Đối
với phần lớn người từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 thì sự kiện ngày
01 tháng 11 năm 1963 mãi mãi là một cơn ác mộng, Nhất là bản tin ngắn
được phát đi vào khoảng 10 giờ sáng ngày 02 tháng 11, loan báo về cái
chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu đã thực sự làm
suy sụp tinh thần của hầu hết đồng bào di cư, nhất là đồng bào công
giáo. Đối với hầu hết người Bắc di dân thì cái chết của Tổng Thống Ngô
Đình Diệm và sự cáo chung của nền Đệ Nhất Cộng Hòa là một hồi chuông báo
tử cho nền cộng hòa ở miền Nam. Những giáo dân di cư, trong đó có cả
ông tôi, đã mường tượng một ngày quân đội cộng sản tiến vào Sài gòn, và
một cuộc “di cư” nữa để lánh nạn
cộng sản sẽ diễn ra sau đó.
Ngô Tổng Thống Muôn Năm
Suốt những
ngày tiếp theo của tháng 11 kinh hoàng đó, gia đình ông bà chúng tôi
cùng tất cả giáo dân, giành hầu hết thời gian đến nhà xứ để cầu nguyện
cho Tổng Thống và bào đệ Ngô Đình Nhu, những đại ân nhân đã giúp cho gia
đình chúng tôi cùng hơn một triệu đồng bào khác thoát được hiểm họa
cộng sản ở miền Bắc, bởi sau hai năm miền Bắc cải cách ruộng đất, với
chính sách tố khổ, cộng sản đã mang đến bao nỗi tang thương và kinh
hoàng cho những người dân xứ Bắc.
Chắc sẽ có
nhiều người đặt vấn đề rằng với thời gian 300 ngày để di cư, thì cứ tùy
nghi ra đi chứ cần gì phải có ai giúp đở? Sự thật hoàn toàn không đúng
như vậy, vì chính quyền của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức chính quyền
cộng sản của ông Hồ Chí Minh luôn tìm mọi cách để ngăn chặn người ta di
cư sang xứ tự do ở miền Nam, bằng nhiều hình thức đe dọa, bưng bít thông
tin, kể cả khủng bố tinh thần và tuyên truyền xuyên tạc chính sách di
cư cũng như xuyên tạc về chế độ Cộng Hòa để giảm thiểu số người di cư
vào vùng tự do đến mức thấp nhất. Nhân ngày hiệp kỵ lần thứ 49 của Cố
Tổng Thống Ngô Đình Diệm, 01 tháng 11 năm 2012, như một nén hương lòng,
để ghi tạc công đức của Cụ
Ngô, chúng tôi xin thuật lại hành trình lánh nạn cộng sản lần thứ nhất
của gia đình chúng tôi, cũng như của hơn một triệu đồng bào miền Bắc,
theo nhật ký hành trình của ông tôi, nguyên là một Chánh Tổng ở Văn
Giang, Hải Hưng.
Sau khi quân
đội pháp đầu hàng ở Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết giữa
chính phủ của Hồ Chí Minh và chính phủ Cộng Hòa Pháp, chia đôi Việt Nam
thành hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Từ vỹ tuyến 17 trở ra
thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức là Cộng Sản Việt Nam. Từ Vĩ tuyến
17 đến Cà Mau thuộc Quốc Gia Việt Nam. Việc đất nước phải bị chia cắt
làm hai miền với hai thể chế chính trị khác nhau là một thảm họa của dân
tộc Việt Nam, mà ít nhất đã một lần xãy ra trong lịch sử của đất nước
khi Trịnh – Nguyễn Phân Tranh kéo dài hơn 100 năm từ 1627 cho đến năm
1789 khi Hoàng Đế Quang Trung kéo đại binh ra Bắc đánh tan 20 vạn quân
Thanh vào khuya tối mùng 5 Tết Kỷ Dậu 1789
mới hoàn toàn chấm dứt 100 năm chiến tranh giữa Chúa Trịnh và Chúa
Nguyễn mang bao nhiêu đau thương tang tóc cho dân Việt giữa hai bờ sông
Gianh. Có một điều khác biệt trong lần chia cắt đất nước lần này là giới
tuyến không còn là sông Gianh mà là sông Bến Hải, và “Họa trung hữu
phúc”, cũng “nhờ” Hồ Chí Minh ký hiệp ước chia cắt đất nước mà ít nhất
là một nữa dân tộc Việt ở bờ nam sông Bến Hải đã không phải chịu sự
thống trị sắt máu của cộng sản ngót 21 năm từ 1954 cho đến 1975.
Trại Tạm Cư Cho Người Bắc Mới Di Cư Vào Nam
Ít nhất cũng
hơn 1 triệu người Bắc chúng tôi cũng tránh được họa cộng sản trong ngần
ấy năm, nhờ vào Điều 14 phần (d) của Hiệp định Geneva cho phép người
dân ở mỗi phía di cư đến phía kia và yêu cầu phía quản lý tạo điều kiện
cho họ di cư trong vòng 300 ngày sau thoả hiệp đình chiến, tức việc di
cư sẽ chấm dứt vào ngày 19 tháng 5 năm 1955. Dân Hà Nội có 80 ngày, Hải
Dương có 100 ngày, còn Hải Phòng, điểm cuối cùng tập trung để di cư có
300 ngày để di cư.
Ngày 4/6/1954,
trước khi Hiệp định Geneve được ký kết 6 tuần, Pháp đã ký một Hiệp định
với Quốc gia Việt Nam, công nhận Quốc gia Việt Nam hoàn toàn độc lập.
Theo đó chính phủ Quốc gia Việt Nam sẽ tự chịu trách nhiệm với những
hiệp định quốc tế được ký bởi Pháp trước đó nhưng có liên quan tới họ,
cũng như không còn bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Pháp ký sau
này.
Ông Trần Văn
Đỗ, trưởng đoàn đại diện của Quốc gia Việt Nam nhất quyết không ký vào
Hiệp định Genève vì không chấp nhận việc chia cắt Việt Nam và đại diện
phái đoàn Quốc Gia Việt Nam ra một tuyên bố riêng:
“... Chính phủ
Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam
long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không
tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu
Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do
hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công
cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở."
Tuy vậy, lời
phản kháng và đề nghị của đại diện Quốc gia Việt nam đã không được Hội
nghị bàn tới. Ngoại trưởng Trần văn Đỗ từ Genève tuyên bố với các báo
chí như sau: "Từ khi đến Genève, phái đoàn không bao giờ được Pháp hỏi
về ý kiến về điều kiện đình chiến, đường phân ranh và thời hạn Tổng
tuyển cử. Tất cả nhưng vấn đề đó đều được thảo luận ngoài Hội nghị,
thành ra phái đoàn Việt Nam không làm thế nào bầy tỏ được quan niệm của
mình".
Tuy lên tiếng
phản đối, nhưng sau khi hiệp định được kí kết, Chính phủ và quân đội
Quốc Gia Việt Nam vẫn cùng quân Pháp tập kết về phía nam vĩ tuyến 17.
Ngày 28 tháng 4 năm 1954, Uỷ Ban Bảo vệ Bắc Việt Nam của Quốc Gia Việt
Nam tìm cách kêu gọi dân chúng di cư vào Nam để lánh nạn cộng sản. Một
kế hoạch di cư được đặt ra và một Uỷ Ban Di Cư được thành lập. Ngày 30
tháng 7 năm 1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm phát biểu cổ vũ dân chúng miền
Bắc di cư vào miền Nam để lánh nạn cộng sản.
Một ngày sau
khi Hiệp định được ký kết, tức ngày 22 Tháng Bảy, Thủ tướng Ngô Đình
Diệm ra lệnh treo cờ rủ toàn Miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để bày tỏ
quan điểm chống đối sự chia đôi đất nước.
Ngày 22 tháng 7
năm 1954, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: "Đấu tranh để
củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng
là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”., và khẳng định: “Trung, Nam,
Bắc đều là bờ cõi của nước ta, nước ta nhất định thống nhất, đồng bào
cả nước nhất định được giải phóng”. Đây là lần đầu tiên, Hồ Chí Minh bày
tỏ lập trường của Quốc Tế Cộng Sản về chiến lược nhuộm đỏ cả Đông
Dương, và quyết tâm dùng bạo lực cách mạng, dùng máu xương của đồng bào
Việt Nam trong một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn để mở rộng quyền
thống trị của Hồ Chí Minh và của chế độ cộng sản trên toàn bộ đất
nước.
Sở dĩ chúng
tôi phải nêu lại những sự việc trên là để quý độc giả cũng như các lãnh
đạo của cộng sản Việt Nam hiện nay thấy được rằng việc chia cắt đất nước
là tội ác của Hồ Chí Minh và Thực dân Pháp, chứ hoàn toàn không có sự
can dự của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam hay của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.
Sau đó, hậu
thân của Quốc gia Việt Nam là Việt Nam Cộng hòa, với sự hậu thuẫn của
Hoa Kỳ đã từ chối tổ chức tuyển cử thống nhất Việt Nam. Năm 1956, Việt
Nam Cộng Hòa được thành lập trên cơ sở Quốc Gia Việt Nam. Tổng thống
Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm tuyên bố: “Chúng tôi không từ chối
nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà bình và
dân chủ" nhưng "nghi ngờ về việc có thể bảo đảm những điều kiện của cuộc
bầu cử tự do ở miền Bắc”. Đây là một nhận định vô cùng sáng suốt của Cố
Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bởi theo thể thức “đảng cứ dân bầu” của cộng
sản, thì chắc chắc toàn thể cử tri miền Bắc buộc phải dồn phiếu cho Hồ
Chí Minh, bởi họ
biết rằng chỉ có làm như thế họ mới mong được yên phận, chứ nếu chọn
lựa theo lương tri của họ, để bầu cử cho chính phủ Quốc Gia Tự Do, thì
chắc chắn họ sẽ bị quy kết là Việt Gian, rồi cả gia đình, họ tộc sẽ bị
đấu tố bị tru diệt. Trong khi đó ở miền Nam tự do, người ta có quyền lựa
chọn ngay cả việc chống đối lại chính phủ mà không bao giờ sợ phải bị
trả thù, không bao giờ bị đấu tố, thì thiếu gì những thành phần thân
cộng hoặc những kẻ phá thối, sẳn sàng bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh để thủ
tiêu nền Cộng Hòa còn non trẻ.
Trở lại với
việc di cư vào Nam, gia đình chúng tôi cũng như hầu hết đồng bào Bắc
phần vào thời gian đó, những vụ đấu tố trong cải cách ruộng đất bắt đầu
từ năm 1953 là một ác mộng kinh hoàng, và cả những vụ khủng bố, thanh
trừng của cộng sản đối với những sỹ phu yêu nước, những chính khách
thuộc các đảng phái khác, luôn luôn là một nỗi ám ảnh về những cái chết
oan nghiệt hãi hùng, cho nên ai cũng mong muốn được thoát khỏi ách thống
trị của cộng sản, ai ai cũng muốn được vào miền Nam tự do, nhưng khốn
nạn cho nhiều người Bắc chúng tôi, cơm chưa đủ ăn, áo chưa đủ mặc thì
làm sao có đủ chi phí cho hành trình từ quê nhà về đến Hải Phòng để
xuống tàu vào Nam, dù chuyến hành trình
từ bắc vào Nam là hoàn toàn miễn phí. Cũng như vào những năm cao trào
vượt biên đi tìm tự do sau năm 1975, cả dân tộc Việt Nam đều muốn bỏ
nước ra đi, cả cái cột điện mà đi được thì nó cũng đã đi rồi, nhưng đâu
phải ai cũng có đủ vàng đủ bạc để chi phí cho những chuyến vượt biên đi
tìm tự do đó. Cho nên, chỉ có khoảng hơn một triệu người có đủ điều kiện
để vào Nam trong suốt 300 ngày di cư đó. Bên cạnh cái nghèo khó cái đói
rách đã ngăn chặn người miền Bắc di cư, thì chính sách tuyên truyền,
xuyên tạc và khủng bố của chính quyền cộng sản cũng là một cản trở lớn.
Những truyền đơn, bích chương của Liên Hiệp Quốc in ấn, phát hành để
tuyên truyền, khích lệ và hướng dẫn cho dân chúng về chính sách di cư
đều bị chính quyền
tịch thu, không đến được tay của dân chúng, ngoài ra các cán bộ thôn xã
còn đến từng nhà xuyên tạc chính sách của Liên Hiệp Quốc, cũng như đe
dọa rằng những ai có ý định di cư vào Nam tức là những người có tư tưởng
theo Việt gian, chống lại đảng, chống lại chính phủ của cụ Hồ, sẽ bị
trừng phạt đích đáng! Nhiều gia đình có điều kiện ra đi, nhưng vì những
sự đe dọa đó, họ sợ rằng nếu không đi được mà phải trở về thì chắc chắn
là không còn đường sống với chính quyền cộng sản, mà đành nhắm mắt đưa
chân, quyết định ở lại chung sống với cộng sản.
Do vậy mà phần
lớn những người di cư vào Nam năm 1954 là những người từng là nạn nhân
của cộng sản, từng bị tịch thu tài sản, nhà cửa ruộng vườn, vì bị quy
vào thành phần địa chủ, phú nông hay tư sản, tiểu tư sản phản động ở các
thành phố, là những người hiểu rằng họ không thể nào sống dưới chế độ
cộng sản được mà phải quyết tâm bỏ lại cửa nhà để ra đi. Tuy nhiên,
chính quyền cộng sản lúc bấy giờ vu cáo rằng những người Công giáo Việt
Nam đã bị chính quyền Pháp, Mỹ và thân Mỹ cưỡng bức hay "dụ dỗ di cư".
Cộng sản Bắc Việt từng lu loa rằng “các Linh mục miền Bắc giục giã giáo
dân vào Nam với lời giảng rằng Đức Mẹ Đồng Trinh đã vào Nam nên họ phải
đi theo” Sic.
Đó là lối tuyên truyền xuyên tạc lố bịch và trơ tráo của công sản mà
thôi. Thực tế các Linh mục, các Cha xứ là người hiểu rỏ hơn dân chúng về
chế độ cộng sản, và các vị linh mục cũng là người nắm được đầy đủ thông
tin từ Liên Hiệp Quốc về chính sách di dân, nên đã giảng giải, giúp
giáo dân hiểu đích xác về vấn đề, cũng như khích lệ họ vượt qua sự sợ
hãi mà mạnh dạn lên đường đi về miền tự do đó là lý do tại sao trong số
hơn một triệu người di cư vào Nam thì đã có đến 800.000 người công giáo.
Đây là công lớn của các vị mục tử.
Trong khi đó,
có những bằng chứng cho thấy rằng những tờ bích chương và tờ bướm do Uỷ
hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến in và trao cho hai bên phổ biến cho
dân chúng biết về quyền tự do di tản thì không được chính quyền Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà phân phát. Hơn nữa chính Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình
chiến đã mở cuộc điều tra đơn khiếu nại của chính quyền cộng sản Bắc
Việt của Hồ Chí Minh, khiếu nại về hành động cưỡng bách di cư. Trong số
25.000 người Uỷ hội tiếp xúc, không có ai nhận là họ bị "cưỡng bách di
cư" hay muốn trở về Bắc cả. Thế mới thấy rỏ được sự lường láo tráo trở
của Hồ Chí Minh và cộng sản Việt Nam.
Theo số liệu
thống kê Uỷ hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình chiến thì ngoài những người kinh
là nạn nhân của chế độ cộng sản hoặc giáo dân Công giáo thì trong số dân
di cư vào Nam, còn có những người thuộc dân tộc thiểu số đã từng theo
quân đội Pháp chống Việt Minh. Trong đó có khoảng 45.000 người Nùng vùng
Móng Cái và 2.000 người Thái và Mèo từ Sơn La và Điện Biên cũng đã gồng
gánh con cái, theo đường bộ đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam.
Ngày 9 tháng 8
năm 1954, chính phủ Quốc Gia Việt Nam của tân Thủ tướng Ngô Đình Diệm
lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn ở cấp một bộ trong nội các với ba nha đại
diện, một ở miền Bắc, một ở miền Trung và một ở miền Nam để xúc tiến
định cư. Thêm vào đó là Uỷ Ban Hỗ Trợ Định Cư, một tổ chức cứu trợ tư
nhân giúp sức.
Đối với sinh
viên đại học, Bộ Tư Lệnh Pháp dành 12 chuyến bay trong hai ngày 12 và 13
Tháng 8 đưa khoảng 1200 sinh viên miền Bắc vào Nam. Ước tính chỉ khoảng
1/3 ở lại còn 2/3 chọn di cư.
Ngày 04 tháng 8
năm 1954 cầu hàng không nối phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn trong Nam
với các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai, Hà Nội và Cát Bi, Hải Phòng ngoài Bắc
được thiết lập. Nỗ lực đó được coi là cầu không vận dài nhất thế giới
lúc bấy giờ (khoảng 1.200 km đường chim bay). Phi cảng Tân Sơn Nhứt trở
nên đông nghẹt; tính trung bình mỗi 6 phút một là một máy bay hạ cánh và
mỗi ngày có từ 2000 đến 4200 người di cư tới. Tổng kết là 4280 lượt hạ
cánh, đưa vào 213.635 người.
Ngoài ra, một
hình ảnh quen thuộc với người dân tỵ nạn là "tàu há mồm" tiếng Anh là
Landing Ship Tank viết tắt là LST- đón người ở gần bờ rồi chuyển ra tàu
lớn neo ngoài hải phận miền Bắc. Các tàu thủy vừa hạ xuống, hàng trăm
người đã giành lên. Các tàu của Việt Nam, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Trung Hoa,
Ba Lan... giúp được 555.037 người "vô Nam". Ngoài ra cũng có tới
102.861 người tự tìm đường bộ hoặc ghe thuyền và phương tiện riêng để tự
túc di cư vào Nam, lánh nạn cộng sản miền Bắc.
Được sự trợ
giúp tận tình của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, những người di cư chúng
tôi rất sớm ổn định cuộc sống trên quê hương mới trên nhiều tỉnh thành ở
miền Nam, với những tên gọi thân quen của những làng xã, phố thị bản
quán của chúng tôi ở miền bắc như Bùi Chu, Phát Diệm hoặc Tân Hoá, Tân
Thanh tức Thanh Hoá mới, Tân Phát tức Phát Diệm mới, Tân Hà tức Hà Nội
mới… với mong muốn bảo lưu được các nét đẹp văn hoá của quê xưa trên
vùng đất mới còn tiềm ẩn nỗi nhớ quê hương bản quán, của người những
người vì lý tưởng tự do mà phải xa rời nơi đó.
Bọn Ác Ôn Côn Đồ Đáng Nguyền Rủa
Biến cố 30
tháng Tư năm 1975, một lần nữa mang hiểm họa cộng sản đến cho toàn dân
miền Nam, và cho cả người Bắc di cư chúng tôi, những người đã một lần
phải lìa bỏ quê hương bản quán để lánh nạn cộng sản 21 năm về trước.
Những tưởng chúng tôi đã vĩnh viễn thoát khỏi họa cộng sản rồi, nào ngờ
đâu cái biến cố 01 tháng 11 năm 1963 lại báo hiệu cho chúng tôi về một
hiểm họa cộng sản mới, và điều đó đã ứng nghiệm lời tiên liệu của ông Cố
Vấn Ngô Đình Nhu phát biểu trong một cuộc họp của Tổng Đoàn Thanh Niên
Dân Vệ tháng 10 năm 1962 tại Trung Tâm Huấn Luyện Thi Nghè, rằng “Nếu
chính phủ này bị ngoại bang và tay sai lật đổ thì 12 năm sau (tức là năm
1975) Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị rơi
vào tay cộng sản.”. Thế là hàng triệu người Việt lại phải ra đi tìm tự
do mà không có bất cứ sự sắp đặt nào của quốc tế! Những người Bắc 54
của chúng tôi lại một lần nữa phải “di cư” để lánh nạn cộng sản thêm một
lần nữa trong đời. Thật là ai oán! Sao chúng tôi lại phải hai lần tắm
trên một dòng sông? Điểm khác biệt là lần này chúng tôi ra đi không được
sự bảo trợ nào của quốc tế, mà chúng tôi phải trả chi phí cho chuyến đi
bằng vàng, bằng máu và cả bằng sinh mạng của chúng tôi nữa. Bởi người
Ta đã sát hại Cụ Diệm, vị ân nhân của chúng tôi rồi… còn ai nữa đâu để
chở che cho chúng tôi trên bước đường gian nan đi lánh nạn cộng sản lần
thứ hai này, trách sao chúng tôi không phải trả
giá.
Một Lủ Ác Ôn Côn Đồ Đáng Nguyefn Rủa, Đã Giáng Tiếp Dâng Miền Nam CHo Cộng Sản
Nhiều người
cho rằng chính những kẻ phản loạn và ăn cháo đái bát như Trần Thiện
Khiêm, Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Văn Thiệu,
Nguyễn Hữu Có, Lê Văn Nghiêm, Đỗ Mậu, Phạm Xuân Chiểu, Trần Văn Minh,
Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính và Lê Văn Kim… là những tội
đồ của dân tộc, là những con chó phản chủ đã gián tiếp dâng miền Nam
cho cộng sản để cả dân tộc phải lầm than… Riêng tôi là những người sinh
sau đẻ muộn, chúng tôi không dám phán xét ai cả, mà chỉ tâm niệm rằng vì
nghiệp chướng của dân tộc Việt Nam quá nặng nên đã đã trót sinh ra Hồ
Chí Minh và những kẻ “ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” đó mà thôi. Vả lại,
trên bước đường di tản nhọc nhằn
rồi những năm tháng sống lưu vong nơi đất khách quê người vật vờ như
cái bóng, những kẻ đó chắc cũng đã nhận ra tội ác và lầm lỗi của mình
đối với một vị tổng thống anh minh, cũng như đối với đất nước, đối với
dân tộc Việt Nam, khi vì tiền, bàn tay của họ đã vấy máu của Người đã
ban phát cho họ những ân huệ, bổng lộc và chức tước... Đó là sự trừng
phạt không nhỏ, và chắc chắn với những ray rức đó trong suốt những năm
cuối đời trong kiếp sông lưu vong, khi nhắm mắt xuôi tay, trở về với
đất, chắc chắn linh hồn của họ sẽ không bao giờ được siêu thoát. Nhất là
lịch sử ngàn đời của dân tộc Việt sẽ phán xét họ.
Tôi viết lên
bài này chỉ là để làm tròn ước nguyện của ông tôi trước khi qua đời đó
là xin được tỏ bày lòng tri ân của chúng tôi đối với NGÔ TỔNG THỐNG và
Nền Để Nhất Cộng Hòa đã một lần giải thoát chúng tôi khỏi ách cộng sản
vào năm 1954 đó.
Như một nén hương lòng tưởng nhớ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét