Đỗ
Bình
Hành trrình vào cõi thơ là
làm một cuộc phiêu lưu vô tận. Thơ vốn sãn trong thiên nhiên, hàm chứa nhiều
tính chất trong trời đất. Ngôn ngữ của thơ đôi khi ẩn trong văn, nhạc và hội
họa bắt nguồn từ cảm xúc tâm hồn. Trong nền văn học Việt Nam thi phẩm Ðoạn
Trường Tân Thanh của đại thi hào Nguyễn Du không những là một tác phẩm trác
tuyệt hàng đầu của đất nước mà còn là đóa hoa muôn sắc trên thi đàn quốc tế.
Thi phẩm được dịch sang nhiều thứ tiếng ở những quốc gia có nền văn học cao như
Pháp, Anh , Đức, Ý, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Hoa, Nga, Tiệp, Hung, Ba Lan,
v.v, năm 1965, tác giả Nguyễn Du đã được tổ chức Văn hóa Liên Hiệp
Quốc UNESCO đã vinh danh là một đại văn hào của thế giới. Rất nhiều văn nhân,
họa sĩ, trí thức, học giả, nhà phê bình..vv.. đã viết, phân tích, diễn thuyết,
minh họa, biên kịch, cải lương… về giá trị tác phẩm của thiên tài Nguyễn Du qua
những nét đẹp về phương diện văn chương, tư tưởng và hội họa..vv…
Những năm gần đây truyện
Kiều đã được nhìn qua nét đẹp nghệ thuật âm nhạc, giới nhạc sĩ đã thực hiện phổ
nhạc Đoạn Trường Tân Thanh, đã gieo vào vườn
hoa nghệ thuật thêm sắc màu.
Thơ và nhạc là hai nghệ thuật riêng biệt nhưng rất khắn khít nhau làm say
đắm lòng người». Thơ là nghệ thuật của «lờì», nhạc là nghệ thuật
của «âm thanh. . « Thơ phổ nhạc là nghệ thuật đem thêm âm
hòa với âm thanh sãn có trong thơ, hoặc thay đổi âm thanh của thơ chuyển thể
thành những nốt nhạc để hát.
Trong 3254 câu thơ
Kiều, những thanh bằng trắc tạo những nốt trầm bổng cao độ chỉ là “nhạc thơ” có sẵn chứa trong câu thơ.
Trong khi “thơ trong nhạc” hay còn
gọi là “tính nhạc” gồm những hình
tượng, ngôn ngữ được ngắt nhịp theo tiết tấu riêng để diễn tả giai điệu toàn
bài chuyên chở tứ thơ. Trong thi tập Đoạn Trường Tân Thanh gồm khá nhiều câu,
chữ, chứa sẵn nhạc thơ tạo nên những tiết tấu, ngắt nhịp, xuống câu. Ví
dụ :
Nhịp 2 gồm 3 từ:
“ Mai cốt cách/ tuyết tinh thần.
Nhịp 4 gồm 2 từ:
Mỗi người/ một vẻ/ mười phân/ vẹn mười….”
Hoặc có thể phân làm 2 nhịp gồm 4 từ :
«Mỗi người một vẻ / mười phân vẹn mười…»
Hay những câu nhịp 2 gồm 3 từ
“ Làn thu thủy/ nét xuân sơn
Và nhịp 2 gồm 4 từ:
Hoa ghen thua thắm/ liễu hờn kém xanh”..vv…
Để đọc, hay hát trọn vẹn
toàn thi phẩm Kiều, người nghệ sĩ đã sáng tạo ra cách ngâm lảy Kiều, sa
mạc..vv.. giúp giới mộ điệu thưởng lãm những cái hay, nét đẹp của lời thơ ý
truyện bằng âm thanh. ». Ngôn ngữ thơ trong truyện Kiều là những hình
tượng đặt vào những thanh âm bằng trắc tạo thành những thang nhạc, cung bậc
trong thơ diễn tả tình tiết, tâm lý những khía cạnh độc đáo từng nhân vật trong
truyện. người nhạc sĩ sẽ đồng cảm với tác giả hòa vào từng con chữ để thấy cái
sâu lắng chất chứa những âm thanh như tiếng kêu ai oán: « Đoạn Trường Tân
Thanh »
Nhạc sĩ Phạm Duy là người
tiên khởi đem âm nhạc vào Kiều, ông lựa những đoạn, câu thơ chứa nhiều tính
nhạc trong Kiều phổ thành ca khúc. Nhạc sĩ đã dung hợp nhạc giao hưởng tây
phương với nhạc ngũ cung, trong đó chất ngũ cung để câu nhạc dễ luyến láy diễn
tả được ý thơ, chất giao hưởng tạo cho câu nhạc được êm, vút cao, trầm bổng
theo ý nhạc mà không theo thanh bằng trắc của vần thơ lục bát. Nhạc sĩ Phạm Duy
gọi là: Minh Họa Kiều. Mấy năm gần đây dòng thơ phổ nhạc ở trong nước cũng như
hải ngoại nở rộ, thơ nương nhạc chấp cánh, nhạc dựa thơ bay cao, cho dù muốn
phổ được một bài thơ « đạt » thành ca khúc hay, đúng nghĩa là một nhạc phẩm nghệ thuật rất khó !
Phổ thi tập Kim Vân Kiều
thành nhạc là một việc làm rất khó, cái khó nhất là vì đó là một tác phẩm lớn
của dân tộc đòi hỏi nhạc sĩ phải có thực tài, phải hiểu về thi ca, nắm bắt được
cái tinh hoa của thơ qua tính nhạc toàn thi tập, những sắc màu hội họa của ngôn
ngữ thơ, nhất là tư tưởng của hồn thơ.
Nếu không thì chỉ phổ « cho lấy có »vì thiếu vắng những tính chất trên
sẽ làm ảnh hưởng đến tuyệt tác. Do đó ít có nhạc sĩ nào dám đụng đến truyện
Kiều.
Một bài thơ đã được phổ nhạc,
nếu lấy một đoạn thơ lục bát của một tác giả khác mà đem ráp vào đoạn lục bát,
mà vẫn hát được thì bài thơ sẽ chẳng còn riêng của một tác giả nào, và đoạn
nhạc được phổ cũng không do cảm xúc từ ý thơ mà dệt thành giai điệu ? Muốn phổ
một bài thơ, hoặc toàn tập thi phẩm, nhạc sĩ phải dàn trải giai điệu,
nhịp điệu, sắp đặt thể loại soạn thành những cấu trúc đoạn nhạc khác nhau;
nhưng vẫn hài hòa, tạo ra từng phân đoạn hợp với tình tiết câu thơ theo nhân
vật trong truyện. Cái khó của thơ lục bát là nhịp mạnh thường rơi vào cuối câu
vần bằng, do đó nhạc sĩ phải khéo dùng những biến cung để dòng nhạc chuyển tiếp
linh động không nhàm chán, lê thê. Từ trước đến nay những bài thơ lục bát nổi
tiếng, nếu được phổ thành nhạc, hầu hết những bài thơ đó không dài quá 30 câu
để nhạc sĩ dễ cảm nhận phổ thành ca khúc. Muốn thực hiện bản trường ca, nhạc sĩ
phải bỏ thời gian để phân tích dàn trải cấu trúc toàn thi tập, tạo những thể
điệu, những chuỗi hình nốt, giai điệu, tiếp nối nhau diễn tả dựa trên lời thơ
không gián đoạn ý mà soạn cấu trúc nhạc theo lối tây phương, nhưng vẫn giữ được
chất nhạc Việt. Điểm khó nữa đối với một thi phẩm lớn là không được sửa lời
thơ, hay đổi thứ tự chữ để giai điệu, câu nhạc có kết hay.Do đó nhạc sĩ phải
dừng nhiều biến cung thăng, giảm để dòng nhạc ít quay về chủ âm (tonique), hoặc
khéo léo dùng những thể điệu, tiết tấu, uyển chuyển của dòng nhạc đương
đại.. tạo sự bìến đổi cấu trúc giai điệu thành từng đoạn khác nhau làm phong
phú ý nhạc. Trong số những nhạc sĩ phổ truyện Kiều ngoài nhạc sĩ Phạm Duy, ở
hải ngoại còn có: Nhạc sĩ Quách Vĩnh Thiện đã phổ toàn tập Kim Vân Kiều, thực
hiện bản trường ca Đoạn Trường Tân Thanh nhạc sĩ Quách Vĩnh Thiện đã gieo vào
vườn hoa nghệ thuật một hạt mầm để ươm thêm sắc màu cho muôn hoa bằng những
dòng nhạc khai phá sáng tạo của riêng ông. Đây cũng là tấm lòng bày tỏ sự ca
ngợi thi phẩm và cảm ơn tác giả thi hào Nguyễn Du đã cho đời một tác phẩm hay,
và cho nhạc sĩ một nguồn cảm hứng phổ nhạc.
Ngoài ra, truyện Kiều
còn được chuyển thể thành một vở ca kịch
đương đại dàn dựng theo phong cách Broadway, được nghiên cứu từ bản dịch Anh
ngữ tác phẩm Kiều“Tale of Kieu”do nhà soạn kịch Kiêm đạo diễn Burton Wolfe kết hợp cùng nhà soạn nhạc Scott
Gehman, và Giáo sư, nhạc sĩ Linh Phương chuyển dịch lời ca tiếng Anh ngược lại
tiếng Việt. Ở trong nước có nhạc sĩ Vũ Đình Ân phổ những đoạn mang nhiều
tính nhạc trong toàn tập, soan thành một đại hợp xướng Truyện Kiều, với sự cố
vấn nghệ thuật Giáo sư nhạc sĩ Ca Lê Thuần.
Ttrong cõi bất tận
của âm thanh, những dòng nhạc hôm nay đi vào lòng người. Thơ và nhạc quyện
nhau, nhạc nhập vào thơ giúp những con chữ thơ nằm bất động trên trang sách
được những người yêu thơ thưởng lãm bằng mắt, cảm nhận bằng tâm, nay hồn thơ
cất lên giai điệu, tiếng hát truyền cảm, diễn tả tâm trạng, cảm xúc từng nhân
vật trong tác phẩm bằng một thực thể sống động, thoát khỏi thế giới ảo, mơ hồ. Người nhạc sĩ hôm nay phổ thơ có nhiều sáng
tạo, không chỉ dựa vào cái thanh bằng trắc có sãn cao độ trầm bổng trong
thơ, mà phổ cái hồn thơ, cái tư tưởng, hay những hình ảnh ngôn ngữ trong thơ
mang màu sắc hội họa…Chẳng có nhạc sĩ nào nhân danh sự sáng tạo dám viết
lệch cảm xúc của thi sĩ ? Không ai lại soạn một khúc nhạc thật buồn để
mừng ngày vui hội ngộ của gia đình Thúy Kiều, và ngược lại không thể viết những
tiết tấu giai điệu của thể loại nhạc kích động, cuồng loạn, khi Thúy Kiêu đang
gởi mình vào chốn thiền tu ?
Những ai cảm tác về truyện
Kiều, chắc sẽ cảm nhận được nỗi cô đơn tư tưỏng của Nuyễn Du khi gởi gấm tâm sự
vào tác phẩm, tác giả đã than rằng:
«Bất tri tam bách
dư niên hậu,
Thiên hạ hà
nhân khấp Tố như »
:300 năm sau mới có
người hiểu mình !. Qua sự thâm
thúy của tác phẩm tư tưởng, đượm đầy triết lý nhân sinh, người đọc hôm nay đã
hiểu, và khám phá được cái lẽ đạo trong Kiều. Ở một cõi nào đó , thi hào Nguyễn
Du sẽ vui, khi biết ở thời đại sau vẫn còn nhiều người ca ngợi, và tưởng nhớ
đến ông. Tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh vẫn là nguồn cảm hứng cho đời diễn
thuyết, biên khảo, sáng tác ở các bộ môn nghệ thuật , trong đó có giới nhạc sĩ
vẽ lại chân dung truyện Kiều bằng âm nhạc. Đó phải chăng là tấm lòng người thời
nay nhớ và tri ân người xưa ?
Paris…
Đỗ Bình
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét