cha bác vào trong
Huế đã tạo ra được một cái " chiếu văn ", các ông quan
trong triều thường đến đó bình văn, bình thơ cùng với
các cụ đồ ở kinh đô.
Ông Khiêm kể tiếp, " Khi đi dép
mo cau, một lúc là rách phải thay cái khác, còn chú Thành thì
được cha cõng trên lưng. Trên cao chú quan sát hỏi hết chuyện
này đến chuyện khác: núi này là núi gì mà cao thế? Bà ngoại
hay ví " trèo truông mới biết truông cao " là nghĩa nó ra làm
sao? Có đuợc bao nhiêu nước để gọi là biển? Chú ấy hỏi
nhiều chuyện. Còn bác thì chân nó đau, đi mấy ngày liền,
có khi bác khóc. Mẹ bác lại động viên, " Em nó vui vẻ hỏi
chuyện này chuyện khác. Con là anh mà chẳng vui chi cả " Chú
Thành đuợc cha cõng, đến đường bằng thì chạy tung tăng,
hỏi nhiều thứ, còn lạ mắt cho nên mẹ bác nói em thông
minh hơn anh.
Rồi cụ Khiêm nói, " Mà chú ấy
thông minh hơn bác thật "
Lúc đến chân đèo Ngang, đường
lúc đó có đoạn sát với biển, không như đường ô tô bây
giờ. Ðến chân đèo Ngang, có bãi cỏ rất bằng, mẹ bác
mới đặt gánh xuống, cha bác xếp ô lại bảo : chỗ này
phẳng phiu, nghĩ lại đây ăn cơm nắm, để rồi leo đèo.
Bác ngồi xuống ôm chân rộp . Còn chú Thành thì nhảy chơi,
mới hỏi cha :
_ Thưa cha, cái gì ở trên kia mà
đỏ, lại ngoằn ngoèo như rưá?
Cha bác nói , " Ðó là con đường
mòn vắt qua đèo, tí nữa ta phải đi leo trèo lên đó, lên
cái đường mòn đó.
Thế rồi chú Thành mới ứng khẩu
luôn một bài thơ. Sau này bác ghi lại trong cuốn sách " Tất
Ðạt tự ngôn " này.
" Núi cõng con đường mòn
Cha thì cõng theo con
Núi nằm ì một chỗ
Cha đi cúi lom khom
Ðường bám lì lưng núi
Con tập chạy lon ton
Cha siêng hơn hòn núi
Con đường lười hơn con "
Cha thì cõng theo con
Núi nằm ì một chỗ
Cha đi cúi lom khom
Ðường bám lì lưng núi
Con tập chạy lon ton
Cha siêng hơn hòn núi
Con đường lười hơn con "
Nói về văn thơ, tôi là anh thanh
niên nam 1950 tiếp xúc với bài thơ này trong cuốn " Tất Ðạt
tự ngôn " của người anh ruột Bác Hồ viết lúc 5 tuổi thì
tôi hơi sững sờ.
Ông Khiêm nói tiếp, " Lúc đó cha
bác mới mở cái ví vải lấy lá số tử vi của con ra xem,
bác mới biết cha đã lấy tử vi cho các con. Cha bác nói với
mẹ, " Với thiên tư này, thằng bé sẽ khó nuôi, có lẽ, quan
Ðào Tấn với ông ngoại đã nói như thế không nhầm."
Rồi bác Khiêm lại nói, , " Lúc
đó bác chẳng có bụng dạ gì, vì chân phỏng rộp đau. Ăn
cơm nắm uống nước đựng trong quả bầu khô xong, cả nhà
lại leo núi, chú Thành lại được cha cõng trên lưng. Anh em
bác ở làng Sen chỉ biết ao, biết sông, biết hồ, biết núi,
chứ biển chưa thấy. Hôm đó, đến đỉnh đèo thì dừng
lại nghỉ, bác lại ngồi ôm chân. Chú Thành lại chạy nhảy
rồi nói:
_ Cha ơi, cái ao ở đây sao lớn
thế?
Cha bác nói:
_ Không phải ao đâu con, đó là
biển đấy chứ
Lúc đó, đứng trên đèo Ngang là
nhìn thấy biển, ở đây thì xuống là đến Ròn , tức Cảnh
Dương của Quảng Bình. Lần đầu tiên thấy biển lại cứ
gọi là ao, cha bác phải nói là biển. Chú ấy lại nói:
_ Cha ơi, tại sao bò nó lại lội
trên biển?
Cha bác cười bảo:
_Không phải bò đâu con ơi, đó
là cánh buồm, thuyền nó chạy trên biển đó.
Chú ấy ứng khẩu đọc bài thơ:
" Biển là ao lớn
Thuyển là con bò
Bò ăn gió no
Lội trên mặt nước
Em nhìn thấy trước
Anh trông thấy sau
Ta lớn mau mau
Vượt qua ao lớn"
Thuyển là con bò
Bò ăn gió no
Lội trên mặt nước
Em nhìn thấy trước
Anh trông thấy sau
Ta lớn mau mau
Vượt qua ao lớn"
Cụ Khiêm nói một câu tâm sự,
mà cũng là tâm trạng, ‘ Cháu ạ, con ngươì ta có số mệnh.
Số mệnh có khi nó xuất ra thành ý. Cái thông thường , cái
lẽ thường anh là phải nhìn thấy trước vì anh ra đời,
khôn hơn. Nhưng đây lại nói là, " Em nhìn thấy trước anh,
anh trông thấy sau". Cái khẩu khí đó cũng là cái ứng mệnh.
Bác là anh, bác đau chân, bác không còn nhìn những gì ở xung
quanh, nhưng chú ấy quan sát, chú ấy lại ứng khẩu được
cái đó, " Ta lớn mau mau, vượt qua ao lớn " . Cái khẩu khí
ấy là cái " ứng mệnh " nên suốt cuộc đời chú Thành phải
đi hết nơi này nơi khác, năm châu bốn biển, còn bác chả
thấy gì, bác cứ yên vị, bác sống trong xó quê như thế
này! ..
Cụ Khiêm nói với tôi điều đó
năm 1950, sau này tôi công bố hai bài thơ ấy trên báo Văn
Nghệ số tết năm 1980, lúc đó là chuẩn bị.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét